Khi rời khỏi Thiên Câu mịt mờ sương khói phảng phất máu tanh, Chu Ngộ Tâm liếc nhìn cánh cửa bảo cấu nguỵ tạo bằng bóng đá ngấn nước, lại dõi mắt nhìn dãy núi hùng vĩ trập trùng, sắc biếc ngút ngàn, liên miên bất tận. Tận cùng của chân trời là một dải mây lững lờ trôi nổi. Bảo cấu đang ẩn mình ngay trong dãy núi miên man kia, thế nhưng dưới gầm trời này, duy chỉ hậu duệ của Lỗ gia mới có thể tìm ra bảo cấu. Dưới gầm trời rộng lớn, liệu có ai biết được hậu duệ của Lỗ gia đang ở nơi đâu? Hoặc có lẽ, họ chính là áng mây đang trôi nổi cuối chân trời.
o O o
Lúc phó quan Ngô tới vùng giao giới Xuyên Tạng, thời gian đã quá nửa đêm. Vài chục cây đuốc bằng gỗ thông tẩm mỡ bò Tây Tạng cháy lép bép, chiếu sáng rực một phạm vi vài chục bước chân. Nhưng trước mắt càng sáng sủa, càng khiến cho bóng đêm ở phía xa thêm thẳm sâu đặc quánh, không biết liệu có ác quỷ hung ma nào đang rình rập.
Có điều bận rộn sẽ khiến người ta quên đi sự sợ hãi, đám người do phó quan Ngô dẫn theo, ngoài một vài người vẫn cảnh giác trông chừng bốn phía, những người còn lại đều tất bật luôn tay.
Tuy phó quan Ngô không đích thân tham gia, song luôn miệng hò hét, sai khiến, đốc thúc không ngơi nghỉ lấy một giây. Xem ra, ông ta còn sốt ruột và căng thẳng hơn cả những người đang tay chân bận bịu.
Phó quan Ngô nghe theo lời dặn của Lỗ Nhất Khí, dẫn người tới đất Xuyên trước. Nào ngờ trên đừng gặp một người đồng hương làm quan chấp hành ở phủ đại soái Tứ Xuyên, bị người đồng hương này bán đứng cho đại soái Tứ Xuyên. Thì ra bản thân phó quan Ngô cũng không hay biết, sau khi ông bí mật chuồn khỏi thành Bắc Bình, các lộ quân đều đồn đại rằng ông đã dẫn người đi tìm bảo bối. Đồn thổi lắm, thêu dệt nhiều, cuối cùng ông ta đã bị thổi phồng thành một thần nhân có thể nhìn ra kho tàng sâu trong lòng đất. Bởi vậy, vừa tới phủ đại soái Tứ Xuyên, ông đã được tiếp đón vô cùng long trọng, song bên cạnh đó, cũng bị thủ hạ của đại soái kiểm soát gắt gao. Bởi lẽ đại soái rất muốn có một nhân tài như vậy để giúp ông ta đào trộm mộ cổ, vơ vét tiền của để bổ sung kinh phí cho quân đội.
Phó quan Ngô không còn cách nào khác, đành phải nhận lời đi đào mộ cổ, sau đó đưa người và vật dụng tới vùng giáp ranh đất Tạng. Ý đồ của ông rất rõ ràng, hy vọng có thể gặp Lỗ Nhất Khí ở đây, tới lúc đó muốn đào tìm kho báu hay chạy thoát thân, hẳn cũng không có gì khó.
Nhưng đã nhiều ngày trôi qua, không những không gặp được Lỗ Nhất Khí, mà với cả đống người và trang thiết bị mang theo, ông ta cũng chẳng đào được thứ khỉ mốc gì, khiến đại soái đùng đùng nổi giận, cảm thấy phó quan Ngô đang giỡn mặt mình. Ông ta đã đưa ra lời đe doạ, nếu vẫn không đào được mộ lớn, sẽ chôn sống luôn phó quan Ngô xuống đáy mộ. Bởi vậy phó quan Ngô đã đặt hết tâm huyết vào ngôi mộ nằm dựa vào chân núi trước mặt, hy vọng nó có thể giúp ông thoát khỏi mối nguy kề cổ.
– Trưởng quan Ngô, thuốc nổ đã bố trí xong xuôi, nhìn vào vết tích đường vào huyệt mộ, lát nữa thôi sẽ có thể nổ tung tới vị trí tường kim cương. – Người báo cáo tình hình với phó quan Ngô là một tay trộm mộ tài giỏi mà phủ đại soái chiêu mộ được.
– Thuốc nổ có quá nhiều không đấy, đến lúc đó lại sập tận nóc thì nguy! – Phó quan Ngô lo sợ những món quý giá trong mộ sẽ bị thuốc nổ phá huỷ.
– Không đâu! Nhìn vào chu vi, thì huyệt này chí ít cũng có đến ba tầng mộ thất. Cho dù có nổ sập cả tường kim cương, cũng chỉ tới gian mộ thất ngoài cùng được thôi.
– Vậy thì mau châm lửa đi, trời sắp sáng rồi. Vật quý trong mộ gặp ánh sáng mạnh là hỏng bét!
Tuy đã nghe phó quan Ngô giục giã, song tay trộm mộ vẫn đứng đờ ra không nhúc nhích, chỉ thấy mắt mũi trợn trừng, vành tai giật liên hồi kỳ trận.
– Nghe thấy gì à? – Phó quan Ngô lo lắng hỏi.
Tay trộm mộ không trả lời, sắc mặt xám ngoét đầy sợ hãi. Dưới ánh đuốc chập chờn, trông vẻ mặt hắn ma quái dị thường. Tiếp đến, cơ thịt trên mặt hắn bắt đầu giật lên rùng rùng theo một tiết tấu quái dị, sau đó là cả người rung giật.
Phó quan Ngô cũng rung lắc thân hình với một tiết tấu quái đản y hệt, thân hình đã không thể nào kiểm soát nổi nữa. Bởi vì toàn bộ mặt đất đang rung lên bần bật, biên độ rung lắc mỗi lúc một kịch liệt hơn.
– Là phía dưới! Nắp sắp nứt toác rồi! – Tay trộm mộ chỉ vào ngôi mộ lớn, hét toáng lên, tiếng hét đứt quãng trong cơn rung lắc điên cuồng. Vừa dứt lời, tay trộm mộ lập tức ngã sấp luôn xuống. Trong đám người xung quanh, kẻ nào nhanh nhẹn thì bắt chước ngay tay trộm mộ, nằm sấp xuống cả lượt; kẻ nào chậm chạp vẫn đứng trơ ra tại chỗ, mặt trợn trừng miệng há hốc vì khiếp đảm.
Biên độ rung lắc đã vô cùng dữ dội. Ngay sau đó, từ dưới lòng đất vọng lên một tràng những tiếng gầm rú khủng khiếp vang rền, tựa như một con yêu quái khổng lồ đang lồng lộn trong tầng sâu huyệt mộ chuẩn bị xông ra.
Gần rồi, đã rất gần rồi. Phó quan Ngô phán đoán, nếu luồng sức mạnh quái đản dưới lòng đất kia phá đất chui lên, thì vị trí nó xông ra có lẽ chính là ngay trước mặt ông. Bởi vậy phó quan Ngô không nằm ệp xuống, mà muốn bỏ chạy. Song đất dưới chân chao đảo liên hồi, cố gắng thế nào cũng không thể cất bước.
Chuỗi âm thanh kỳ lạ đột nhiên ngưng bặt, mặt đất chao đảo chốc đã lặng phắc. Những thân hình đang gắng gượng hết sức để đứng vững trong cơn rung lắc nhất thời không phản ứng kịp, theo nhau ngã dúi dụi. Phó quan Ngô không ngã, hai chân ông ta vừa lỏng ra đã quỳ sụp trên đất, đối diện với tấm bia đá nứt toác.
Tay trộm mộ đang bò lồm cồm trên đất. Hắn xưa này ăn cơm giang hồ, nên phản ứng nhanh nhẹn hơn hẳn đám quân binh. Âm thanh và cơn rung lắc vừa chấm dứt, hắn đã lập tức nhảy phắt dậy. Nhìn thấy phó quan Ngô đang quỳ trước bia mộ, lập tức lao vụt tới, chụp lấy hai tay phó quan Ngô kéo giật về phía sau, miệng bật ra vài chữ run rẩy:
– Ma cứng gối! Ma cứng gối!
“Ma cứng gối” là một truyền thuyết lưu truyền trong giới trộm mộ, nói rằng nếu đào nhầm mộ hung huyệt ác, ma quỷ trong mộ sẽ tác oai tác quái, khiến hai đầu gối kẻ trộm mộ cứng đờ mà quỳ sụp phía trước mộ hoặc bên trong mộ. Nếu không được giải cứu kịp thời, cuối cùng máu đông người cứng mà chết, khi chết không có thương tích, chỉ có khuôn mặt là tím bầm biến dạng. Nếu giải thích một cách khoa học, là do trong kiến trúc bảo vệ mộ có chứa chất độc, hoặc xác chết đã được ngâm trong chất độc đề phòng thối rữa, sau một thời gian dài, độc tố sẽ bốc hơi thành thể khí. Khí độc sẽ hoà lẫn với các chất khí khác trong hầm mộ, tạo thành một hỗn hợp khí khá nặng, chìm lắng dưới nền của mộ thất. Nếu chui vào trong hầm mộ kiểu này mà không thông gió kịp thời, khí độc sẽ xâm nhập vào chân trước tiên, khiến tế bào và hệ thống thần kinh ở chân tê liệt, hoại tử. Hai chân cứng đờ không đứng vững, cơ thể tự nhiên sẽ quỳ sụp xuống. Lúc này, nếu khí độc dâng lên mũi miệng, sẽ lập tức tắc thở mà chết.
Tay trộm mộ mới lôi phó quan Ngô đi được ba, bốn bước, phó quan Ngô đã đứng bật dậy bước đi theo hắn. Tay trộm mộ sững lại, lập bập hỏi:
– Không phải là ma cứng gối ư?
– Không phải! Trời ơi! Chuyện gì thế này?
Chính vào lúc này, đất đá dưới chân họ bỗng âm thầm nhúc nhích, rồi một khoảng đất to cỡ cỗ xe hai ngựa từ từ trồi lên trên.
– Chạy mau, quanh mộ có nút lẫy! – Tay trộm mộ cuống cuồng kéo phó quan Ngô chạy tới một tảng đá nhô ra ở bên cạnh, còn chưa tới nơi đã tung mình nhảy vụt đi, lăn lông lốc đến phía sau tảng đá.
“Rầm… Rầm… Rầm!”
Ba tiếng nổ xé trời dội lên liên tiếp nghe muốn rụng tim vỡ mật. Đá vụn bắn tung toé, bụi đất bốc mịt mù. Một khối đá vuông vức to tướng bật nhào khỏi mặt đất, rồi nện xuống “uỳnh” một tiếng như trời giáng.
Xung quanh đã yên tĩnh trở lại, bụi đất tung mù cũng dần tản bớt. Đám người trộm mộ vẫn nằm bò toài trên đất, hoặc cuộn mình chui rúc trong các khe rãnh xó xỉnh, đến thở mạnh cũng không dám. Đuốc rơi vãi tứ tung trên đất, ánh lửa phập phù chập choạng như sắp tắt đến nơi.
Một hồi lâu sau, tay trộm mộ và phó quan Ngô cuối cùng cũng đã lấy hết dũng khí bước ra từ phía sau mỏm đá, nem nép tiến về phía khối đá to lớn vừa bật ngược lên.
Khối đá bật lên để lộ ra một con đường dốc. Nhìn vào mặt đường và vách tường hai bên, đoán rằng có lẽ đây là đường thông ra ngoài của ngôi mộ lớn.
Tay trộm mộ nhặt một hòn cuội tròn nhẵn ném xuống con đường, hòn cuội lập tức lăn đi lông lốc tới tít xa mới dừng lại.
– Không phải rồi, khoảng cách này đã vượt qua mộ thất đầu tiên. Ngôi mộ này tại sao lại không có cửa kim cương nhỉ? – Tay trộm mộ lại lôi ra một vật hình cầu, châm vào một ngọn đuốc gần tàn đang lăn lóc trên mặt đất. Vật này được giới trộm mộ chuyên dùng để dò đường, xua đuổi âm uế, gọi là cầu gai ngâm dầu. Quả cầu kết bằng gai trông không lớn, song lại cháy thành một khối lửa không nhỏ chút nào. Quả cầu lửa lăn dọc theo đường hầm, khi nó lăn được một nửa, tay trộm mộ vội vã bước vào theo.
Phó quan Ngô vội hô gọi những người khác cầm đuốc đi vào trong hầm mộ. Vài chục ngọn đuốc đã chiếu sáng rực đoạn đường hầm. Sau khi bước vào mới thấy, mộ thất cũng có cửa kim cương, song đã được mở ra. Tiếp tục vào trong là gian mộ thất bên ngoài và mộ thất bên cạnh, song nơi nào cũng trống huơ trống hoác, chẳng thấy bóng dáng một món tuỳ táng nào. Chỉ thấy cả đống lưỡi đao, mũi tên hoen gỉ gãy nát la liệt đầy đất.
Con đường hầm thông tới gian mộ thất chính rất khó đi, phải cúi gập lưng hoặc áp sát vách tường mới tiến lên được. Bởi vì trên nóc hầm treo lủng lẳng hơn chục súc gỗ tròn to tướng, dây xích buộc gỗ đã hoen gỉ tới thảm hại. Khi các súc gỗ đung đưa, chúng phát ra những tiếng cọt kẹt vô cùng rùng rợn.
Trong mộ thất chính, ngoài một cỗ quan quách cỡ bự, không có bất kỳ thứ gì khác.
– Thế này là sao? Chẳng có cóc khô gì cả! – Phó quan Ngô vô cùng thất vọng – Bật quan tài ra xem thử, không chừng đồ quý giá đều giấu cả trong đó!
– Không phải là không có, mà đã bị người khác vét sách rồi. – Tay trộm mộ nói – Quái lạ thật, bọn người đó chui vào đây bằng cách nào nhỉ? Lại còn lật ngược nút khảm trong mộ, cứ như cố ý dẫn chúng ta vào đây.
Phó quan Ngô nghe hắn nói vậy, có vẻ không hiểu lắm. Tay trộm mộ bèn giải thích một lượt cho ông ta nghe:
– Toàn bộ cơ quan của ngôi mộ lớn này được bố trí theo hình thức lực chồng nhau. Có nghĩa là khi khảm nút thứ nhất bị phá, lực đạo từ chốt lẫy của nó sẽ tăng cường vào khảm nút tiếp theo, như vậy, lực tác động của khảm nút tiếp theo sẽ càng mạnh mẽ hơn. Cứ tiếp tục tương tác như vậy, càng về sau, thế tấn công của khảm nút càng ghê gớm. Những tiếng động quái dị vọng lên từ trong lòng đất khi nãy là do có người đã phá bỏ toàn bộ các chốt lẫy trong mộ. Khảm diện “tường loạn hợp” trong mộ thất chính, bên ngoài có “gỗ lăn kẹp”, còn có “mưa tên bay”, “đao tròn mây cuốn”. Chúng ta dù có liều mạng xông vào, cũng chưa chắc đã tới được đây. Kẻ giải khảm trong mộ hẳn là cao thủ cực kỳ lợi hại, hơn nữa vừa mới đi khỏi chưa lâu. Vấn đề là hắn ra vào từ chỗ nào?
Phó quan Ngô như bừng tỉnh, vội vã đảo mắt quan sát khắp một lượt xung quanh, cuối cùng ánh mắt vẫn dừng lại ở cỗ quan tài duy nhất trong một thất.
– Người đâu, mau di chuyển quan tài!
Cỗ quan tài được dịch sang một bên, phía dưới hiện ra một đường hầm dài chật hẹp.
– Trời! Nhập huyệt từ bên dưới! Đây là thủ pháp dời non phá núi. – Tay trộm mộ đã nhận ra.
Nghe được lời này, phó quan Ngô đột nhiên như hiểu ra điều gì, vội nói:
– Bật nắp quan tài ra!
Nắp quan tài được lật sang một bên. Phía trong, ngoài mớ xương cốt khô queo như đất, còn có một phong thư, một phong thư còn thơm mùi mực.
Phó quan Ngô vội chụp lấy phong thư, trong lòng vô cùng rầu rĩ thất vọng. Ông biết mình đã bỏ lỡ mất một thứ quan trọng hơn gấp bội so với những món tuỳ táng trong hầm mộ.
– Người chưa đi xa, hiện tại đuổi theo vẫn kịp! – Có người nhắc nhở.
Song phó quan Ngô còn chưa kịp đưa ra quyết định, bên ngoài bỗng rộn lên tiếng kêu réo ầm ĩ. Âm thanh truyền vào từ cửa mộ, văng vẳng trong gian mộ thất âm u.
Phó quan Ngô vội vã xông ra khỏi đường hầm mộ, chỉ nhìn thấy trên không trung một vầng sáng rực rỡ như vô số đốm sao trời đang dần dần chuyển từ hình tròn sang hình chiếc rìu. Hình dạng này phó quan Ngô đã nhận ra, giống y hệt hình Lộng phủ của Lỗ gia. Vầng sáng hình Lộng phủ chỉ duy trì trên không trung chốc lát, rồi dần dần biến thành hình con chim bồ câu đang dang cánh bay, với phần đuôi như ngọn lửa cháy bùng. Chim bồ câu lấp lánh trên không trung một lúc rồi dần dần tắt lịm.
Phó quan Ngô đứng ngẩn người nhìn lên bầu trời đã tối tăm trở lại, đột nhiên như bừng tỉnh. Thứ quý giá kia ông vẫn chưa vuột mất. Ông bèn đưa phong thư đang cầm trong tay ra xem, bên ngoài phong thư chỉ vỏn vẹn một hàng chứ khải: “Khẩn cấp gửi tới Bán Sơn Lam ở đồng cỏ Tát Nguyệt Ngạch núi Cổ Mã”.
Lá thư của Lỗ gia. “Khẩn cấp”, đây cũng chính là nội dùng mà đợt pháo hoa vừa nhắn nhủ. Phó quan Ngô hiểu rằng, chuyện này mình cần phải thực hiện một cách cấp tốc nhất, trọn vẹn nhất có thể.
– Người đâu, mau chuyển lá thư này theo đường thư tín quân sự, nhất thiết phải đảm bảo tới nơi nguyên vẹn và nhanh chóng! – Ở vùng Xuyên Tạng hoang vu hẻo lánh, có lẽ không còn cách đưa thư nào an toàn và nhanh chóng hơn đường thư tín quân sự.
– Tính mạng của bản thân gia tộc đều trông cả vào nó! – Phó quan Ngô bồi thêm một câu đầy uy hiếp. Những người nghe thấy đều cảm tưởng rằng tình mạng của bọn họ đều trông chờ cả vào bức thư này, nhưng chỉ có phó quan Ngô mới biết, câu nói đó chỉ dành riêng cho ông.
Từ trên đỉnh đồi, Cửu thiên hoả ưng Viêm Hoá Lôi nhanh chóng trượt xuống chân dốc. Dưới chân dốc đã có một cỗ xe ngựa lớn đang chờ sẵn. Trên xe lố nhố năm sáu người, ai nấy sùm sụp áo choàng đen kín mít, đến khuôn mặt cũng che kín quá nửa. Có điều nhìn vào thân hình, có thể đoán ra trong bọn có cả nam và nữ.
– Cậu cả! Thư pháo hiệu đã nổ hết rồi! – Viêm Hoá Lôi nói với một người trong bọn họ.
– Tốt rồi, thư chuyển theo đường quân sự, ba ngày sau có thể tới tay Bán Sơn Lam. Chúng ta ở đây thêm ba ngày nữa, sau đó dẫn theo phó quan Ngô cùng đi! – Giọng nói của người này vô cùng điềm tĩnh, hơi thở hài hoà, song lại mang một uy thế không thể kháng cự.
Viêm Hoá Lôi nhẹ nhàng nhảy lên xe ngựa. Chiếc roi dài trong tay một người ngồi phía trước vút lên âm thầm giữa không trung. Bóng roi vừa lướt qua trước mặt ngựa kéo xe, vó ngựa lập tức lóc cóc khởi hành. Rất nhanh, cỗ xe đã biến mất trong khe núi dưới chân dốc.
Vào tảng sáng ba ngày sau, Bán Sơn Lam ở đồng cỏ Tát Nguyệt Ngạch núi Cổ Mã đã nhận được thư. Sau khi bóc thư, bên trong còn có một phong thư nữa. Trên phong thư đề: “Gửi pháp sư Vô Do chùa Thiên Long”. Ngoài những chữ này, còn có một đường loằng ngoằng trông rất quái lạ. Đường cong này tượng trưng cho thứ gì, chỉ có một số người biết được, trong đó có Bán Sơn Lam. Đó là hình vẽ một chiếc roi ngựa dài độc nhất vô nhị.
Bán Sơn Lam lập tức gọi tới một tay đàn em được việc nhất, dặn dò:
– Chuyển bức thư này tới pháp sư Vô Do chùa Thiên Long tại Đại Lý theo đường la ngựa.
Khi đó, từ đất Xuyên tới Vân Nam, cách nhanh nhất chính là đi theo đường la ngựa. Đường la ngựa đều do các băng nhóm dân gian kiểm soát, cũng giống như băng nhóm Ao Ca kiểm soát đường thuỷ tại đất Xuyên. Hơn nữa, do các băng nhóm trên đường la ngựa đều cần đến ngựa khoẻ và người đánh xe giỏi, bởi vậy rất nể mặt Bán Sơn Lam và Biện Mạc Cập. Bên cạnh đó, đường la ngựa cũng là con đường an toàn nhất.
Song người nhận thư cuối cùng lại không phải là đại sư Vô Do. Vậy bước tiếp theo sẽ phải chuyển thư bằng cách nào? Liệu đại sư Vô Do có thể đưa thư thuận lợi hay không?
Tuy tiết trời đã cuối thu, song ở vùng Hải Nam vẫn chưa cảm nhận được cái giá lạnh. Sa Khẩu đứng trên một tảng đá nhô trên mặt nước, dưới chân là mặt biển biêng biếc xanh trong, nhìn thấu cả rặng san hô và đàn cá bơi lội nhởn nhơ dưới đáy. Nhưng khác với thường ngày là ở chỗ, dưới nước lúc này ngoài san hô và cá lội tung tăng, còn có thêm những người đang bơi lặn như cá.
Sa Khẩu tuy đứng bên bờ, song lại không quan sát tình hình dưới nước. Bởi lẽ chỉ cần nhìn vào những con sóng dập dềnh và hướng lan toả của sóng nước, hắn đã có thể phán đoán về tình hình chiến sự dưới kia. Trận kịch chiến dưới nước sẽ kết thúc rất chóng vánh, tuy là một chọi ba, song giành chiến thắng lại là phe một người.
Cách chỗ Sa Khẩu đứng không xa, có một tảng đá to lớn hơn nữa. Hình dạng của tảng đá rất đặc biệt, giống như một nóc nhà nhô trên mặt nước. Xa xa ở mé phía nam tảng đá đó có một hòn đảo không lớn lắm. Dọc bãi cạn ven đảo có một vạt nhà bè, là chốn quần cư của gia tộc Đản sống trên thuyền chuyên nghề chài lưới. Lúc này đang có vài con thuyền gỗ nhỏ xuất phát từ phía nhà bè chèo về phía này.
Chính vào lúc đó, mặt nước dưới chân Sa Khẩu bỗng gợn lên vài gợn sóng nhọn hoắt rối loạn, ngay sau đó lại xuất hiện vài vòng xoáy nhỏ. Sa Khẩu biết trận chiến đã sắp kết thúc, chiêu thức của đao đâm cá đã hoàn toàn rối loạn, đao phá vỏ đã bắt đầu đòn tàn sát cuối cùng.
Quả đúng như vậy, chỉ chốc lát sau, một khối đỏ ngầu sủi bọt đã loang rộng và nổi lên mặt nước, một vùng nước trong xanh tinh khiết bỗng chốc trở nên vẩn đục. Trong khi những dòng đỏ ối vẫn đang tiếp tục cuộn trào, thì một thân hình mảnh mai xinh đẹp bỗng đột ngột lao vọt lên khỏi mặt nước, hệt như cá heo nhảy sóng. Sau khi vụt lên khỏi mặt nước, thân hình đó còn uyển chuyển xoay lắc vài nhịp trên không trung, lại có thể di chuyển ngang thêm một đoạn nữa, rồi nhẹ nhàng đáp xuống bên cạnh Sa Khẩu. Người vừa lao lên là một cô gái trẻ, mình mặc bộ đồ lặn bó sát người, không những thân hình thon thả yêu kiều, mà khuôn mặt cũng vô cùng xinh đẹp. Khiếm khuyết duy nhất ở cô là nước da ngăm đen. Song bất kể xét từ phương diện nào, cô đều không giống một người vừa hạ gục ba cao thủ trong cuộc hỗn chiến dưới nước.
– Giải quyết xong cả rồi? – Sa Khẩu hỏi.
– Xong rồi! – Cô gái không những dung mạo xinh đẹp, mà giọng nói cũng rất ngọt ngào dễ nghe.
– Nhìn vào chiêu thức, có nhận ra là lộ nào không? – Sa Khẩu lại hỏi.
– Không giống mấy lần trước, lần này dường như là vùng nước phía bắc.
Sa Khẩu không nói gì, chỉ ngoái đầu nhìn tảng đá ngầm giống hệt nóc nhà, vẻ mặt rất đăm chiêu.
– Lần này đã là lần thứ năm rồi. Hai lộ đầu tiên là từ Tiềm Võng đường ở vùng này. Hai lộ tiếp theo là bọn Phúc Kiến ở vùng biển phía đông và đám cao thủ bơi lội vùng sông ngòi Giang Chiết. Lần này, nhìn từ chiêu thức và phương pháp lấy hơi, có vẻ giống như một bang phái nào đó ở vịnh Bột Hải. – Cô gái trả lời.
Sa Khẩu vẫn nhìn chằm chằm vào tảng đá hình nóc nhà, không nói câu gì.
– Xem ra đối thủ đã nhắm tới khu vực này. Anh ơi, người mà anh nói bao giờ mới tới? Nếu không nhanh chóng xử lý đại sự nơi đây, đối thủ lại điều thêm cao thủ hoặc tập trung đông đảo lực lượng kéo tới, thì hai chúng ta sao có thể chống đỡ nổi? – Vẻ mặt cô gái vô cùng lo lắng.
– Đã tới rồi! Chúng ta gấp rút chuẩn bị thôi! – Không rõ Sa Khẩu nói “đã tới rồi” là ám chỉ người kia hay là đối thủ.
Sa Khẩu hướng về phía mấy con thuyền gỗ nhỏ phía xa, hét thật lớn vài câu bằng thứ phương ngữ không ai hiểu nổi. Dứt lời, phần lớn những con thuyền đó đều quay đầu trở lại, chỉ còn một con thuyền vẫn tiếp tục tiến về phía tảng đá ngầm.
– Anh ơi, anh bảo họ lập tức buông lưới móc câu và bẫy nước cuộn quấn mái chèo, nhưng những thứ đó chúng ta vẫn chưa chuẩn bị đủ số lượng cần thiết, nhiều nhất cũng chỉ có thể vây một nửa đài Mộc Triều thôi!
– Không kịp nữa rồi, vây được bao nhiêu biết bấy nhiêu. Bối Nữ, em xem mặt trời lại ngả về tây rồi, thuỷ triều vừa rút, toàn bộ đài Mộc Triều sẽ lộ diện! – Tuy nói như vậy, song vẻ mặt Sa Khẩu lại không tỏ vẻ gì sốt ruột.
Con thuyền nhỏ mau chóng chèo đến sát tảng đá, Sa Khẩu và Bối Nữ bước lên thuyền, di chuyển về phía tảng đá to lớn có hình mái nhà. Xa xa phía vạt nhà bè, rất nhiều thuyền nhỏ chở đầy đồ đạc cũng chèo về phía tảng đá. Một bầu không khí bận rộn và căng thẳng mau chóng lan toả xung quanh tảng đá ngầm to lớn.
Mặt trời lặn xuống rất nhanh, song thuỷ triều rút xuống còn nhanh hơn nữa. Khi chân trời phía tây chỉ còn lại một vệt đỏ lờ mờ, phần lớn tảng đá ngầm đã nhô lên khỏi mặt nước. Lúc này, trông tảng đá ngầm càng giống một toà lầu, một toà lầu phi vân kiểu dáng Đông Chu với phần mái chồng diêm hai tầng tám góc, nổi lên trên mặt nước mênh mông phẳng lặng, trông nổi bật và kỳ dị vô cùng.
Tảng đá ngầm nhỏ hơn mà Sa Khẩu đứng ban nãy cũng đã nhô cao trên mặt nước, tựa như một thanh kiếm sắc nhọn cắm vào sóng biển. Mặt nước vẩn máu đỏ ngầu bên tảng đá đã lại trong veo như cũ. Người dưới nước vẫn còn, có điều đã trở thành ba xác chết với bụng ngực phanh phui. Bầy cá tung tăng bơi lội hồi chiều giờ bắt đầu nhởn nhơ rỉa xác. Bỗng nhiên, không hiểu có chuyện gì, bầy cá chợt hốt hoảng dạt ra tứ phía.
Chỉ cần bước lên phía trước thêm vài bước, sẽ là vách đá dựng đứng. Độ cao mà mắt nhìn thấy được và độ sâu suy đoán được khiến Lỗ Thiên Liễu không đủ dũng khí để tiến về phía bờ mép thêm nửa bước chân.
Thiên Câu rất dài, tựa như có một lưỡi đao khổng lồ sắc ngọt đã chém toạc một đường thẳng tắp trên cao nguyên Vân Quý. Dọc theo Thiên Câu nhìn về phía xa, thấy phía dưới Thiên Câu cỏ cây rậm rạp, xanh tốt um tùm. Tuy rất e sợ độ cao của Thiên Câu, song ngút ngàn sắc biếc dưới khe lại mang tới cho Lỗ Thiên Liễu một cảm giác thân thiết như trở về nhà cũ.
Dưới ánh nắng mặt trời chói chang, từ sâu thẳm bên dưới Thiên Câu phơ phất bay lên những làn chướng khí nhàn nhạt đủ màu, tích tụ mỗi lúc một dày, khiến một dải Thiên Câu mờ ảo trong những sắc màu rực rỡ. Trong “Tây nam du dị tập” của Thi Thệ Kiệt đời Minh có đoạn viết: “Dưới rãnh vật thối rữa tích tụ, nắng chiếu vào thành sương mù. Sau giờ Ngọ sương mù trong rãnh mới bốc lên, tới nửa đêm thì tan, tuy màu sắc rực rỡ tựa cầu vồng, song cực độc không thể chạm vào… gọi là sương độc”. Nếu giải thích một cách đơn giản, sương độc chính là một dạng sương mù chứa độc tố. Tuy màu sắc vô cùng diễm lệ, song cũng giống như loài nấm, màu càng sặc sỡ lại càng độc.
Vết tích hình ngọn tháp lờ mờ in trên vách phía tây của Thiên Câu lúc này đã bị sương độc che khuất một nửa phía dưới, không còn nhìn thấy hình cửa vào. Vào buổi sáng, khi sương mù chưa toả, chỉ cần căn cứ vào sự phân bố sáng tối của ánh sáng, Lỗ Thiên Liễu đã phát hiện ra hình cánh cửa tuy trông có vẻ giản đơn, song toàn bộ bề mặt có độ lồi lõm nhịp nhàng, đó là một cách bố trí vô cùng tinh xảo.
Ngoài Lỗ Thiên Liễu, một người nữa cũng đã nhận ra nét tinh xảo trong đó. Người này là bạn thân của Lỗ Thịnh Nghĩa, hai người đã kết mối thâm giao khi Lỗ Thịnh Nghĩa tới tây nam tìm kiếm tung tích, chính là cao thủ làm khoá mở khoá Khoái Hoạt Tử. “Khoái” là họ thật, còn Hoạt Tử là biệt hiệu, có nghĩa là khe hở, nguyên do là vì ông ta méo miệng bẩm sinh, nên miệng lúc nào cũng vênh hở không ngậm chặt lại được.
Năm xưa Khoái Hoạt Tử đánh cược với một cao nhân tiền bối, kết quả là bị đối phương nhốt vào trong cửa Linh Lung khoá lạ thiên cổ chín vòng. Ở đây cửa cũng là khoá, khoá cũng là cửa, vận dụng chín vòng số thiên luân tuần hoàn tương khắc, lại thêm một nghìn cặp điểm chết Linh Lung, chỉ cần chạm nhầm một điểm chết, trật tự sắp xếp của toàn bộ số khoá sẽ lập tức đảo lộn hoàn toàn, tức là xoay chuyển sang một vòng thiên luân mới. Cũng có nghĩa là toàn bộ các phương pháp và trình tự mở khoá đều phải tính toán, sắp xếp lại từ đầu, sau đó lại phải lần lượt tiến hành giải chính xác từng điểm chết.
Khoái Hoạt Tử bị giam hãm trong cửa Linh Lung suốt mấy ngày trời vẫn không thể mở khoá thoát ra, cuối cùng nhờ có Lỗ Thịnh Nghĩa bên cạnh trợ giúp, gợi ý cho ông ta xuất phát từ cấu tạo của hình cửa, tháo dỡ bản lề cửa mà thoát thân. Đương nhiên, tháo dỡ bản lề không phải là cách mở khoá đường đường chính chính, nên xét về nguyên tắc thì Khoái Hoạt Tử đã thua. Có điều vị cao nhân tiền bối đã đánh cược thấy ông ta có thể thoát thân qua một lối tắt bất ngờ, một mặt vì yêu quý nhân tài, mặt khác cũng cảm thấy bản thân mới chỉ chú trọng tới kỹ xảo của khoá, mà chưa chú ý tới những chi tiết khác, bởi vậy đã chủ động thừa nhận mình thua Khoái Hoạt Tử. Nhờ đó, Khoái Hoạt Tử mới bảo toàn được danh dự giang hồ. Để biểu thị lòng cảm kích trước Lỗ Thịnh Nghĩa, Khoái Hoạt Tử đã hứa hẹn rằng, nếu đại sự của Lỗ gia tiến hành đến vùng tây nam, ông ta sẵn sàng ra tay tương trợ.
Nhìn vào hình dáng cánh cửa trên vách đá và sự phân bố lồi lõm sáng tối trên bề mặt, có vẻ rất giống với cửa Linh Lung chín vòng mà năm xưa Khoái Hoạt Tử đã phải bó tay không thể hoá giải. Nhưng nơi này tuyệt đối không giống như cửa Linh Lung chín vòng, bởi lẽ ở đây lấy vách đá làm khoá, nên không thể thiết lập chín vòng biến đổi. Do đó, nếu không may chạm lầm chỗ, sẽ khiến điểm chết, điểm khớp của toàn bộ khoá vỡ vụn, trở thành một ổ khoá chết mãi mãi không bao giờ mở được, nên không có cơ hội thử lại lần thứ hai.
Vách đá của Thiên Câu dựng đứng, lại cao vút, sâu hoắm, đến Lỗ Thiên Liễu cũng không dám tới gần. Thế mà lúc này lại có hai gã trung niên đang đứng sát mép đá, hơn thế nữa, còn nhoài cả nửa người dòm ngó xuống phía dưới mà quan sát. Hai người này là anh em ruột, người anh tên là Phong Sơn Tả, người dân nơi đây quen gọi là Toạ Sơn Phong; còn người em là Phong Sơn Hữu, thường gọi là Quá Sơn Phong. Hai anh em cùng là đệ tử gửi mệnh của chùa Thiên Long, đều mang những bản lĩnh độc đáo được rèn luyện nên từ chốn rừng sâu núi thẳm.
Phong Sơn Tả am hiểu về các loại thảo dược kỳ lạ có thể hoá giải trăm thứ độc. Đặc biệt hơn nữa là hắn có thể phân tích thành phần cấu tạo của sương mù chướng khí trong núi, từ đó tìm ra loài thảo dược thích hợp để ứng phó. Còn Phong Sơn Hữu có bản lĩnh đặc biệt là đánh giá hình núi, leo lên vách núi hiểm trở. Dù núi non có cheo leo chót vót đến đâu, cũng không có vị trí nào hắn không thể leo tới.
Quan Ngũ Lang và một lão già gầy gò nhỏ thó cùng ngồi dưới một gốc cây cách mép đá khá xa. Quan Ngũ Lang tay siết chặt cán đao, vẻ căng thẳng hiện rõ trên nét mặt. Cũng khó trách anh ta, trong những ngày qua, anh ta đã phải chịu đựng những cú tổn thương chưa từng có. Lần nào cũng thua liểng xiểng chỉ sau hai ba chiêu, đến một chút cơ hội cầu may cũng không có. Mà điều khiến anh ta không thể chịu đựng nổi chính là đối thủ chỉ đánh bại anh ta, mà không hề gây tổn thương đến cơ thể. Thật chẳng khác gì chơi trò mèo vờn chuột, đã huỷ hoạt dần niềm tin trong Quan Ngũ Lang.
Lão già nhỏ thó ngồi thảnh thơi hút thuốc, ngọn lửa liên tục nhảy nhót trong tẩu. Làn khói thuốc phả ra chẳng khác gì sương mù, cô đọng mà không tản mát. Khói thuốc phả ra mỗi lúc một nhiều, chồng chất lên nhau, tạo nên những hình thù kỳ quái, lạ lùng, tựa như một bức tranh sơn thuỷ lập thể, cũng lại tựa như khung cảnh thần tiên thu nhỏ, khói mây vấn vương, sương mù lãng đãng. Kỹ thuật nhả khói độc đáo này gọi là yên hoạ (tranh khói), ở vùng Vân Quý Xuyên trước kia thường có người chuyên biểu diễn loại hình nghệ thuật này ở quán rượu, quán trà. Nhưng chắc chắn những người biểu diễn chuyên nghiệp kia không sánh được với lão già này, tranh khói của họ không thể ngưng tụ lâu như của lão, bởi vì lão dùng khí để ngưng tụ khói. Lúc này, lão già đã phun ra không dưới mười bức tranh khói giống hệt nhau, hình dạng của chúng chính là dãy núi trập trùng ngút mắt xung quanh bọn họ.
Lão già gầy gò là bạn chí cốt suốt mấy chục năm của đại sư Vô Do, là bậc thầy khí công danh tiếng lừng lẫy trong giang hồ Thôi Vân Phi. Lỗ Thiên Liễu và Quan Ngũ Lang vừa tới vùng Tây Nam, đã bị mấy kẻ áo đen mũ lá sùm sụp bám riết, sau vài lần giao đấu thử, thấy chúng mình cứng như đá, đánh vào trơ trơ không có cảm giác gì, chỉ hai ba chiêu đã dồn ép Quan Ngũ Lang không còn đường đối phó. Bởi vậy, để ứng phó với đám cao thủ này, đại sư Vô Do đã mời Thôi Vân Phi tới giúp đỡ.
Thôi Vân Phi không những là đại sư khí công, mà còn là truyền nhân duy nhất của Kỳ Số các. Kỳ Số các cũng là một môn phái khảm tử tài nghệ cao cường trong giang hồ, đặc điểm nổi bật nhất của phái khảm tử này là lợi dụng địa hình địa mạo để bố trí các loại nút chết. Những kỹ pháp này đa số dùng để sát phạt ở những vùng đất hoang vu và trong quân sự. Nhưng lúc này, Thôi Vân Phi lại thổi ra tranh khói hình núi non, vì lão đã phát hiện ra những vị trí có thể lợi dụng để bố trí khảm nút trên dãy núi đều đã bị người khác chiếm lĩnh trước. Hơn nữa, đối thủ phần lớn dùng kỹ pháp của Kỳ Số các, trong khi kỹ nghệ này vẫn do lão ta nắm giữ, nên lão cảm thấy vô cùng kinh ngạc.
Trong đám Lỗ Thiên Liễu, có hai người đang ở trong trạng thái vô cùng căng thẳng. Một người chính là đại sư Vô Do của chùa Thiên Long, ông đang ngồi ngay ngắn trên một tảng đá vân vuông vắn, tay gõ mõ liên hồi, miệng lầm rầm tụng niệm chú ngữ “Minh huệ giải thoát”. Bên dưới tảng đá vân, có một hình người cứng đờ đờ đang nhảy nhót một vũ điệu vô cùng quái dị. Người này là Ngôn Hành Dạ, người Tương Tây, chuyên làm nghề đuổi xác. Năm xưa, ông đã từng cùng Lỗ Thịnh Hiếu chế tạo ra hòm nhốt xác chết ô chéo âm dương để bắt nhốt mụ ma đêm trên núi Dã Mão. Lúc này, Ngôn Hành Dạ không phải đang nhảy múa, mà là đang thực hiện một phép thuật hết sức kỳ bí, gọi là “Dẫn hồn hành”.
Cả thần chú “Minh huệ giải thoát” của đại sư Vô Do và “Dẫn hồn hành” của Ngôn Hành Dạ đều có tác dụng thu nhiếp hồn phách và trấn an niềm tin của con người. Lúc này, đại sư Vô Do mồ hôi đã rịn đầy trên trán, còn Ngôn Hành Dạ lưng áo ngực áo đều ướt đẫm cả mảng. Xem ra, hai người họ đang phải tiêu hao tâm lực và thể lực một cách nghiêm trọng.
Phía Chu gia ẩn phục ở đây không dưới trăm người, trong đó có không ít cao thủ thượng đẳng trong giang hồ. Hơn nữa, từ chỗ bắt đầu rặng núi tới phía dưới khe núi bên cạnh, còn bố trí dày đặc đủ loại khảm nút. Nút người, nút thú, nút độc, nút binh khí rải rác khắp mọi nơi, thiết kế tinh xảo, hoặc chặn hoặc giết. Nếu muốn xông qua đại cục dài dằng dặc với vài chục nút lẫy hiểm độc và trên trăm cao thủ rình rập ở đây, chỉ dựa vào đám người ít ỏi của Lỗ Thiên Liễu, e rằng còn khó hơn cả lên trời.
Tuy nhiên tất cả những thứ này vẫn chưa phải là những thứ đáng sợ nhất mà đám Lỗ Thiên Liễu buộc phải đối mặt. Đối thủ thực sự của họ chỉ là một người. Một gã thanh niên lặng phắc như đá tảng, sắc mặt như xác chết, cặp mắt xanh biếc như ngọc.
Lỗ Thiên Liễu không biết gã thanh niên này đã bám theo mình từ lúc nào, từ nơi nào, tuy rằng khí chất tao nhã và dung mạo anh tuấn của hắn rất dễ lưu lại cho người khác ấn tượng sâu sắc. Hơn nữa, khi Lỗ Thiên Liễu phát hiện thấy điểm bất thường, thì cô đã tới địa giới tây nam. Ngoài Quan Ngũ Lang, còn có Ngôn Hành Dạ và Khoái Hoạt Tử cùng đi. Thế mà cả bốn vị cao thủ lão luyện giang hồ đều không hề phát giác ra sự tồn tại của gã thanh niên kia. Chỉ tới khi Lỗ Thiên Liễu thi triển ba giác siêu phàm để tìm kiếm lối ra tại khe suối Thuý Hoàn, cô mới phát hiện ra sự xuất hiện của hắn.
Ám cấu cất giấu bảo bối ở vùng tây nam khởi công sớm nhất, tiêu hao nguồn nhân lực vật lực nhiều nhất, thiết kế và bố trí cũng hoàn mỹ toàn thiện nhất. Khi đó, do vùng tây nam địa thế hiểm ác, đệ tử Lỗ gia phải nhờ cậy Mặc gia trợ giúp mới có thể hoàn thành việc xây dựng bảo cấu. Sau khi hoàn thành, để đề phòng hai bên nghi ngại lẫn nhau, tỏ rõ khí độ quân tử, nên cả hai nhà đều không cắt cử đệ tử ở lại bảo vệ bảo bối. Thứ nhất, địa giới nơi này dưới ảnh hưởng của khí hậu và địa chất, nên địa hình, sông ngòi và cây cỏ biến đổi rất chóng vánh, chỉ trong một thời gian ngắn ngủi đã khó lòng tìm lại được vị trí cũ. Thứ hai, do các bậc tổ tiên rất mực tự tin, vì bảo cấu nơi này hội tụ kỹ nghệ tuyệt đỉnh của hai nhà, nếu không phải cao nhân thượng đẳng, sở hữu kỹ nghệ siêu phàm, tuyệt đối không có khả năng khai quật.
Nơi người Lỗ gia thường xuyên qua lại nhất cũng là vùng tây nam, bởi lẽ trong số bảo bối đã được cất giấu, duy chỉ có bảo bối phía tây nam là có được một chút manh mối do tổ tiên để lại. Đó là một câu truyền miệng: “Thiêu Câu tây nam, tháp nổi nhập vách”. Sau khi Lỗ Thiên Liễu tới tây nam, đương nhiên không chịu bỏ qua bất kỳ một khe núi, rãnh sâu, lòng máng nào. Cô có ba giác quan siêu phàm, lại có khả năng tìm kiếm biện nhận vô cùng nhạy cảm, chính xác. Hơn nữa, càng ở những nơi cây cối rậm rạp, rừng núi um tùm, linh tính của cô lại càng được phát huy đến cảnh giới tự do tuyệt đối.
Ngay từ khi mới phát hiện ra sự bất thường ở khe suối Thuý Hoàn, Lỗ Thiên Liễu đã không hề cảm nhận thấy sự uy hiếp hay công kích, chỉ cảm thấy khí tướng kỳ dị này lúc xa lúc gần, thoắt ẩn thoắt hiện. Song dần dần, dị tướng kia đã thâm nhập và hoà trộn vào trong suy nghĩ và cảm giác của cô, hơn nữa còn mau chóng thuận ứng theo nhịp tim, hơi thở và từng biến đổi vô cùng tinh vi trong cơ thể cô, tựa như là lại có thêm một “Lỗ Thiên Liễu” nữa đang dung hoà trong tâm não. Đối diện với tình trạng này, Lỗ Thiên Liễu không dám có phản ứng gì quyết liệt, vì e sợ gây kinh động tới đối phương, lại càng sợ hãi sẽ gây chấn động và tổn thương cho chính tâm não của mình. Bởi vậy, Lỗ Thiên Liễn vẫn duy trì trạng thái bình thường, chỉ dùng khứu giác siêu phàm hít ngửi, tìm kiếm ở nơi xuất hiện dị tướng.
Đó là một thứ mùi thanh tao nhẹ nhõm, một thứ mùi chỉ có ở một cơ thể nam giới khoẻ mạnh trẻ trung, hơn nữa, trong đó còn phảng phấp một chút hương thơm thoang thoảng. Lỗ Thiên Liễu phán đoán, thứ hương liệu này hẳn có nguồn gốc từ vùng ngoại quốc.
Khi thứ mùi kia vừa xuất hiện trong ý thức của Lỗ Thiên Liễu, làn dị tướng lập tức có phản ứng, thoắt cái đã thoát ra khỏi tâm não của Lỗ Thiên Liễu, biến mất hút không để lại tăm hơi. Song lúc này, khứu giác của Lỗ Thiên Liễu đã lần được đến nơi xuất phát. Vị trí đó chỉ cách cô chưa đầy trăm bước. Cô lập tức triển khai thân thủ, lao vùn vụt về phía đó, lẹ làng như chưa đi được một nửa, đã có người vọt ra chặn đứng. Hai kẻ chặn đường tướng mạo giống người Hán, song lối ăn mặc hết sức kỳ dị, chỉ có giặc Tây thi thoảng mới thấy ăn bận kiểu này.
Đám Quan Ngũ Lang nhìn thấy Lỗ Thiên Liễu bị người khác chặn đánh, bèn vội vã xông lên. Song họ mới chỉ tiến lên được hơn chục bước, cũng đã bị chặn đứng. Vẫn là mấy kẻ mình mặc áo đen, đầu đội mũ lá, thân hình cứng như sắt thép. Không thể hiểu nổi chúng ẩn nấp ở chỗ nào, song đều xuất hiện thình lình như ma quỷ. Đám Quan Ngũ Lang đã nhiều lần chiến bại, lần này vẫn không thể xông qua tấm bình phong này.
Tuy chỉ là chặn đứng, không có ẩu đả kịch liệt hay gây sát thương, song không khí ở hiện trường vẫn khiến người ta phải ngộp thở. Một gã thanh niên bước ra từ phía sau gốc thông lùn lá đen, vẻ anh tuấn thư sinh, nước da trắng trẻo, vóc dáng hiên ngang, song lại toát ra một vẻ lạnh lẽo, trầm tịch và vô cùng ma quái. Tóm lại, trông giống người, song cảm giác lại không giống người.
Lỗ Thiên Liễu và gã thanh niên kia bốn mắt nhìn nhau. Đó là hai cặp mắt xanh biếc chỉ xuất hiện ở những nhân vật nửa thần tiên trong truyền thuyết. Cặp đồng tử của Lỗ Thiên Liễu có màu lục nhạt, giống như chồi liễu vừa nhú buổi đầu xuân. Còn cặp mắt của gã thanh niên kia xanh thăm thẳm như mặt đầm sâu hun hút, lại cuộn xoáy tròn, tựa như muốn nuốt chửng tất cả mọi thứ vào trong.
Cả hai tuy không nói câu nào, song lại đang mau chóng giao lưu với đối phương. Cách giao lưu này quả thực không thể biểu đạt hết bằng ngôn ngữ.
Là “Thấu tam giới”! Lỗ Thiên Liễu không hề che giấu niềm kinh ngạc của bản thân, dẫu rằng cô hiểu rõ đối phương có thể nhìn thấu suy nghĩ của mình. Khi còn ở núi Long Hổ, một vị cao nhân tính thông tu tâm đã từng giảng giải với cô rằng, trong giang hồ có các chiêu số như thuật nhìn tâm, thuật đoán ý muốn, thuật tiên đoán, thuật đoán suy nghĩ, đều là thông qua việc quan sát hành động, vẻ mặt, cùng hơi thở, máu huyết vận hành trên cơ thể đối phương để suy đoán tâm tư. Bên cạnh đó, cũng có người được trời phú cho khả năng dị thường, trong vòng trăm bước có thể trực tiếp cảm nhận được suy nghĩ và tâm lý của người khác. Khả năng dị thường này được gọi là Thấu tam giới. Thấu tam giới có nghĩa là thấu suốt tam gới, tức nhìn thấu vẻ bề ngoài, nội khí và tâm tư của người khác, cũng chính là ba tầng cảnh giới hình, tính, tư.
– Ngươi chính là người duy nhất phát giác ra khả năng Thấu tam giới của ta tính cho tới hôm nay! – Gã thanh niên nói với Lỗ Thiên Liễu trong im lặng. Tuy rằng lần này, không những bị Lỗ Thiên Liễu phát giác ra năng lực cảm tri, mà còn bị tìm đúng nơi ẩn nấp, song hắn không hề tỏ ra rối loạn, hơi thở, tâm mạch và huyết khí vận hành vẫn rất mực ổn định. Bởi lẽ hắn hiểu rõ rằng, tuy cô gái kia phát giác ra hắn lén đọc trộm suy nghĩ của cô ta, song lại không có cách gì ngăn cản. Do đó, dù là đối kháng trong suy nghĩ hay trong giao chiến thực tế, thì gã vẫn nắm chắc mười phần thắng.
Gã thanh niên này là ai? Hắn là môn trưởng mới của Chu gia, con trai độc nhất của Chu Chân Mệnh – Chu Ngộ Tâm. Chu Chân Mệnh bị chôn vùi suốt ba ngày trong ngôi mộ giam hồn dưới ba gò đất, sau khi được bới lên, cảm thấy tâm mạch, khí mạch của bản thân đã tổn thương nghiêm trọng, bèn tức tốc cho người đi gọi Chu Ngộ Tâm đang rèn tập ở hải ngoại trở về.
Chu Ngộ Tâm là một quái thai, thường cả ngày ngồi đờ như đá, ba ngày mới thốt được một câu, tuy câu nào cũng trái khoáy ngỗ ngược, nhưng lại nói đâu trúng đấy. Vì hắn bẩm sinh đã có năng lực khác thường, có thể nhìn thấu suy nghĩ và tâm tư của người khác. Chu Chân Mệnh tuy là bậc kỳ tài, song lại không có cách gì dạy dỗ con trai, nên đã sai vài cao thủ hàng đầu đưa hắn ra hải ngoại, cho chu du khắp thiên hạ, nhằm mục đích rèn luyện và bồi đắp thêm cho hắn.
Thực tế cũng đúng là như vậy. Sau nhiều năm rèn luyện, học tập ở nước ngoài, Chu Ngộ Tâm không những đã phát huy được khả năng Thấu tam giới bẩm sinh đến cảnh giới thượng thừa, mà còn thấu hiểu tường tận mọi khảm diện do Chu gia nghiên cứu thiết kế. Hơn nữa, hắn còn biết vận dụng các loại kỹ thuật tiên tiến đã học được ở nước ngoài vào trong khảm diện, khiến chúng càng được vận hành một cách thần tốc bất ngờ, tàn độc, và ổn định hơn nữa.
Chu Ngộ Tâm nhìn khắp lượt những người trước mặt, ánh mắt điềm nhiên như nước lặng. Song trong lòng hắn hiểu rõ, hành động của lão hoà thượng và tay dị nhân đang nhảy tưng tưng như cỗ xác khô kia đều là nhắm vào năng lực siêu phàm Thấu tam giới của hắn.
Kỳ thực, chiêu số của hai người này thoạt đầu vẫn khiến cho tâm tư của hắn phải rối loạn. Câu thần chú tiếng Phạn của lão hoà thượng nghe như kệ Kim Cương, còn điệu nhảy xác chết kia chẳng khác gì điệu vũ ma quỷ, nghe vào tai, nhìn vào mắt đều xộc thẳng vào tâm não. Bởi vậy, Chu Ngộ Tâm bèn chấm dứt ngay năng lực Thấu tam giới, tạm thời di chuyển sự chú ý tới nơi khác.
Nhìn vào hình thế của núi non xung quanh, thì thấy nơi đây là cục phong thuỷ “Mộc dương bi bảng”[36]. Nếu xây mộ tổ trên vách khe, vận thế phù hợp có thể sinh ra bậc vương hầu khanh tướng. Nhưng vì khe sâu hun hút chạy thẳng tắp, không uốn lượn, không đầu không cuối, trong khe lại đầy rẫy chướng khí, mãnh thú, cỏ cây quái dị, nên lại là một cách cục bại vận cực độ. Trong tổ huấn của Chu gia có viết, nơi có bảo cấu, là nơi thiên bảo trấn hung huyệt, cát hung cùng tồn tại cân bằng. Như vậy, xem ra nơi hắn và cô gái nhà họ Lỗ kia đang tới có lẽ chính là vị trí cất giấu của Mộc bảo phía tây nam.
Quan sát xong hình núi, Chu Ngộ Tâm lại lướt qua cách bố trí của phe mình. Gần ngay trước mặt hắn, có sáu tên y phục đen trũi mũ lá sùm sụp đang đứng lẫn trong đám cây lá lô xô hai bên phải trái. Chúng đều là những cao thủ được đưa về từ Thái Lan, không những tinh thông quyền thuật, mà cơ thể cứng rắn chẳng khác gì sắp thép, giống hệt như công phu hoành luyện của Trung Nguyên. Có sáu tên này làm bình phong chắn lối, đối thủ khó lòng tiếp cận được hắn. Phía sau hắn là bốn cao thủ tuyệt đỉnh đã hộ tống hắn ra nước ngoài học tập. Trong bốn cao thủ này, có ba người là hộ pháp tổng đường của Chu gia, một người nữa vốn là đường chủ Chính Quảng đường phía nam. Dù về mặt võ công, kinh nghiệm giang hồ hay mưu mô trí trá, bọn họ đều thuộc hàng cao thủ thượng đẳng trong giang hồ.
Từ một con đường vắt ngang sườn dốc nghiêng chếch xuống phía dưới, hắn đã lần lượt bố trí các trận Đao trúc, Nghìn dây bắt hồn, Bậc trăm bước động trượt. Men theo con đường ngoặt sang một hướng khác, lần lượt là Phi sơn linh miêu, Dãy ống thổi dịch độc, Đao khoá vặn xuôi ngược, Lực sĩ dời núi. Qua một con đường sạn đạo cheo leo vòng qua vách núi đối diện, lại có các khảm diện Mưa nghìn đao, trận Bát quái đột sát, Đá lăn lên dốc. Cuối cùng, trong rừng Bích Qua, còn cho phục sẵn một tấm lưới sống được bện từ hai con mãng xà “vượt ngọn tùng” (độ dài đủ để quấn vòng từ ngọn cây tùng xuống tận gốc) và mười con mãng xà bẻ cành (có thể vặn đứt chạc cây lớn).
Tạm thời chưa nói đến mức độ tinh vi tàn độc của những khảm nút này, chỉ riêng bộ bố cục toàn diện của nó cũng đã là một tuyệt học hiếm thấy trong nghề khảm tử, gọi là “Hồng đấu hấp thiên”[37]. Bố cục này đã bao trùm toàn bộ ngọn núi và một đoạn khe núi, không cho phép người khác bước xuống dù chỉ là nửa bước.
Nhìn lại một lượt kiệt tác của mình, Chu Ngộ Tâm vô cùng đắc ý. Hắn không chỉ phát huy một cách xuất sắc kỹ nghệ của Chu gia, mà còn đưa thêm vào đó rất nhiều kỹ nghệ tiên tiến của nước ngoài. Kỳ thực, trong thâm tâm hắn rất mong muốn đám nhân tài Lỗ gia dám xông pha vào trong đó, lao mình vào trong “chiếc đấu cầu vòng”, để chứng minh cho hiệu quả của khảm nút sau khi đã được hắn cải tiến. Chu Ngộ Tâm rất mực tự tin, dẫu rằng Chu môn gần đây đã liên tiếp gặp phải những tổn thất chưa từng có, song hắn tin tưởng rằng sau khi mình tiếp quản sự nghiệp, cục diện sẽ thay đổi hoàn toàn.
Tin tưởng bản thân, khẳng định bản thân là một phương pháp tuyệt vời để Chu Ngộ Tâm điều chỉnh tâm tư và tâm lực. Tựa như hắn đang dùng một niềm tự hào và thoả mãn để tiến hành một nghi thức, một nghi thức thông linh với tổ tiên của chính mình. Sau nghi thức này, tâm tư hắn sẽ trở nên thanh khiết không linh, tựa như bầu trời vô tận, có thể thâu nạp toàn bộ nhật nguyệt tinh tú, sấm chớp mây mưa.
Khi ánh mắt xanh biếc của Chu Ngộ Tâm lại nhìn thẳng về phía trước, tâm cảnh như bầu trời lồng lộng của hắn đã khiến cho sức mạnh quấy nhiễu của lão hoà thượng và cỗ “xác khô” kia không biết đã bị đánh bại tới xó xỉnh nào. Trong khi một phần lớn tâm cảnh của hắn đã bắt đầu mau chóng bao vây lấy suy nghĩ của người khác. Suy nghĩ của con người, có lúc bay xa tới tận chân trời, có lúc lại tập trung vào một điểm cực kỳ vi tế. Song lúc này, dù suy nghĩ của người Lỗ gia ở trong trạng thái nào, họ đều bị tâm cảnh tựa bầu trời của hắn vây bủa.
Đã bao vây được suy nghĩ, bước tiếp theo chính là dò đoán tâm tư của đối phương. Phương pháp của Chu Ngộ Tâm hôm nay có phần cuồng ngạo phóng túng, bởi vì đã tới thời khắc quyết đấu, bởi vì bản thân hắn đã chuẩn bị kỹ lưỡng cho trận đối quyết, và còn bởi vì những đối thủ kia hoàn toàn bất lực trước khả năng Thấu tam giới của hắn.
Đợt tìm kiếm bằng năng lực Thấu tam giới này không gặp phải bất cứ trở ngại nào. Ánh mắt xanh hun hút của hắn dừng lại trước tiên trên cơ thể lão hoà thượng và cỗ “xác khô”. Bọn họ đang rất chuyên chú, tập trung cao độ, hết sức nỗ lực để khuấy đảo tâm cảnh của hắn, khiến hắn không thể thi triển Thấu tam giới. Chuyên tâm đương nhiên rất cần thiết, trong giao đấu bằng tâm lực đã có câu “không si mê không nhập đạo”. Song Chu Ngộ Tâm phát hiện thấy, trong trạng thái chuyên chú của hai người này, đôi khi vẫn xuất hiện sự gián đoạn. Hiện tượng này cho thấy bọn họ đã thấm mệt, và bắt đầu thiếu tự tin vào sự nỗ lực của bản thân.
Phía sau họ còn có một người cũng rất chuyên chú, là một gã trai thân hình vạm vỡ đang cầm ngang thanh phác đao. Suy nghĩ của người này rất đơn giản, chính là muốn xông lên vào một thời điểm thích hợp để kết liễu tính mạng của mình. Song hắn rất căng thẳng, bởi vì hắn hiểu rõ khả năng này là không thể. Những gã cao thủ Thái Lan trước đó đã nhiều lần đập tan chiêu số của hắn, hơn thế nữa, còn phá huỷ hoàn toàn niềm tin của hắn. Chu Ngộ Tâm thường không xem nhẹ bất cứ ai, song lúc này, hắn lại không thèm để ý tới gã tráng niên kia nữa. Một người đã hoàn toàn đánh mất niềm tin, dù ý đồ có quyết liệt đến đâu, cũng chỉ là kẻ đóng vai phụ trong trận quyết đấu.
Bên gã trai là một lão già nhỏ thó đang phun khói mịt mù. Lão ta rất kỳ quái. Suy nghĩ của lão liên tục nhảy nhót qua lại giữa sơn thuỷ thực tế và sương khói thở ra, điều này khiến Chu Ngộ Tâm có hơi khó khăn khi nắm bắt. Song năng lực Thấu tam giới của hắn đã đạt tới cảnh giới phi phàm, bởi vậy Chu Ngộ Tâm mau chóng thích ứng với sự biến động trong tư duy của lão.
Tuy suy nghĩ của Thôi Vân Phi liên tục biến động, song kế hoạch của lão lại rất mạch lạc bài bản. Lão muốn dùng Quan Ngũ Lang bên cạnh làm mồi nhử, khiến một bộ phận cao thủ Thái Lan che chắn phía trước Chu Ngộ Tâm chuyển hướng sang bao vây Ngũ Lang. Còn lão sẽ dựa vào bản lĩnh khí công của mình, xông qua vòng vây của các cao thủ Thái Lan còn lại, lao thẳng tới chỗ Chu Ngộ Tâm. Song đây vẫn là một động tác giả, đại cao thủ phía sau Chu Ngộ Tâm đều lùi về bảo vệ hắn, như vậy, con đường nhỏ “một người giữ cửa, vạn người khó qua” bên rãnh sẽ được mở thông. Lão sẽ chớp lấy cơ hội này để chạy đi theo đó. Đến lúc này, cho dù đám cao thủ kia có sực tỉnh mà đuổi theo, thì đại sư Vô Do và Ngôn Hành Dạ có lẽ cũng đã kịp thời xông tới chặn chúng lại. Đối với lão, các khảm diện như trận Đao trúc, Nghìn dây bắt hồn, Bậc trăm bước động trượt phía dưới nếu muốn phá giải hoàn toàn sẽ cần một chút thời gian, nhưng nếu chỉ cần một mình lão băng qua, thì chẳng tốn bao nhiêu công sức. Tiếp đó tới hai khảm Phi sơn linh miêu và Dãy ống thổi dịch độc. Phi sơn linh miêu có thể nhờ vào khí công hộ thể để xông qua, còn Dãy ống thổi dịch độc cần phải hao tổn chút tinh lực, bởi vì dạng khảm này không phải là sở trường của Kỳ Số các. Song chỉ cần phá được khảm diện này, toàn bộ Hồng đấu hấp thiên coi như đã bị chém ngang lưng. Nếu theo đúng kế hoạch ban đầu, lão chỉ cần xông được đến đây, coi như việc lớn đã thành.
Chu Ngộ Tâm quả thực thấy khâm phục trong lòng. Lão già này quả là một cao thủ tuyệt đỉnh, võ thuật khảm diện đều tinh thông. Thế nhưng mưu kế sách lược và cách phân tích nguyên lý khảm diện cũ rích của lão khiến hắn cảm thấy nực cười. Đương nhiên, người đủ tư cách để cười lão cũng chỉ có một mình Chu Ngộ Tâm mà thôi. Kế hoạch của lão có quá nhiều nhân tố thiếu chắc chắn, như liệu gã trai vạm vỡ kia có dụ được một bộ phận cao thủ Thái Lan đi không? Liệu lão có thể xông qua những cao thủ còn lại không? Còn một nhân tố thiếu chắc chắn hơn nữa, đó là liệu lão có ép được hắn lùi lại hay không? Bởi vì hắn đã được rèn luyện võ học đến nơi đến chốn, không hề thua kém bất cứ cao thủ thượng đẳng nào trong giang hồ. Và còn nữa, sau lưng hắn còn giấu hai khẩu súng ngắn bắn đạn rời sản xuất ở Anh, liệu khí công của lão có thể chống đỡ nổi súng đạn? Với một loạt khảm diện phía dưới, lão ta cũng suy nghĩ quá đơn giản. Phía trên khảm diện Bậc trăm bước động trượt, hắn đã bố trí thêm ba cụm mìn vướng nổ, hai cụm mìn đạp nổ, những thứ này đều là hàng Thuỵ Điển, phản ứng rất nhạy, lực sát thương cực mạnh. Còn trên vuốt mèo của khảm diện Phi sơn linh miêu đều được lắp thêm vuốt hợp kim mangan tẩm nọc rắc độc sông Nile. Trong khảm diện Dãy ống thổi dịch độc, trong dãy ống thổi còn xen lẫn hai mươi khẩu súng trường liên thanh, phía cuối khảm diện còn có một cỗ pháo đón đầu. Những thứ này lão già kia chắc chắn có nằm mơ cũng không thể tưởng tượng ra, và cũng không thể ứng phó nổi.
Hai kẻ đứng trên vách khe trông giống như anh em ruột, suy nghĩ của chúng là phối hợp với lão già nhả khỏi. Bọn họ một kẻ đang tìm đường, một kẻ đang chuẩn bị thuốc, chuẩn bị sẵn sàng để sau khi lão già nhả khói phá ngang được khảm diện Hồng đấu hấp thiên sẽ lập tức lao xuống dưới rãnh trong phạm vi của khảm nút đã bị phá, nhanh chóng khai quật bảo cấu.
Kẻ tìm đường khiến Chu Ngộ Tâm rất kinh ngạc. Lần theo suy nghĩ của hắn, thì thấy hắn ta không cần dùng đến bất cứ dụng cụ nào, chỉ là tay không mà leo thẳng xuống đáy khe. Hơn nữa, trong lúc leo xuống còn đồng thời bố trí một số thiết bị, để đưa những kẻ khác xuống cùng.
Kẻ còn lại là cao thủ về thuốc giải độc, hắn đang phân tích thành phần của sương độc để chuẩn bị thuốc giải độc cho những người chuẩn bị xuống khe. Chu Ngộ Tâm không tìm hiểu thêm về thứ thuốc giải của kẻ đó, bởi vì hắn không cần tới thứ này. Hắn đã chuẩn bị sẵn một loạt mặt nạ phòng độc mang từ nước ngoài về.
Lão già méo miệng đang nhìn chằm chằm vào vách đá trước mặt có tư duy vô cùng lắt léo. Tuy những đường vân mờ nhạt tại vị trí hình cánh cửa đã bị sương độc che lấp, song hình dáng ban đầu đã hoàn toàn dung nhập vào trong tư duy của lão. Trong cửa Linh Lung chín vòng chỉ có một thay đổi duy nhất, không hề có cơ hội làm thử hay lặp lại, chỉ cần một sai lầm cực nhỏ, cũng sẽ biến thành tử cục vĩnh viễn. Bởi vậy, trước hết cần phải phân tích, nắm bắt thật chính xác nguyên lý và quy luật của hình khoá được bố trí đầu tiên, mới có thể suy luận ra kiểu biến hoá duy nhất. Ở đây cất giấu Mộc bảo, nên hình cửa chọn dùng kết cấu nghìn cặp linh lung cũng là đương nhiên. Vấn đề là ở nguyên lý chín vòng tuần hoàn tương khắc, vòng này cần phải vượng Mộc, như vậy, phải chăng nên bắt tay từ Nhật, Thuỷ, Mộc…
Chu Ngộ Tâm đã dừng lại. Lần dò theo lối tư duy rắc rối lắt léo kiểu này là một việc làm vô cùng khó chịu, hơn nữa tính toán suy lý theo kiểu đó rất phức tạp và mất thời gian, trong khi kết quả cuối cùng chưa chắc đã chính xác. Bản thân hắn đã nghĩ tới cách giải quyết đơn giản hơn, chính là đặt mìn định hướng ở bên dưới tất cả những nơi đã bị khoá cố định để phá. Trong số những người hắn đưa từ nước ngoài về có một gã người Bỉ, là cao thủ chế tạo thuốc nổ.
Mục tiêu cuối cùng của Chu Ngộ Tâm là Lỗ Thiên Liễu. Có lẽ do Lỗ Thiên Liễu đang tập trung tinh thần suy nghĩ điều gì đó, nên ba giác của cô không chú ý tới sự xâm nhập của Thấu tam giới. Bởi vậy Chu Ngộ Tâm đã thuận lợi thăm dò vào trong tư duy của cô, song bầu tư duy đó đã khiến hắn phải sửng sốt.
Chu Ngộ Tâm chưa bao giờ gặp một bầu tư duy nào tỉ mỉ, tinh tế, kín kẽ đến vậy. Từng gốc cây ngọn cỏ, từng phiến lá đọt cành, từng đoá hoa búp nụ trong toàn bộ vùng rừng núi này đều là những điểm cấu thành nên bầu tư duy của cô. Đáng sợ hơn nữa, đó là tác dụng của mỗi điểm cấu thành hoàn toàn không phải là sự tưởng tượng hư vô, mà đều là những cảm nhận thực tế.
Chu Ngộ Tâm biết, đó chính là ba giác siêu phàm của Lỗ Thiên Liễu đang phát huy tác dụng. Cô gái thần kỳ này chỉ cần chạm tay lên thân cây bên cạnh, chỉ cần giẫm chân trên thảm cỏ, chỉ cần hít thở bầu không khí trong lành thấm đẫm hương hoa lá, thì tất cả những nơi mà đám cỏ hoa lá có thể chạm tới, luồng tư duy của cô đều có thể cảm nhận được. Cây cỏ hoa lá trong toàn bộ vùng rừng núi cành liền lá sát, gốc rễ giao hoà, bởi vậy tâm hồn và suy nghĩ của cô ta cũng dung hoà với toàn bộ núi rừng.
Trong một không gian cảm nhận bất tận như vậy, tất cả mọi khảm diện mà Chu Ngộ Tâm đã dày công bố trí đều đã hiện diện trong trí não của Lỗ Thiên Liễu. Không chỉ những khảm nút vốn có đều đã phải hiện hình, mà ngay cả nút lẫy cải tiến của Chu Ngộ Tâm cũng lần lượt bị cô phát giác.
Ngay từ triều Minh, Lỗ gia đã nhiều lần giao tranh, quyết đấu với Chu gia, thu hoạch nhiều nhất của họ chính là đã có được những nhận thức mang tính đột phá đối với kỹ nghệ của tổ tiên. Kỹ nghệ của tổ tiên dạy rằng, “dựng” là gốc, “khuôn thước” là nguyên tắc. Song sau vô số lần phải chịu lép vế và đổ máu, họ đã nhận thức được rằng, ngược lại với “dựng” là dỡ, làm rối loạn “khuôn thước” sẽ thành nguyên lý bàng môn. Và sau đó, Lỗ gia đã tập trung cao thủ chuyên nghiên cứu về kỹ thuật giải phá, rồi quy kỹ nghệ này vào trong loại hình kỹ nghệ phụ trợ bên ngoài Lục công của Lỗ gia, được gọi là Tiểu công. Tiểu công vốn dĩ chỉ để hỗ trợ cho sáu công phu chính, gồm các kỹ nghệ như đẵn gỗ, phá đá, trộn vữa, vận chuyển vật liệu. Những thợ mộc bậc thầy của Lỗ gia thường không học kỹ nghệ này, trước kia chỉ truyền cho người ngoài họ. Tuy nhiên sau khi thêm vào kỹ nghệ phá giải, loại hình kỹ nghệ này đã trở nên nguy hiểm, giảo hoạt và có khả năng sát thương cực lớn. Bởi vậy, chỉ được ghi chép trong sách mà không truyền dạy cho đệ tử.
Đến này, am hiểu về kỹ nghệ Tiểu công chỉ có hai người. Một là đứa con độc nhất mà Nhậm Hoả Cuồng uỷ thác lại cho Lỗ Nhất Khí dạy dỗ là Nhậm Tính Lai. Năm xưa cậu ta theo sư phụ của Nhậm Hoả Cuồng xuống phía nam tìm kiếm vật liệu kỳ lạ, đã tình cờ gặp Lỗ Thịnh Hiếu. Lỗ Thịnh Hiếu thấy đứa trẻ này điêu trá khó bảo, rất thích hợp để học kỹ nghệ Tiểu công, nên đã sao chép chương tổng quát về kỹ nghệ Ban môn và kỹ nghệ Tiểu công tặng cho cậu ta. Một người còn lại là Lỗ Thiên Liễu. Lỗ Thiên Liễu sau khi tu luyện kỹ nghệ của Thiên Sư giáo trên núi Long Hổ, mới bắt đầu nghiên cứu kỹ nghệ Tiểu công. Bởi vì trong giáo pháp của Thiên Sư giáo có một lý luận viết rằng “Khéo khống chế tính, có thể thu phục; không am hiểu tính mà đủ sức, thì tiêu diệt; không am hiểu tính cũng không đủ sức, thì bao vây”, đoạn này nói về khả năng phán đoán thời thế, xoay chuyển sách lược, nhìn nhận một sự việc từ nhiều phương diện. Lỗ Thiên Liễu đọc được câu này, cảm thấy lo lắng bất an trước những kỹ nghệ của Lỗ gia mà mình đã được học, thường cảm thấy còn khiếm khuyết ở một số mặt nào đó. Lỗ Thịnh Nghĩa hiểu được tâm tư của cô, bèn nửa vô tình nửa hữu ý chỉ dẫn cho cô xem bản ghi chép về kỹ nghệ Tiểu công.
Lỗ Thiên Liễu tuy nghiên cứu Tiểu công, song chưa từng áp dụng vào thực tế. Kể cả vừa nãy, khi xem xét những khảm nút mà Chu gia bố trí tại nơi đây, trong kế hoạch mà cô và mọi người đã thảo ra cũng không hề tham khảo tới kỹ pháp Tiểu công. Nhưng vừa nãy, trong trí não Lỗ Thiên Liễu đột nhiên loé lên một ánh linh quang, và trong đầu cô bắt đầu thai nghén một phương pháp phá khảm dựa vào kỹ pháp Tiểu công.
Chu Ngộ Tâm đã nhìn trộm được phương pháp phá khảm này. Không chỉ bất ngờ, hắn còn cảm thấy ớn lạnh tận đáy lòng. Nếu như bọn họ hành sự theo phương pháp của cô ta, hoàn toàn có thể phá giải, áp chế hệ thống khảm diện của hắn tới tận hai khảm cuối cùng. Nếu thực sự đến nước đó, không những Chu gia sẽ đánh mất ưu thế về địa lợi đã chiếm cứ được, mà còn bị chế phục trên tất cả mọi hướng.
Ví dụ như những khảm nút cải tiến mà Chu Ngộ Tâm vô cùng tâm đắc, ba cụm mìn vướng nổ, hai cụm mìn đạp nổ được bố trí phía trên khảm diện bậc trăm bước động trượt, Lỗ Thiên Liễu định dùng hai kỹ thuật phá đá và đổ đất trong Tiểu công để phá giải. Trước tiên, đẩy đá ở sườn núi bên cạnh cho lăn xuống, khiến mìn vướng nổ phát nổ. Tiếp đến đổ đất thành đường, rồi di chuyển trên đường đất đắp, như vậy có thể phân tán sức nén, khiến mìn đạp nổ không thể hoạt động. Tuy linh miêu phi sơn có vuốt thép ngâm độc, song Lỗ Thiên Liễu sẽ áp dụng kỹ pháp tôi vôi trong Tiểu công. Dùng vợt lưới và gỗ bật để bắn các túi vôi bột sống vào chỗ phi miêu ẩn nấp, vôi bột sẽ khiến chúng bỏng mắt, lại thêm trong rừng ẩm ướt, vôi bột bay tứ tung sẽ khiến khắp nơi toả nhiệt bỏng giãy, tới lúc đó linh miêu phi sơn sẽ hoàn toàn không còn cơ hội để tấn công. Để đối phó với dàn ống phun dịch độc xen kẽ hai mươi khẩu súng trường liên thanh và pháo đón đầu, Lỗ Thiên Liễu dự định sử dụng kỹ pháp đốn gỗ trong Tiểu công. Trước hết chưa vào khảm vội, mà đốn hạ những cây to bên ngoài khảm cho đổ vào trong khảm. Cây đổ trúng nút lẫy trong khảm khiến chúng hoạt động hoặc hư hỏng là tốt nhất, song cho dù chạm vào mà không huỷ, thì vẫn có thể băng qua phía trên cây đổ mà đi. Đến cây to đổ xuống cũng không thể khiến cho chốt lẫy khởi động, thì bọn họ hoàn toàn có thể băng qua phía trên một cách an toàn.
Kế hoạch đã nhìn thấu, Chu Ngộ Tâm chỉ có thể thừa nhận mình đã thất bại về mặt khảm nút. Bởi vậy, hắn quyết định ra tay trước khi Lỗ Thiên Liễu thực thi kế hoạch, điều động các cao thủ võ thuật xông lên tấn công. Cho dù nơi đây đâu đâu cũng là tuyệt địa hiểm trở, vài người bọn họ cố thủ nơi hiểm yếu, sẽ gây tổn thất nghiêm trọng cho lực lượng bên hắn, nhưng nhìn vào tình thế trước mắt, đây lại là phương pháp đơn giản và chắc chắn nhất.
Quyết định xong, Chu Ngộ Tâm bèn chuẩn bị thu Thấu tam giới về để hạ lệnh cho thuộc hạ tấn công. Nhưng vào khoảnh khắc năng lực Thấu tam giới sắp sửa thu về, hắn đột nhiên phát hiện ra trong tư duy rất mực kín kẽ của Lỗ Thiên Liễu bất ngờ lướt qua một thông tin rất thiếu hài hoà. Lực đạo Thấu tam giới của Chu Ngộ Tâm lại tiếp tục lao lên, muốn bắt lấy thông tin đó.
Lần này, Chu Ngộ Tâm lại càng ngạc nhiên hơn nữa, bởi lẽ thông tin này cho thấy, Lỗ Thiên Liễu muốn đưa người phía cô ta bỏ chạy thoát thân.
Đã có cách phá giải khảm nút, vì sao còn muốn bỏ chạy? Hiện tượng quái dị này khiến Chu Ngộ Tâm càng dốc toàn bộ tinh lực vào Thấu tam giới. Năng lực bẩm sinh thần kỳ của hắn quả thực phi thường, không những bắt được một tia suy nghĩ thoảng qua của Lỗ Thiên Liễu, mà còn túm giữ thật chặt không buông. Năng lực cảm tri của Chu Ngộ Tâm đã theo chân ý niệm này để xâm nhập vào tầng sâu thẳm trong tư duy của Lỗ Thiên Liễu, xuyên qua mạng lưới được hình thành từ các loại thông tin đến từ ba giác siêu phàm của cô, chớp mắt đã lọt vào trong một tầng tư duy khác.
Tư duy trong tầng thứ này là tư duy cố tình tàng ẩn, bởi vậy kết cấu rất đơn giản, chỉ lác đác vài đường nét, hình thù. Song chỉ vài đường nét, hình thù sơ sài này cũng đủ khiến Chu Ngộ Tâm tim gan lạnh toát.
Thực sự là vô cùng đơn giản, những suy nghĩ ở tầng thứ này chỉ là hơi thay đổi khảm diện mà hắn đã bố trí một chút ít. Song chỉ với một chút ít thay đổi, toàn bộ phương pháp phá giải khảm diện của Lỗ Thiên Liễu sẽ bị vô hiệu hoá hoàn toàn.
Hai khảm diện Nghìn dây bắt hồn và Bậc trăm bước động trượt xếp chồng lên nhau, không dùng dây bắt người, mà là dùng dây để khống chế vị trí mìn đạp nổ và tác động để dẫn nổ, như vậy sẽ tiêu diệt được quá nửa số người của Lỗ gia. Hai khảm diện Phi sơn linh miêu và Dãy ống thổi dịch độc kết hợp với nhau, đổ dung dịch độc lên thân linh miêu, dùng Phi sơn linh miêu để tấn công. Tuy móng vuốt của linh miêu không dễ làm tổn thương đến cao thủ, song khi dung dịch độc trên da lông chúng văng đi, sẽ rất khó tránh. Tiếp đến bố trí khảm diện Đao khoá vặn xuôi ngược ở phía dưới Lực sĩ dời núi, sẽ hình thành cục thế tiến thoái lưỡng nan. Muốn né tránh Lực sĩ dời núi, sẽ sa vào Đao khoá vặn xuôi ngược; muốn vượt qua Đao khoá vặn xuôi ngược, sẽ không tránh nổi Lực sĩ dời núi. Lại bố trí Mưa nghìn đao phía sau trận Bát quái đột sát, rồi khởi động ngay sau trận Đột sát, bố trí khảm diện mãng xà phía trước Đá lăn lên dốc, làm nút lẫy khởi động đầu tiên của Đá lăn lên dốc. Tới lúc đó, không cần quan tâm tới sự sống chết của đám người điều khiển và mãng xà trong khảm, chỉ cần bọn chúng ngăn cản được những người xông vào khảm trong chốc lát, mưa đao và đá lăn đồng loạt xuất hiện, sẽ biến thành cục diện “hai bên cùng chết”, không ai có thể vượt qua. Nếu lại bố trí năm vị trí tấn công tầm xa với tên, pháo, súng trên đỉnh vách đá theo lộ số Ngũ hành, thì lực sát thương càng khủng khiếp không gì sánh kịp.
Phương pháp bố trí khảm nút xuất quỷ nhập thần đến vậy, ngay cả Chu Ngộ Tâm cũng không thể tưởng tượng nổi. Hắn bất giác thầm thán phục trong lòng, thảo nào một dòng họ thợ mộc như Ban môn lại có thể đối kháng ngang cơ suốt vài trăm năm với dòng họ Chu vốn là hậu duệ hoàng gia, kỹ pháp của Ban môn quả là tạo hoá khó địch.
Chính vào lúc đó, tầng ý niệm này của Lỗ Thiên Liễu đột nhiên xáo trộn, trở nên nhoà nhạt, rồi mau chóng tản mát. Tất cả đường nét, hình dáng đều tan biến, trở thành một bầu trống rỗng.
Chu Ngộ Tâm mỉm cười. Cô gái họ Lỗ từ bỏ tầng ý niệm này là muốn tiếp tục khẳng định niềm tin phá khảm giải nút của cô ta, tiếp tục xây dựng kế hoạch đã nhen nhóm trong tầng tư duy trước đó. Đồng thời, cũng nhằm đề phòng năng lực Thấu tam giới của hắn phát giác ra tầng suy nghĩ này mà kịp thời điều chỉnh khảm diện. Tới lúc đó, điều duy nhất bọn chúng có thể làm đúng là chỉ còn cách tháo chạy thoát thân.
Song đã muộn rồi! Chu Ngộ Tâm lập tức thu lại Thấu tam giới, vẫy tay ra hiệu. Một cao thủ lướt tới bên hắn như một cái bóng. Hắn hạ giọng căn dặn vài câu. Ngay sau đó, nhân lực mau chóng được điều động, thiết kế bố cục mau chóng được di chuyển. Chẳng mấy chốc, tất cả những khảm diện cần thay đổi đều đã thay đổi, tất cả các điểm cần bố trí đều đã bố trí. Sau đó, Chu Ngộ Tâm bình thản chờ đợi đám người cần rút lui ngoan ngoãn rút lui.
Sắc mặt Lỗ Thiên Liễu đã trắng bệch như sáp, mà không, trong sắc trắng bệch dường như còn lẫn sắc tái xanh. Cô biết, suy nghĩ của mình một lần nữa đã bị Chu Ngộ Tâm nhìn thấu, hơn nữa, đó lại là tầng suy nghĩ mà cô đã cực lực cố gắng che giấu. Khả năng siêu phàm tới mức xuất quỷ nhập thần của đối phương khiến cô kinh hãi tột độ.
Song Lỗ Thiên Liễu không vội rút lui ngay, mà đưa ánh mắt nhìn khắp lượt những người xung quanh. Có thể thấy, cô đang hy vọng có ai đó nghĩ ra cách giúp mình.
Lão già nhả khói mù mịt đã đứng dậy, ánh mắt cũng mơ hồ như khói vờn, không thể đoán biết. Song Chu Ngộ Tâm không cần dùng tới Thấu tam giới cũng đã đoán ra, lão ta muốn bỏ đi. Đã biết rõ là cầm chắc thất bại, cũng nên hiểu lẽ tiến lui, kịp thời rời khỏi chốn hiểm nguy này càng sớm càng tốt. Quả nhiên, lão già không chút do dự, lập tức ngoắt người đi men theo mép Thiên Câu tiến về phía đông, nơi đó có một con đường đất đắp chênh vênh nối thông ra đường núi.
Kỳ thực con đường đó vốn dĩ cũng chịu sự kiểm soát của cao thủ Chu gia, song vừa rồi, trong lúc điều chỉnh khảm diện, Chu Ngộ Tâm đã cố ý chừa lại lối đó. Mục đích của hắn là đoạt lấy bảo bối, bởi vậy trước mắt không nhất thiết phải dốc sức đuổi cùng giết tận người Lỗ gia, chỉ cần bức bách họ biến đi, không cản trở hắn hành động là được.
Lão già vừa rời đi, những người khác đều hướng ánh nhìn vào Lỗ Thiên Liễu. Lỗ Thiên Liễu do dự một lát. Cuối cùng, hàm răng trắng muốt đã cắn xuống vành môi, rồi mấp máy một câu gì không rõ. Thế là ngoài tay gầy xác ve vừa nhảy nhót tựa cương thi, những người khác đều mau chóng hành động, lục tục rút lui về phía con đường đất đắp.
Còn tay “xác khô” lại nhảy bổ hai bước về phía Chu Ngộ Tâm, hai tay múa lên một động tác vô cùng quái dị. Động tác vừa thi triển, giữa bàn tay hắn lập tức phát ra một tràng âm thanh loảng xoảng chói tai, từ ống tay áo phụt ra một luồng khói lục mịt mờ, ngưng tụ mà không tản mát. Tất cả những người nghe thấy âm thanh quái dị và nhìn thấy luồng sương khói kia đều cảm thấy mắt mờ tai điếc, tâm thần bấn loạn.
Chu Ngộ Tâm không hành động. Phía Chu gia cũng có cao thủ của tộc đuổi xác, bởi vậy hắn biết tay “xác khô” kia đang làm gì. Đây là kỹ xảo độc môn “xác gõ cửa” của họ Ngôn ở Tương Tây. “Xác gõ cửa, khoá tai mắt, loạn tâm tính”. Song kỹ xảo này chỉ dùng trong chiến đấu ở cự ly gần hoặc nghi binh khi trốn chạy. Lúc này không phải là chiến đấu tầm gần, vậy thì chỉ có khả năng là đòn nghi binh để tẩu thoát.
Quả đúng như dự đoán, khi những kẻ hoa mắt ù tai đều đã phục hồi lại trạng thái bình thường, thì tay “xác khô” cũng đã ở trên sạn đạo, vừa khuất dạng sau một khúc quanh bên vách núi.
Kết quả này hoàn toàn phù hợp với mong muốn của Chu Ngộ Tâm. Nhưng không hiểu tại sao, hắn lại cảm thấy một mối bất an âm thầm nhen nhóm trong lòng. Có lẽ đạt được thứ mình muốn quá dễ dàng sẽ khiến con người ta cảm thấy không an tâm. Có câu “quá nhàn ắt có quỷ quái”, ở đây liệu có điều quỷ quái gì không?
Nghi ngờ và bất an cứ liên tục dâng lên trong lòng Chu Ngộ Tâm. Năng lực Thấu tam giới của hắn có thể dò la đến tầng ý niệm sâu xa của cô gái thần kỳ kia, liệu có phải là may mắn? Hay là do cô ta mất cảnh giác? Hay là phía sau tầng ý niệm sâu xa kia còn có cạm bẫy khác chăng?
Chính vào lúc đó, một cao thủ Chu gia tiến lại, cắt ngang bầu tâm tư nghi hoặc bất an của Chu Ngộ Tâm:
– Thưa môn trưởng! Tiềm Võng đường tại Nam Hải cho cú mèo đưa thư tới, nói rằng đã khống chế được đài Mộc Triều của bảo cấu hướng chính nam. Hai ngày nay đang tập hợp thợ khéo, nhân tài và dụng cụ, thiết bị, chỉ đợi thu xếp xong xuôi, lập tức khai quật bảo cấu!
Tin tức tốt đẹp này khiến Chu Ngộ Tâm lập tức dẹp bỏ mọi lo âu sang một bên. Chu gia hao tổn nhân lực vật lực suốt mấy trăm năm qua, song chưa bao giờ có được thu hoạch tốt đẹp như lần này, chỉ trong một ngày đã kiểm soát được hai bảo cấu.
– Đáp thư, lệnh cho Tiềm Võng đường gấp rút khai quật. Lại lệnh cho Lững Quảng đường và Phúc Lâm đường mau chóng điều cao thủ tới Nam Hải trợ giúp! – Chu Ngộ Tâm sắp xếp như vậy là muốn tăng cường chi viện, cũng là để giám sát lẫn nhau.
– Bây giờ trời đã tối, chướng khí chưa tan, lệnh cho khảm diện vòng trong canh phòng nghiêm mật, bên ngoài tuần tra luân phiên. Đợi đến ngày mai, khi sương tan trời sáng, lập tức xuống khe quật bảo! – Nhìn vào cách bố trí, có thể thấy, Chu Ngộ Tâm không những sở hữu khả năng thiên phú dị thường, mà còn rất mực chu toàn thận trọng, quả nhiên di truyền được phong thái nhất quán của nhà họ Chu.
Sáng sớm hôm sau, Chu Ngộ Tâm đột nhiên giật mình bừng tỉnh trên chiếc giường mềm bện từ nan trúc trích huyết kim tuyến. Song cả một vùng rừng núi mênh mông vẫn yên tĩnh tuyệt đối, không có bất cứ âm thanh nào kinh động đến hắn. Quái lạ! Cảm giác từ Thấu tam giới đã trở nên hỗn loạn! Không phải, chính xác hơn là những suy nghĩ mà hắn có thể dò la ở xung quanh vô cùng hỗn loạn. Chuyện gì đã xảy ra? Gần sát chiếc giường đang lọt thỏm trong rừng núi đã xuất hiện một đám khách không mời. Người Lỗ gia đã tìm thêm trợ thủ để quay lại ư? Không phải, trong những suy nghĩ kia, không có suy nghĩ nào hắn đã từng tiếp xúc. Đây là một đám đối thủ mà hắn chưa từng bắt gặp!
Tuy cục thế biến đổi nhanh chóng, song Chu Ngộ Tâm không hề bấn loạn. Hắn bình tĩnh sắp xếp thuộc hạ, khép chặt vòng vây bên trong, trước tiên cần bảo vệ chắc chắn bảo cấu, sau đó đích thân dẫn cao thủ bên ngoài tấn công kẻ địch. Hắn vô cùng tự tin với bản thân, và cũng rất tin tưởng vào người của Chu gia. Đám địch thủ lạ mặt kia hoàn toàn không phải là đối thủ của Chu gia.
Tin tức lan truyền trong giang hồ nhanh đến chóng mặt, tin tức lan truyền trong giang hồ cũng rất dễ bị thổi phồng. Kỳ thực, ngay từ lúc Chu Ngộ Tâm đối mặt với Lỗ Thiên Liễu bên Thiên Câu, đã có người loan tin khắp giang hồ rằng đây là nơi chôn giấu bảo bối của trời, đoạt được bảo bối sẽ có được thiên hạ. Bởi vậy, từ tối hôm qua, trong khi Chu Ngộ Tâm sắp xếp thủ hạ bảo vệ, khai quật bảo cấu, thì các lộ giang hồ từ khắp mọi nẻo đã rầm rập kéo về.
Tình hình ở đài Mộc Triều, Nam Hải cũng giống y như vậy, tin tức về bảo bối lan truyền nhanh chóng, các thế lực giang hồ cũng ùn ùn kéo về. Lực lượng khai quật bảo bối của Chu gia đành phải tạm thời từ bỏ kế hoạch mở bảo cấu, tập trung toàn bộ sức mạnh để đương đầu với kẻ địch khắp ba bề bốn bên, bảo vệ cứ địa. Trong khi tộc người Đản sinh sống trên thuyền vốn dĩ kế thừa di nguyện của tổ tiên Lỗ gia, đời đời bám biển bảo vệ bảo cấu lại lặng lẽ trốn đi biệt tích, chẳng ai rảnh rang để ý cả gia tộc bọn họ đã bỏ đi đâu…
Chu Ngộ Tâm không ngờ được rằng, cuộc chiến ở hai nơi này lại kéo dài tới hơn ba tháng trời ròng rã. Trong thời gian đó, Chu gia đã gần như phải một mình đối chọi với cả giang hồ.
Khi hai cuộc hỗn chiến đẫm máu đã diễn ra được khoảng sáu bảy ngày, trong cơn lo nghĩ đến căng thẳng, Chu Ngộ Tâm đột nhiên phát giác ra một chi tiết. Hắn lập tức rà soát lại một lượt toàn bộ diễn biến trước sau của sự việc, và kết luận là mình đã phạm một sai lầm nghiêm trọng. Ngay lập tức, hắn cho vận dụng tất cả mọi phương pháp truyền tin khẩn cấp của Chu gia, điều động nhân lực của năm đường khẩu phía Bắc để tìm kiếm tung tích của người họ Lỗ. Song đến tận hơn ba tháng sau, khi cuộc chiến dằng dai đã kết thúc, vẫn không thể lần ra chút tăm hơi. Từ đó, người của Ban môn như đã bốc hơi khỏi cõi nhân gian, biệt tích giang hồ không để lại mảy may dấu vết.
Nhưng đám do thám của Nam Hải đường phía Chu gia lại tìm được một bức thư ở chùa Nam Sơn trong địa vực của chúng. Bức thư do đại sư Vô Do chùa Thiên Long, Đại Lý gửi tới bằng chim bồ câu chuyên dùng để trao đổi kinh văn Phật ngữ. Nghe nói phương trượng trong chùa sau khi đọc xong thư, đã một mình tới chỗ quần cư của tộc người Đản, từ đó không thấy trở về. Cho tới ngày nay, trong tập ký sự “Nam sơn tự lục” của ngôi chùa vẫn còn lại ghi chép về việc phương trượng đời thứ mười sáu thoát tục thần du, biệt vô âm tích.
Bức thư không dài, ý tứ đại khái như sau: “Thiên bảo và hung huyệt nghìn năm qua cân bằng lẫn nhau giống như âm dương, người đời thuận theo sự biến đổi của nó mà sinh sống đã thành quen thuộc, hà tất phải cưỡng cầu chuyện cương vực lãnh thổ, mà sự an khang hạnh phúc của sinh linh mới là quan trọng nhất. Thiên bảo phía tây trấn hung huyệt, huỷ diệt vô số sinh linh, lại chẳng bằng Địa bảo phía đông, tan vỡ mà tạo phúc một vùng. Theo ý trời chẳng bằng thuận tự nhiên, người đời tự khắc biết tránh hung tìm phúc, bất tất phải phá vỡ hiện trạng. Hậu duệ Lỗ gia nên giấu kín bảo cấu, mai danh ẩn tích không để kẻ tham lam lợi dụng. Có thể dùng cách cục “Vẽ hoa dụ bướm” trong Kỳ môn Độn giáp để thoát thân, thao tác cụ thể cần chu toàn nghiêm mật, chỉ được một người làm chủ, để những người không rõ sự tình trợ giúp”. Cuối thư đề tên môn trưởng Ban môn Lỗ Nhất Khí.
Nhận được thông tin này, Chu Ngộ Tâm mới ngộ ra thứ “trò quỷ” mà hắn lờ mờ cảm giác được trong ngày hôm đó là gì. Đó chính là tầng tư duy thứ ba của cô gái họ Lỗ mà hắn chưa thể động chạm đến. Còn tầng tư duy thứ hai mà hắn đã lần dò được trong mơ hồ ẩn hiện, kỳ thực chính là một khảm diện ngược. Khảm diện này chính là cách cục thoát thân đã được thiết kế cho riêng bọn họ, cũng là cách cục vây khống nhằm giam chân hắn ở đây không thể thoát thân. Bảo cấu hai nơi té ra chỉ là “vẽ hoa” để dụ con bướm là Chu gia. Chỉ vì những bảo cấu không phải là bảo cấu, mà hắn đã phải sát phạt với toàn bộ giang hồ.
Song Chu Ngộ Tâm vẫn không chịu bỏ cuộc. Và cuối cùng, sau khi trả giá bằng sự hy sinh của tuyệt đại đa số thuộc hạ Chu môn, hắn đã có thể an tâm và an toàn khai quật “bảo cấu”. Việc khai quật đơn giản hơn rất nhiều so với chiến đấu, đám thợ kỳ tài của Chu gia chỉ mất hai, ba ngày đã khẳng định chắc chắn cả hai nơi đều là bảo cấu giả. Tuy kết quả này sớm đã nằm trong dự tính của Chu Ngộ Tâm, song hắn vẫn cảm thấy đau đớn, uất hận và thất vọng không sao tả xiết.
Sau cuộc chiến dằng dai với các thế lực giang hồ tại vùng tây nam và chính nam suốt mấy tháng ròng, Chu gia lâm vào cảnh nhân tài cạn kiệt, lòng người phân tán, từ đó lụn bại, không thể phục hưng.
Khi rời khỏi Thiên Câu mịt mờ sương khói, phảng phất máu tanh, Chu Ngộ Tâm liếc nhìn cánh cửa bảo cấu nguỵ tạo bằng bóng đá ngấn nước, lại dõi mắt nhìn dãy núi hùng vĩ trập trùng, sắc biếc ngút ngàn, liên miên bất tận. Tận cùng của dãy núi là chân trời, tận cùng của chân trời là một dải mây lững lờ trôi nổi. Bảo cấu đang ẩn mình ngay trong dãy núi miên man kia, thế nhưng dưới gầm trời này, duy chỉ hậu duệ của Lỗ gia mới có thể tìm ra bảo cấu. Dưới gầm trời rộng lớn, liệu có ai biết được hậu duệ của Lỗ gia đang ở nơi đâu? Hoặc có lẽ, họ chính là áng mây đang trôi nổi cuối chân trời.
HẾT
Chú thích
[36] Có nghĩa là bia, bảng tắm ánh nắng.
[37] Có nghĩa là chiếc đấu cầu vồng hút trời.
Khi rời khỏi Thiên Câu mịt mờ sương khói phảng phất máu tanh, Chu Ngộ Tâm liếc nhìn cánh cửa bảo cấu nguỵ tạo bằng bóng đá ngấn nước, lại dõi mắt nhìn dãy núi hùng vĩ trập trùng, sắc biếc ngút ngàn, liên miên bất tận. Tận cùng của chân trời là một dải mây lững lờ trôi nổi. Bảo cấu đang ẩn mình ngay trong dãy núi miên man kia, thế nhưng dưới gầm trời này, duy chỉ hậu duệ của Lỗ gia mới có thể tìm ra bảo cấu. Dưới gầm trời rộng lớn, liệu có ai biết được hậu duệ của Lỗ gia đang ở nơi đâu? Hoặc có lẽ, họ chính là áng mây đang trôi nổi cuối chân trời.
o O o
Lúc phó quan Ngô tới vùng giao giới Xuyên Tạng, thời gian đã quá nửa đêm. Vài chục cây đuốc bằng gỗ thông tẩm mỡ bò Tây Tạng cháy lép bép, chiếu sáng rực một phạm vi vài chục bước chân. Nhưng trước mắt càng sáng sủa, càng khiến cho bóng đêm ở phía xa thêm thẳm sâu đặc quánh, không biết liệu có ác quỷ hung ma nào đang rình rập.
Có điều bận rộn sẽ khiến người ta quên đi sự sợ hãi, đám người do phó quan Ngô dẫn theo, ngoài một vài người vẫn cảnh giác trông chừng bốn phía, những người còn lại đều tất bật luôn tay.
Tuy phó quan Ngô không đích thân tham gia, song luôn miệng hò hét, sai khiến, đốc thúc không ngơi nghỉ lấy một giây. Xem ra, ông ta còn sốt ruột và căng thẳng hơn cả những người đang tay chân bận bịu.
Phó quan Ngô nghe theo lời dặn của Lỗ Nhất Khí, dẫn người tới đất Xuyên trước. Nào ngờ trên đừng gặp một người đồng hương làm quan chấp hành ở phủ đại soái Tứ Xuyên, bị người đồng hương này bán đứng cho đại soái Tứ Xuyên. Thì ra bản thân phó quan Ngô cũng không hay biết, sau khi ông bí mật chuồn khỏi thành Bắc Bình, các lộ quân đều đồn đại rằng ông đã dẫn người đi tìm bảo bối. Đồn thổi lắm, thêu dệt nhiều, cuối cùng ông ta đã bị thổi phồng thành một thần nhân có thể nhìn ra kho tàng sâu trong lòng đất. Bởi vậy, vừa tới phủ đại soái Tứ Xuyên, ông đã được tiếp đón vô cùng long trọng, song bên cạnh đó, cũng bị thủ hạ của đại soái kiểm soát gắt gao. Bởi lẽ đại soái rất muốn có một nhân tài như vậy để giúp ông ta đào trộm mộ cổ, vơ vét tiền của để bổ sung kinh phí cho quân đội.
Phó quan Ngô không còn cách nào khác, đành phải nhận lời đi đào mộ cổ, sau đó đưa người và vật dụng tới vùng giáp ranh đất Tạng. Ý đồ của ông rất rõ ràng, hy vọng có thể gặp Lỗ Nhất Khí ở đây, tới lúc đó muốn đào tìm kho báu hay chạy thoát thân, hẳn cũng không có gì khó.
Nhưng đã nhiều ngày trôi qua, không những không gặp được Lỗ Nhất Khí, mà với cả đống người và trang thiết bị mang theo, ông ta cũng chẳng đào được thứ khỉ mốc gì, khiến đại soái đùng đùng nổi giận, cảm thấy phó quan Ngô đang giỡn mặt mình. Ông ta đã đưa ra lời đe doạ, nếu vẫn không đào được mộ lớn, sẽ chôn sống luôn phó quan Ngô xuống đáy mộ. Bởi vậy phó quan Ngô đã đặt hết tâm huyết vào ngôi mộ nằm dựa vào chân núi trước mặt, hy vọng nó có thể giúp ông thoát khỏi mối nguy kề cổ.
– Trưởng quan Ngô, thuốc nổ đã bố trí xong xuôi, nhìn vào vết tích đường vào huyệt mộ, lát nữa thôi sẽ có thể nổ tung tới vị trí tường kim cương. – Người báo cáo tình hình với phó quan Ngô là một tay trộm mộ tài giỏi mà phủ đại soái chiêu mộ được.
– Thuốc nổ có quá nhiều không đấy, đến lúc đó lại sập tận nóc thì nguy! – Phó quan Ngô lo sợ những món quý giá trong mộ sẽ bị thuốc nổ phá huỷ.
– Không đâu! Nhìn vào chu vi, thì huyệt này chí ít cũng có đến ba tầng mộ thất. Cho dù có nổ sập cả tường kim cương, cũng chỉ tới gian mộ thất ngoài cùng được thôi.
– Vậy thì mau châm lửa đi, trời sắp sáng rồi. Vật quý trong mộ gặp ánh sáng mạnh là hỏng bét!
Tuy đã nghe phó quan Ngô giục giã, song tay trộm mộ vẫn đứng đờ ra không nhúc nhích, chỉ thấy mắt mũi trợn trừng, vành tai giật liên hồi kỳ trận.
– Nghe thấy gì à? – Phó quan Ngô lo lắng hỏi.
Tay trộm mộ không trả lời, sắc mặt xám ngoét đầy sợ hãi. Dưới ánh đuốc chập chờn, trông vẻ mặt hắn ma quái dị thường. Tiếp đến, cơ thịt trên mặt hắn bắt đầu giật lên rùng rùng theo một tiết tấu quái dị, sau đó là cả người rung giật.
Phó quan Ngô cũng rung lắc thân hình với một tiết tấu quái đản y hệt, thân hình đã không thể nào kiểm soát nổi nữa. Bởi vì toàn bộ mặt đất đang rung lên bần bật, biên độ rung lắc mỗi lúc một kịch liệt hơn.
– Là phía dưới! Nắp sắp nứt toác rồi! – Tay trộm mộ chỉ vào ngôi mộ lớn, hét toáng lên, tiếng hét đứt quãng trong cơn rung lắc điên cuồng. Vừa dứt lời, tay trộm mộ lập tức ngã sấp luôn xuống. Trong đám người xung quanh, kẻ nào nhanh nhẹn thì bắt chước ngay tay trộm mộ, nằm sấp xuống cả lượt; kẻ nào chậm chạp vẫn đứng trơ ra tại chỗ, mặt trợn trừng miệng há hốc vì khiếp đảm.
Biên độ rung lắc đã vô cùng dữ dội. Ngay sau đó, từ dưới lòng đất vọng lên một tràng những tiếng gầm rú khủng khiếp vang rền, tựa như một con yêu quái khổng lồ đang lồng lộn trong tầng sâu huyệt mộ chuẩn bị xông ra.
Gần rồi, đã rất gần rồi. Phó quan Ngô phán đoán, nếu luồng sức mạnh quái đản dưới lòng đất kia phá đất chui lên, thì vị trí nó xông ra có lẽ chính là ngay trước mặt ông. Bởi vậy phó quan Ngô không nằm ệp xuống, mà muốn bỏ chạy. Song đất dưới chân chao đảo liên hồi, cố gắng thế nào cũng không thể cất bước.
Chuỗi âm thanh kỳ lạ đột nhiên ngưng bặt, mặt đất chao đảo chốc đã lặng phắc. Những thân hình đang gắng gượng hết sức để đứng vững trong cơn rung lắc nhất thời không phản ứng kịp, theo nhau ngã dúi dụi. Phó quan Ngô không ngã, hai chân ông ta vừa lỏng ra đã quỳ sụp trên đất, đối diện với tấm bia đá nứt toác.
Tay trộm mộ đang bò lồm cồm trên đất. Hắn xưa này ăn cơm giang hồ, nên phản ứng nhanh nhẹn hơn hẳn đám quân binh. Âm thanh và cơn rung lắc vừa chấm dứt, hắn đã lập tức nhảy phắt dậy. Nhìn thấy phó quan Ngô đang quỳ trước bia mộ, lập tức lao vụt tới, chụp lấy hai tay phó quan Ngô kéo giật về phía sau, miệng bật ra vài chữ run rẩy:
– Ma cứng gối! Ma cứng gối!
“Ma cứng gối” là một truyền thuyết lưu truyền trong giới trộm mộ, nói rằng nếu đào nhầm mộ hung huyệt ác, ma quỷ trong mộ sẽ tác oai tác quái, khiến hai đầu gối kẻ trộm mộ cứng đờ mà quỳ sụp phía trước mộ hoặc bên trong mộ. Nếu không được giải cứu kịp thời, cuối cùng máu đông người cứng mà chết, khi chết không có thương tích, chỉ có khuôn mặt là tím bầm biến dạng. Nếu giải thích một cách khoa học, là do trong kiến trúc bảo vệ mộ có chứa chất độc, hoặc xác chết đã được ngâm trong chất độc đề phòng thối rữa, sau một thời gian dài, độc tố sẽ bốc hơi thành thể khí. Khí độc sẽ hoà lẫn với các chất khí khác trong hầm mộ, tạo thành một hỗn hợp khí khá nặng, chìm lắng dưới nền của mộ thất. Nếu chui vào trong hầm mộ kiểu này mà không thông gió kịp thời, khí độc sẽ xâm nhập vào chân trước tiên, khiến tế bào và hệ thống thần kinh ở chân tê liệt, hoại tử. Hai chân cứng đờ không đứng vững, cơ thể tự nhiên sẽ quỳ sụp xuống. Lúc này, nếu khí độc dâng lên mũi miệng, sẽ lập tức tắc thở mà chết.
Tay trộm mộ mới lôi phó quan Ngô đi được ba, bốn bước, phó quan Ngô đã đứng bật dậy bước đi theo hắn. Tay trộm mộ sững lại, lập bập hỏi:
– Không phải là ma cứng gối ư?
– Không phải! Trời ơi! Chuyện gì thế này?
Chính vào lúc này, đất đá dưới chân họ bỗng âm thầm nhúc nhích, rồi một khoảng đất to cỡ cỗ xe hai ngựa từ từ trồi lên trên.
– Chạy mau, quanh mộ có nút lẫy! – Tay trộm mộ cuống cuồng kéo phó quan Ngô chạy tới một tảng đá nhô ra ở bên cạnh, còn chưa tới nơi đã tung mình nhảy vụt đi, lăn lông lốc đến phía sau tảng đá.
“Rầm… Rầm… Rầm!”
Ba tiếng nổ xé trời dội lên liên tiếp nghe muốn rụng tim vỡ mật. Đá vụn bắn tung toé, bụi đất bốc mịt mù. Một khối đá vuông vức to tướng bật nhào khỏi mặt đất, rồi nện xuống “uỳnh” một tiếng như trời giáng.
Xung quanh đã yên tĩnh trở lại, bụi đất tung mù cũng dần tản bớt. Đám người trộm mộ vẫn nằm bò toài trên đất, hoặc cuộn mình chui rúc trong các khe rãnh xó xỉnh, đến thở mạnh cũng không dám. Đuốc rơi vãi tứ tung trên đất, ánh lửa phập phù chập choạng như sắp tắt đến nơi.
Một hồi lâu sau, tay trộm mộ và phó quan Ngô cuối cùng cũng đã lấy hết dũng khí bước ra từ phía sau mỏm đá, nem nép tiến về phía khối đá to lớn vừa bật ngược lên.
Khối đá bật lên để lộ ra một con đường dốc. Nhìn vào mặt đường và vách tường hai bên, đoán rằng có lẽ đây là đường thông ra ngoài của ngôi mộ lớn.
Tay trộm mộ nhặt một hòn cuội tròn nhẵn ném xuống con đường, hòn cuội lập tức lăn đi lông lốc tới tít xa mới dừng lại.
– Không phải rồi, khoảng cách này đã vượt qua mộ thất đầu tiên. Ngôi mộ này tại sao lại không có cửa kim cương nhỉ? – Tay trộm mộ lại lôi ra một vật hình cầu, châm vào một ngọn đuốc gần tàn đang lăn lóc trên mặt đất. Vật này được giới trộm mộ chuyên dùng để dò đường, xua đuổi âm uế, gọi là cầu gai ngâm dầu. Quả cầu kết bằng gai trông không lớn, song lại cháy thành một khối lửa không nhỏ chút nào. Quả cầu lửa lăn dọc theo đường hầm, khi nó lăn được một nửa, tay trộm mộ vội vã bước vào theo.
Phó quan Ngô vội hô gọi những người khác cầm đuốc đi vào trong hầm mộ. Vài chục ngọn đuốc đã chiếu sáng rực đoạn đường hầm. Sau khi bước vào mới thấy, mộ thất cũng có cửa kim cương, song đã được mở ra. Tiếp tục vào trong là gian mộ thất bên ngoài và mộ thất bên cạnh, song nơi nào cũng trống huơ trống hoác, chẳng thấy bóng dáng một món tuỳ táng nào. Chỉ thấy cả đống lưỡi đao, mũi tên hoen gỉ gãy nát la liệt đầy đất.
Con đường hầm thông tới gian mộ thất chính rất khó đi, phải cúi gập lưng hoặc áp sát vách tường mới tiến lên được. Bởi vì trên nóc hầm treo lủng lẳng hơn chục súc gỗ tròn to tướng, dây xích buộc gỗ đã hoen gỉ tới thảm hại. Khi các súc gỗ đung đưa, chúng phát ra những tiếng cọt kẹt vô cùng rùng rợn.
Trong mộ thất chính, ngoài một cỗ quan quách cỡ bự, không có bất kỳ thứ gì khác.
– Thế này là sao? Chẳng có cóc khô gì cả! – Phó quan Ngô vô cùng thất vọng – Bật quan tài ra xem thử, không chừng đồ quý giá đều giấu cả trong đó!
– Không phải là không có, mà đã bị người khác vét sách rồi. – Tay trộm mộ nói – Quái lạ thật, bọn người đó chui vào đây bằng cách nào nhỉ? Lại còn lật ngược nút khảm trong mộ, cứ như cố ý dẫn chúng ta vào đây.
Phó quan Ngô nghe hắn nói vậy, có vẻ không hiểu lắm. Tay trộm mộ bèn giải thích một lượt cho ông ta nghe:
– Toàn bộ cơ quan của ngôi mộ lớn này được bố trí theo hình thức lực chồng nhau. Có nghĩa là khi khảm nút thứ nhất bị phá, lực đạo từ chốt lẫy của nó sẽ tăng cường vào khảm nút tiếp theo, như vậy, lực tác động của khảm nút tiếp theo sẽ càng mạnh mẽ hơn. Cứ tiếp tục tương tác như vậy, càng về sau, thế tấn công của khảm nút càng ghê gớm. Những tiếng động quái dị vọng lên từ trong lòng đất khi nãy là do có người đã phá bỏ toàn bộ các chốt lẫy trong mộ. Khảm diện “tường loạn hợp” trong mộ thất chính, bên ngoài có “gỗ lăn kẹp”, còn có “mưa tên bay”, “đao tròn mây cuốn”. Chúng ta dù có liều mạng xông vào, cũng chưa chắc đã tới được đây. Kẻ giải khảm trong mộ hẳn là cao thủ cực kỳ lợi hại, hơn nữa vừa mới đi khỏi chưa lâu. Vấn đề là hắn ra vào từ chỗ nào?
Phó quan Ngô như bừng tỉnh, vội vã đảo mắt quan sát khắp một lượt xung quanh, cuối cùng ánh mắt vẫn dừng lại ở cỗ quan tài duy nhất trong một thất.
– Người đâu, mau di chuyển quan tài!
Cỗ quan tài được dịch sang một bên, phía dưới hiện ra một đường hầm dài chật hẹp.
– Trời! Nhập huyệt từ bên dưới! Đây là thủ pháp dời non phá núi. – Tay trộm mộ đã nhận ra.
Nghe được lời này, phó quan Ngô đột nhiên như hiểu ra điều gì, vội nói:
– Bật nắp quan tài ra!
Nắp quan tài được lật sang một bên. Phía trong, ngoài mớ xương cốt khô queo như đất, còn có một phong thư, một phong thư còn thơm mùi mực.
Phó quan Ngô vội chụp lấy phong thư, trong lòng vô cùng rầu rĩ thất vọng. Ông biết mình đã bỏ lỡ mất một thứ quan trọng hơn gấp bội so với những món tuỳ táng trong hầm mộ.
– Người chưa đi xa, hiện tại đuổi theo vẫn kịp! – Có người nhắc nhở.
Song phó quan Ngô còn chưa kịp đưa ra quyết định, bên ngoài bỗng rộn lên tiếng kêu réo ầm ĩ. Âm thanh truyền vào từ cửa mộ, văng vẳng trong gian mộ thất âm u.
Phó quan Ngô vội vã xông ra khỏi đường hầm mộ, chỉ nhìn thấy trên không trung một vầng sáng rực rỡ như vô số đốm sao trời đang dần dần chuyển từ hình tròn sang hình chiếc rìu. Hình dạng này phó quan Ngô đã nhận ra, giống y hệt hình Lộng phủ của Lỗ gia. Vầng sáng hình Lộng phủ chỉ duy trì trên không trung chốc lát, rồi dần dần biến thành hình con chim bồ câu đang dang cánh bay, với phần đuôi như ngọn lửa cháy bùng. Chim bồ câu lấp lánh trên không trung một lúc rồi dần dần tắt lịm.
Phó quan Ngô đứng ngẩn người nhìn lên bầu trời đã tối tăm trở lại, đột nhiên như bừng tỉnh. Thứ quý giá kia ông vẫn chưa vuột mất. Ông bèn đưa phong thư đang cầm trong tay ra xem, bên ngoài phong thư chỉ vỏn vẹn một hàng chứ khải: “Khẩn cấp gửi tới Bán Sơn Lam ở đồng cỏ Tát Nguyệt Ngạch núi Cổ Mã”.
Lá thư của Lỗ gia. “Khẩn cấp”, đây cũng chính là nội dùng mà đợt pháo hoa vừa nhắn nhủ. Phó quan Ngô hiểu rằng, chuyện này mình cần phải thực hiện một cách cấp tốc nhất, trọn vẹn nhất có thể.
– Người đâu, mau chuyển lá thư này theo đường thư tín quân sự, nhất thiết phải đảm bảo tới nơi nguyên vẹn và nhanh chóng! – Ở vùng Xuyên Tạng hoang vu hẻo lánh, có lẽ không còn cách đưa thư nào an toàn và nhanh chóng hơn đường thư tín quân sự.
– Tính mạng của bản thân gia tộc đều trông cả vào nó! – Phó quan Ngô bồi thêm một câu đầy uy hiếp. Những người nghe thấy đều cảm tưởng rằng tình mạng của bọn họ đều trông chờ cả vào bức thư này, nhưng chỉ có phó quan Ngô mới biết, câu nói đó chỉ dành riêng cho ông.
Từ trên đỉnh đồi, Cửu thiên hoả ưng Viêm Hoá Lôi nhanh chóng trượt xuống chân dốc. Dưới chân dốc đã có một cỗ xe ngựa lớn đang chờ sẵn. Trên xe lố nhố năm sáu người, ai nấy sùm sụp áo choàng đen kín mít, đến khuôn mặt cũng che kín quá nửa. Có điều nhìn vào thân hình, có thể đoán ra trong bọn có cả nam và nữ.
– Cậu cả! Thư pháo hiệu đã nổ hết rồi! – Viêm Hoá Lôi nói với một người trong bọn họ.
– Tốt rồi, thư chuyển theo đường quân sự, ba ngày sau có thể tới tay Bán Sơn Lam. Chúng ta ở đây thêm ba ngày nữa, sau đó dẫn theo phó quan Ngô cùng đi! – Giọng nói của người này vô cùng điềm tĩnh, hơi thở hài hoà, song lại mang một uy thế không thể kháng cự.
Viêm Hoá Lôi nhẹ nhàng nhảy lên xe ngựa. Chiếc roi dài trong tay một người ngồi phía trước vút lên âm thầm giữa không trung. Bóng roi vừa lướt qua trước mặt ngựa kéo xe, vó ngựa lập tức lóc cóc khởi hành. Rất nhanh, cỗ xe đã biến mất trong khe núi dưới chân dốc.
Vào tảng sáng ba ngày sau, Bán Sơn Lam ở đồng cỏ Tát Nguyệt Ngạch núi Cổ Mã đã nhận được thư. Sau khi bóc thư, bên trong còn có một phong thư nữa. Trên phong thư đề: “Gửi pháp sư Vô Do chùa Thiên Long”. Ngoài những chữ này, còn có một đường loằng ngoằng trông rất quái lạ. Đường cong này tượng trưng cho thứ gì, chỉ có một số người biết được, trong đó có Bán Sơn Lam. Đó là hình vẽ một chiếc roi ngựa dài độc nhất vô nhị.
Bán Sơn Lam lập tức gọi tới một tay đàn em được việc nhất, dặn dò:
– Chuyển bức thư này tới pháp sư Vô Do chùa Thiên Long tại Đại Lý theo đường la ngựa.
Khi đó, từ đất Xuyên tới Vân Nam, cách nhanh nhất chính là đi theo đường la ngựa. Đường la ngựa đều do các băng nhóm dân gian kiểm soát, cũng giống như băng nhóm Ao Ca kiểm soát đường thuỷ tại đất Xuyên. Hơn nữa, do các băng nhóm trên đường la ngựa đều cần đến ngựa khoẻ và người đánh xe giỏi, bởi vậy rất nể mặt Bán Sơn Lam và Biện Mạc Cập. Bên cạnh đó, đường la ngựa cũng là con đường an toàn nhất.
Song người nhận thư cuối cùng lại không phải là đại sư Vô Do. Vậy bước tiếp theo sẽ phải chuyển thư bằng cách nào? Liệu đại sư Vô Do có thể đưa thư thuận lợi hay không?
Tuy tiết trời đã cuối thu, song ở vùng Hải Nam vẫn chưa cảm nhận được cái giá lạnh. Sa Khẩu đứng trên một tảng đá nhô trên mặt nước, dưới chân là mặt biển biêng biếc xanh trong, nhìn thấu cả rặng san hô và đàn cá bơi lội nhởn nhơ dưới đáy. Nhưng khác với thường ngày là ở chỗ, dưới nước lúc này ngoài san hô và cá lội tung tăng, còn có thêm những người đang bơi lặn như cá.
Sa Khẩu tuy đứng bên bờ, song lại không quan sát tình hình dưới nước. Bởi lẽ chỉ cần nhìn vào những con sóng dập dềnh và hướng lan toả của sóng nước, hắn đã có thể phán đoán về tình hình chiến sự dưới kia. Trận kịch chiến dưới nước sẽ kết thúc rất chóng vánh, tuy là một chọi ba, song giành chiến thắng lại là phe một người.
Cách chỗ Sa Khẩu đứng không xa, có một tảng đá to lớn hơn nữa. Hình dạng của tảng đá rất đặc biệt, giống như một nóc nhà nhô trên mặt nước. Xa xa ở mé phía nam tảng đá đó có một hòn đảo không lớn lắm. Dọc bãi cạn ven đảo có một vạt nhà bè, là chốn quần cư của gia tộc Đản sống trên thuyền chuyên nghề chài lưới. Lúc này đang có vài con thuyền gỗ nhỏ xuất phát từ phía nhà bè chèo về phía này.
Chính vào lúc đó, mặt nước dưới chân Sa Khẩu bỗng gợn lên vài gợn sóng nhọn hoắt rối loạn, ngay sau đó lại xuất hiện vài vòng xoáy nhỏ. Sa Khẩu biết trận chiến đã sắp kết thúc, chiêu thức của đao đâm cá đã hoàn toàn rối loạn, đao phá vỏ đã bắt đầu đòn tàn sát cuối cùng.
Quả đúng như vậy, chỉ chốc lát sau, một khối đỏ ngầu sủi bọt đã loang rộng và nổi lên mặt nước, một vùng nước trong xanh tinh khiết bỗng chốc trở nên vẩn đục. Trong khi những dòng đỏ ối vẫn đang tiếp tục cuộn trào, thì một thân hình mảnh mai xinh đẹp bỗng đột ngột lao vọt lên khỏi mặt nước, hệt như cá heo nhảy sóng. Sau khi vụt lên khỏi mặt nước, thân hình đó còn uyển chuyển xoay lắc vài nhịp trên không trung, lại có thể di chuyển ngang thêm một đoạn nữa, rồi nhẹ nhàng đáp xuống bên cạnh Sa Khẩu. Người vừa lao lên là một cô gái trẻ, mình mặc bộ đồ lặn bó sát người, không những thân hình thon thả yêu kiều, mà khuôn mặt cũng vô cùng xinh đẹp. Khiếm khuyết duy nhất ở cô là nước da ngăm đen. Song bất kể xét từ phương diện nào, cô đều không giống một người vừa hạ gục ba cao thủ trong cuộc hỗn chiến dưới nước.
– Giải quyết xong cả rồi? – Sa Khẩu hỏi.
– Xong rồi! – Cô gái không những dung mạo xinh đẹp, mà giọng nói cũng rất ngọt ngào dễ nghe.
– Nhìn vào chiêu thức, có nhận ra là lộ nào không? – Sa Khẩu lại hỏi.
– Không giống mấy lần trước, lần này dường như là vùng nước phía bắc.
Sa Khẩu không nói gì, chỉ ngoái đầu nhìn tảng đá ngầm giống hệt nóc nhà, vẻ mặt rất đăm chiêu.
– Lần này đã là lần thứ năm rồi. Hai lộ đầu tiên là từ Tiềm Võng đường ở vùng này. Hai lộ tiếp theo là bọn Phúc Kiến ở vùng biển phía đông và đám cao thủ bơi lội vùng sông ngòi Giang Chiết. Lần này, nhìn từ chiêu thức và phương pháp lấy hơi, có vẻ giống như một bang phái nào đó ở vịnh Bột Hải. – Cô gái trả lời.
Sa Khẩu vẫn nhìn chằm chằm vào tảng đá hình nóc nhà, không nói câu gì.
– Xem ra đối thủ đã nhắm tới khu vực này. Anh ơi, người mà anh nói bao giờ mới tới? Nếu không nhanh chóng xử lý đại sự nơi đây, đối thủ lại điều thêm cao thủ hoặc tập trung đông đảo lực lượng kéo tới, thì hai chúng ta sao có thể chống đỡ nổi? – Vẻ mặt cô gái vô cùng lo lắng.
– Đã tới rồi! Chúng ta gấp rút chuẩn bị thôi! – Không rõ Sa Khẩu nói “đã tới rồi” là ám chỉ người kia hay là đối thủ.
Sa Khẩu hướng về phía mấy con thuyền gỗ nhỏ phía xa, hét thật lớn vài câu bằng thứ phương ngữ không ai hiểu nổi. Dứt lời, phần lớn những con thuyền đó đều quay đầu trở lại, chỉ còn một con thuyền vẫn tiếp tục tiến về phía tảng đá ngầm.
– Anh ơi, anh bảo họ lập tức buông lưới móc câu và bẫy nước cuộn quấn mái chèo, nhưng những thứ đó chúng ta vẫn chưa chuẩn bị đủ số lượng cần thiết, nhiều nhất cũng chỉ có thể vây một nửa đài Mộc Triều thôi!
– Không kịp nữa rồi, vây được bao nhiêu biết bấy nhiêu. Bối Nữ, em xem mặt trời lại ngả về tây rồi, thuỷ triều vừa rút, toàn bộ đài Mộc Triều sẽ lộ diện! – Tuy nói như vậy, song vẻ mặt Sa Khẩu lại không tỏ vẻ gì sốt ruột.
Con thuyền nhỏ mau chóng chèo đến sát tảng đá, Sa Khẩu và Bối Nữ bước lên thuyền, di chuyển về phía tảng đá to lớn có hình mái nhà. Xa xa phía vạt nhà bè, rất nhiều thuyền nhỏ chở đầy đồ đạc cũng chèo về phía tảng đá. Một bầu không khí bận rộn và căng thẳng mau chóng lan toả xung quanh tảng đá ngầm to lớn.
Mặt trời lặn xuống rất nhanh, song thuỷ triều rút xuống còn nhanh hơn nữa. Khi chân trời phía tây chỉ còn lại một vệt đỏ lờ mờ, phần lớn tảng đá ngầm đã nhô lên khỏi mặt nước. Lúc này, trông tảng đá ngầm càng giống một toà lầu, một toà lầu phi vân kiểu dáng Đông Chu với phần mái chồng diêm hai tầng tám góc, nổi lên trên mặt nước mênh mông phẳng lặng, trông nổi bật và kỳ dị vô cùng.
Tảng đá ngầm nhỏ hơn mà Sa Khẩu đứng ban nãy cũng đã nhô cao trên mặt nước, tựa như một thanh kiếm sắc nhọn cắm vào sóng biển. Mặt nước vẩn máu đỏ ngầu bên tảng đá đã lại trong veo như cũ. Người dưới nước vẫn còn, có điều đã trở thành ba xác chết với bụng ngực phanh phui. Bầy cá tung tăng bơi lội hồi chiều giờ bắt đầu nhởn nhơ rỉa xác. Bỗng nhiên, không hiểu có chuyện gì, bầy cá chợt hốt hoảng dạt ra tứ phía.
Chỉ cần bước lên phía trước thêm vài bước, sẽ là vách đá dựng đứng. Độ cao mà mắt nhìn thấy được và độ sâu suy đoán được khiến Lỗ Thiên Liễu không đủ dũng khí để tiến về phía bờ mép thêm nửa bước chân.
Thiên Câu rất dài, tựa như có một lưỡi đao khổng lồ sắc ngọt đã chém toạc một đường thẳng tắp trên cao nguyên Vân Quý. Dọc theo Thiên Câu nhìn về phía xa, thấy phía dưới Thiên Câu cỏ cây rậm rạp, xanh tốt um tùm. Tuy rất e sợ độ cao của Thiên Câu, song ngút ngàn sắc biếc dưới khe lại mang tới cho Lỗ Thiên Liễu một cảm giác thân thiết như trở về nhà cũ.
Dưới ánh nắng mặt trời chói chang, từ sâu thẳm bên dưới Thiên Câu phơ phất bay lên những làn chướng khí nhàn nhạt đủ màu, tích tụ mỗi lúc một dày, khiến một dải Thiên Câu mờ ảo trong những sắc màu rực rỡ. Trong “Tây nam du dị tập” của Thi Thệ Kiệt đời Minh có đoạn viết: “Dưới rãnh vật thối rữa tích tụ, nắng chiếu vào thành sương mù. Sau giờ Ngọ sương mù trong rãnh mới bốc lên, tới nửa đêm thì tan, tuy màu sắc rực rỡ tựa cầu vồng, song cực độc không thể chạm vào… gọi là sương độc”. Nếu giải thích một cách đơn giản, sương độc chính là một dạng sương mù chứa độc tố. Tuy màu sắc vô cùng diễm lệ, song cũng giống như loài nấm, màu càng sặc sỡ lại càng độc.
Vết tích hình ngọn tháp lờ mờ in trên vách phía tây của Thiên Câu lúc này đã bị sương độc che khuất một nửa phía dưới, không còn nhìn thấy hình cửa vào. Vào buổi sáng, khi sương mù chưa toả, chỉ cần căn cứ vào sự phân bố sáng tối của ánh sáng, Lỗ Thiên Liễu đã phát hiện ra hình cánh cửa tuy trông có vẻ giản đơn, song toàn bộ bề mặt có độ lồi lõm nhịp nhàng, đó là một cách bố trí vô cùng tinh xảo.
Ngoài Lỗ Thiên Liễu, một người nữa cũng đã nhận ra nét tinh xảo trong đó. Người này là bạn thân của Lỗ Thịnh Nghĩa, hai người đã kết mối thâm giao khi Lỗ Thịnh Nghĩa tới tây nam tìm kiếm tung tích, chính là cao thủ làm khoá mở khoá Khoái Hoạt Tử. “Khoái” là họ thật, còn Hoạt Tử là biệt hiệu, có nghĩa là khe hở, nguyên do là vì ông ta méo miệng bẩm sinh, nên miệng lúc nào cũng vênh hở không ngậm chặt lại được.
Năm xưa Khoái Hoạt Tử đánh cược với một cao nhân tiền bối, kết quả là bị đối phương nhốt vào trong cửa Linh Lung khoá lạ thiên cổ chín vòng. Ở đây cửa cũng là khoá, khoá cũng là cửa, vận dụng chín vòng số thiên luân tuần hoàn tương khắc, lại thêm một nghìn cặp điểm chết Linh Lung, chỉ cần chạm nhầm một điểm chết, trật tự sắp xếp của toàn bộ số khoá sẽ lập tức đảo lộn hoàn toàn, tức là xoay chuyển sang một vòng thiên luân mới. Cũng có nghĩa là toàn bộ các phương pháp và trình tự mở khoá đều phải tính toán, sắp xếp lại từ đầu, sau đó lại phải lần lượt tiến hành giải chính xác từng điểm chết.
Khoái Hoạt Tử bị giam hãm trong cửa Linh Lung suốt mấy ngày trời vẫn không thể mở khoá thoát ra, cuối cùng nhờ có Lỗ Thịnh Nghĩa bên cạnh trợ giúp, gợi ý cho ông ta xuất phát từ cấu tạo của hình cửa, tháo dỡ bản lề cửa mà thoát thân. Đương nhiên, tháo dỡ bản lề không phải là cách mở khoá đường đường chính chính, nên xét về nguyên tắc thì Khoái Hoạt Tử đã thua. Có điều vị cao nhân tiền bối đã đánh cược thấy ông ta có thể thoát thân qua một lối tắt bất ngờ, một mặt vì yêu quý nhân tài, mặt khác cũng cảm thấy bản thân mới chỉ chú trọng tới kỹ xảo của khoá, mà chưa chú ý tới những chi tiết khác, bởi vậy đã chủ động thừa nhận mình thua Khoái Hoạt Tử. Nhờ đó, Khoái Hoạt Tử mới bảo toàn được danh dự giang hồ. Để biểu thị lòng cảm kích trước Lỗ Thịnh Nghĩa, Khoái Hoạt Tử đã hứa hẹn rằng, nếu đại sự của Lỗ gia tiến hành đến vùng tây nam, ông ta sẵn sàng ra tay tương trợ.
Nhìn vào hình dáng cánh cửa trên vách đá và sự phân bố lồi lõm sáng tối trên bề mặt, có vẻ rất giống với cửa Linh Lung chín vòng mà năm xưa Khoái Hoạt Tử đã phải bó tay không thể hoá giải. Nhưng nơi này tuyệt đối không giống như cửa Linh Lung chín vòng, bởi lẽ ở đây lấy vách đá làm khoá, nên không thể thiết lập chín vòng biến đổi. Do đó, nếu không may chạm lầm chỗ, sẽ khiến điểm chết, điểm khớp của toàn bộ khoá vỡ vụn, trở thành một ổ khoá chết mãi mãi không bao giờ mở được, nên không có cơ hội thử lại lần thứ hai.
Vách đá của Thiên Câu dựng đứng, lại cao vút, sâu hoắm, đến Lỗ Thiên Liễu cũng không dám tới gần. Thế mà lúc này lại có hai gã trung niên đang đứng sát mép đá, hơn thế nữa, còn nhoài cả nửa người dòm ngó xuống phía dưới mà quan sát. Hai người này là anh em ruột, người anh tên là Phong Sơn Tả, người dân nơi đây quen gọi là Toạ Sơn Phong; còn người em là Phong Sơn Hữu, thường gọi là Quá Sơn Phong. Hai anh em cùng là đệ tử gửi mệnh của chùa Thiên Long, đều mang những bản lĩnh độc đáo được rèn luyện nên từ chốn rừng sâu núi thẳm.
Phong Sơn Tả am hiểu về các loại thảo dược kỳ lạ có thể hoá giải trăm thứ độc. Đặc biệt hơn nữa là hắn có thể phân tích thành phần cấu tạo của sương mù chướng khí trong núi, từ đó tìm ra loài thảo dược thích hợp để ứng phó. Còn Phong Sơn Hữu có bản lĩnh đặc biệt là đánh giá hình núi, leo lên vách núi hiểm trở. Dù núi non có cheo leo chót vót đến đâu, cũng không có vị trí nào hắn không thể leo tới.
Quan Ngũ Lang và một lão già gầy gò nhỏ thó cùng ngồi dưới một gốc cây cách mép đá khá xa. Quan Ngũ Lang tay siết chặt cán đao, vẻ căng thẳng hiện rõ trên nét mặt. Cũng khó trách anh ta, trong những ngày qua, anh ta đã phải chịu đựng những cú tổn thương chưa từng có. Lần nào cũng thua liểng xiểng chỉ sau hai ba chiêu, đến một chút cơ hội cầu may cũng không có. Mà điều khiến anh ta không thể chịu đựng nổi chính là đối thủ chỉ đánh bại anh ta, mà không hề gây tổn thương đến cơ thể. Thật chẳng khác gì chơi trò mèo vờn chuột, đã huỷ hoạt dần niềm tin trong Quan Ngũ Lang.
Lão già nhỏ thó ngồi thảnh thơi hút thuốc, ngọn lửa liên tục nhảy nhót trong tẩu. Làn khói thuốc phả ra chẳng khác gì sương mù, cô đọng mà không tản mát. Khói thuốc phả ra mỗi lúc một nhiều, chồng chất lên nhau, tạo nên những hình thù kỳ quái, lạ lùng, tựa như một bức tranh sơn thuỷ lập thể, cũng lại tựa như khung cảnh thần tiên thu nhỏ, khói mây vấn vương, sương mù lãng đãng. Kỹ thuật nhả khói độc đáo này gọi là yên hoạ (tranh khói), ở vùng Vân Quý Xuyên trước kia thường có người chuyên biểu diễn loại hình nghệ thuật này ở quán rượu, quán trà. Nhưng chắc chắn những người biểu diễn chuyên nghiệp kia không sánh được với lão già này, tranh khói của họ không thể ngưng tụ lâu như của lão, bởi vì lão dùng khí để ngưng tụ khói. Lúc này, lão già đã phun ra không dưới mười bức tranh khói giống hệt nhau, hình dạng của chúng chính là dãy núi trập trùng ngút mắt xung quanh bọn họ.
Lão già gầy gò là bạn chí cốt suốt mấy chục năm của đại sư Vô Do, là bậc thầy khí công danh tiếng lừng lẫy trong giang hồ Thôi Vân Phi. Lỗ Thiên Liễu và Quan Ngũ Lang vừa tới vùng Tây Nam, đã bị mấy kẻ áo đen mũ lá sùm sụp bám riết, sau vài lần giao đấu thử, thấy chúng mình cứng như đá, đánh vào trơ trơ không có cảm giác gì, chỉ hai ba chiêu đã dồn ép Quan Ngũ Lang không còn đường đối phó. Bởi vậy, để ứng phó với đám cao thủ này, đại sư Vô Do đã mời Thôi Vân Phi tới giúp đỡ.
Thôi Vân Phi không những là đại sư khí công, mà còn là truyền nhân duy nhất của Kỳ Số các. Kỳ Số các cũng là một môn phái khảm tử tài nghệ cao cường trong giang hồ, đặc điểm nổi bật nhất của phái khảm tử này là lợi dụng địa hình địa mạo để bố trí các loại nút chết. Những kỹ pháp này đa số dùng để sát phạt ở những vùng đất hoang vu và trong quân sự. Nhưng lúc này, Thôi Vân Phi lại thổi ra tranh khói hình núi non, vì lão đã phát hiện ra những vị trí có thể lợi dụng để bố trí khảm nút trên dãy núi đều đã bị người khác chiếm lĩnh trước. Hơn nữa, đối thủ phần lớn dùng kỹ pháp của Kỳ Số các, trong khi kỹ nghệ này vẫn do lão ta nắm giữ, nên lão cảm thấy vô cùng kinh ngạc.
Trong đám Lỗ Thiên Liễu, có hai người đang ở trong trạng thái vô cùng căng thẳng. Một người chính là đại sư Vô Do của chùa Thiên Long, ông đang ngồi ngay ngắn trên một tảng đá vân vuông vắn, tay gõ mõ liên hồi, miệng lầm rầm tụng niệm chú ngữ “Minh huệ giải thoát”. Bên dưới tảng đá vân, có một hình người cứng đờ đờ đang nhảy nhót một vũ điệu vô cùng quái dị. Người này là Ngôn Hành Dạ, người Tương Tây, chuyên làm nghề đuổi xác. Năm xưa, ông đã từng cùng Lỗ Thịnh Hiếu chế tạo ra hòm nhốt xác chết ô chéo âm dương để bắt nhốt mụ ma đêm trên núi Dã Mão. Lúc này, Ngôn Hành Dạ không phải đang nhảy múa, mà là đang thực hiện một phép thuật hết sức kỳ bí, gọi là “Dẫn hồn hành”.
Cả thần chú “Minh huệ giải thoát” của đại sư Vô Do và “Dẫn hồn hành” của Ngôn Hành Dạ đều có tác dụng thu nhiếp hồn phách và trấn an niềm tin của con người. Lúc này, đại sư Vô Do mồ hôi đã rịn đầy trên trán, còn Ngôn Hành Dạ lưng áo ngực áo đều ướt đẫm cả mảng. Xem ra, hai người họ đang phải tiêu hao tâm lực và thể lực một cách nghiêm trọng.
Phía Chu gia ẩn phục ở đây không dưới trăm người, trong đó có không ít cao thủ thượng đẳng trong giang hồ. Hơn nữa, từ chỗ bắt đầu rặng núi tới phía dưới khe núi bên cạnh, còn bố trí dày đặc đủ loại khảm nút. Nút người, nút thú, nút độc, nút binh khí rải rác khắp mọi nơi, thiết kế tinh xảo, hoặc chặn hoặc giết. Nếu muốn xông qua đại cục dài dằng dặc với vài chục nút lẫy hiểm độc và trên trăm cao thủ rình rập ở đây, chỉ dựa vào đám người ít ỏi của Lỗ Thiên Liễu, e rằng còn khó hơn cả lên trời.
Tuy nhiên tất cả những thứ này vẫn chưa phải là những thứ đáng sợ nhất mà đám Lỗ Thiên Liễu buộc phải đối mặt. Đối thủ thực sự của họ chỉ là một người. Một gã thanh niên lặng phắc như đá tảng, sắc mặt như xác chết, cặp mắt xanh biếc như ngọc.
Lỗ Thiên Liễu không biết gã thanh niên này đã bám theo mình từ lúc nào, từ nơi nào, tuy rằng khí chất tao nhã và dung mạo anh tuấn của hắn rất dễ lưu lại cho người khác ấn tượng sâu sắc. Hơn nữa, khi Lỗ Thiên Liễu phát hiện thấy điểm bất thường, thì cô đã tới địa giới tây nam. Ngoài Quan Ngũ Lang, còn có Ngôn Hành Dạ và Khoái Hoạt Tử cùng đi. Thế mà cả bốn vị cao thủ lão luyện giang hồ đều không hề phát giác ra sự tồn tại của gã thanh niên kia. Chỉ tới khi Lỗ Thiên Liễu thi triển ba giác siêu phàm để tìm kiếm lối ra tại khe suối Thuý Hoàn, cô mới phát hiện ra sự xuất hiện của hắn.
Ám cấu cất giấu bảo bối ở vùng tây nam khởi công sớm nhất, tiêu hao nguồn nhân lực vật lực nhiều nhất, thiết kế và bố trí cũng hoàn mỹ toàn thiện nhất. Khi đó, do vùng tây nam địa thế hiểm ác, đệ tử Lỗ gia phải nhờ cậy Mặc gia trợ giúp mới có thể hoàn thành việc xây dựng bảo cấu. Sau khi hoàn thành, để đề phòng hai bên nghi ngại lẫn nhau, tỏ rõ khí độ quân tử, nên cả hai nhà đều không cắt cử đệ tử ở lại bảo vệ bảo bối. Thứ nhất, địa giới nơi này dưới ảnh hưởng của khí hậu và địa chất, nên địa hình, sông ngòi và cây cỏ biến đổi rất chóng vánh, chỉ trong một thời gian ngắn ngủi đã khó lòng tìm lại được vị trí cũ. Thứ hai, do các bậc tổ tiên rất mực tự tin, vì bảo cấu nơi này hội tụ kỹ nghệ tuyệt đỉnh của hai nhà, nếu không phải cao nhân thượng đẳng, sở hữu kỹ nghệ siêu phàm, tuyệt đối không có khả năng khai quật.
Nơi người Lỗ gia thường xuyên qua lại nhất cũng là vùng tây nam, bởi lẽ trong số bảo bối đã được cất giấu, duy chỉ có bảo bối phía tây nam là có được một chút manh mối do tổ tiên để lại. Đó là một câu truyền miệng: “Thiêu Câu tây nam, tháp nổi nhập vách”. Sau khi Lỗ Thiên Liễu tới tây nam, đương nhiên không chịu bỏ qua bất kỳ một khe núi, rãnh sâu, lòng máng nào. Cô có ba giác quan siêu phàm, lại có khả năng tìm kiếm biện nhận vô cùng nhạy cảm, chính xác. Hơn nữa, càng ở những nơi cây cối rậm rạp, rừng núi um tùm, linh tính của cô lại càng được phát huy đến cảnh giới tự do tuyệt đối.
Ngay từ khi mới phát hiện ra sự bất thường ở khe suối Thuý Hoàn, Lỗ Thiên Liễu đã không hề cảm nhận thấy sự uy hiếp hay công kích, chỉ cảm thấy khí tướng kỳ dị này lúc xa lúc gần, thoắt ẩn thoắt hiện. Song dần dần, dị tướng kia đã thâm nhập và hoà trộn vào trong suy nghĩ và cảm giác của cô, hơn nữa còn mau chóng thuận ứng theo nhịp tim, hơi thở và từng biến đổi vô cùng tinh vi trong cơ thể cô, tựa như là lại có thêm một “Lỗ Thiên Liễu” nữa đang dung hoà trong tâm não. Đối diện với tình trạng này, Lỗ Thiên Liễu không dám có phản ứng gì quyết liệt, vì e sợ gây kinh động tới đối phương, lại càng sợ hãi sẽ gây chấn động và tổn thương cho chính tâm não của mình. Bởi vậy, Lỗ Thiên Liễn vẫn duy trì trạng thái bình thường, chỉ dùng khứu giác siêu phàm hít ngửi, tìm kiếm ở nơi xuất hiện dị tướng.
Đó là một thứ mùi thanh tao nhẹ nhõm, một thứ mùi chỉ có ở một cơ thể nam giới khoẻ mạnh trẻ trung, hơn nữa, trong đó còn phảng phấp một chút hương thơm thoang thoảng. Lỗ Thiên Liễu phán đoán, thứ hương liệu này hẳn có nguồn gốc từ vùng ngoại quốc.
Khi thứ mùi kia vừa xuất hiện trong ý thức của Lỗ Thiên Liễu, làn dị tướng lập tức có phản ứng, thoắt cái đã thoát ra khỏi tâm não của Lỗ Thiên Liễu, biến mất hút không để lại tăm hơi. Song lúc này, khứu giác của Lỗ Thiên Liễu đã lần được đến nơi xuất phát. Vị trí đó chỉ cách cô chưa đầy trăm bước. Cô lập tức triển khai thân thủ, lao vùn vụt về phía đó, lẹ làng như chưa đi được một nửa, đã có người vọt ra chặn đứng. Hai kẻ chặn đường tướng mạo giống người Hán, song lối ăn mặc hết sức kỳ dị, chỉ có giặc Tây thi thoảng mới thấy ăn bận kiểu này.
Đám Quan Ngũ Lang nhìn thấy Lỗ Thiên Liễu bị người khác chặn đánh, bèn vội vã xông lên. Song họ mới chỉ tiến lên được hơn chục bước, cũng đã bị chặn đứng. Vẫn là mấy kẻ mình mặc áo đen, đầu đội mũ lá, thân hình cứng như sắt thép. Không thể hiểu nổi chúng ẩn nấp ở chỗ nào, song đều xuất hiện thình lình như ma quỷ. Đám Quan Ngũ Lang đã nhiều lần chiến bại, lần này vẫn không thể xông qua tấm bình phong này.
Tuy chỉ là chặn đứng, không có ẩu đả kịch liệt hay gây sát thương, song không khí ở hiện trường vẫn khiến người ta phải ngộp thở. Một gã thanh niên bước ra từ phía sau gốc thông lùn lá đen, vẻ anh tuấn thư sinh, nước da trắng trẻo, vóc dáng hiên ngang, song lại toát ra một vẻ lạnh lẽo, trầm tịch và vô cùng ma quái. Tóm lại, trông giống người, song cảm giác lại không giống người.
Lỗ Thiên Liễu và gã thanh niên kia bốn mắt nhìn nhau. Đó là hai cặp mắt xanh biếc chỉ xuất hiện ở những nhân vật nửa thần tiên trong truyền thuyết. Cặp đồng tử của Lỗ Thiên Liễu có màu lục nhạt, giống như chồi liễu vừa nhú buổi đầu xuân. Còn cặp mắt của gã thanh niên kia xanh thăm thẳm như mặt đầm sâu hun hút, lại cuộn xoáy tròn, tựa như muốn nuốt chửng tất cả mọi thứ vào trong.
Cả hai tuy không nói câu nào, song lại đang mau chóng giao lưu với đối phương. Cách giao lưu này quả thực không thể biểu đạt hết bằng ngôn ngữ.
Là “Thấu tam giới”! Lỗ Thiên Liễu không hề che giấu niềm kinh ngạc của bản thân, dẫu rằng cô hiểu rõ đối phương có thể nhìn thấu suy nghĩ của mình. Khi còn ở núi Long Hổ, một vị cao nhân tính thông tu tâm đã từng giảng giải với cô rằng, trong giang hồ có các chiêu số như thuật nhìn tâm, thuật đoán ý muốn, thuật tiên đoán, thuật đoán suy nghĩ, đều là thông qua việc quan sát hành động, vẻ mặt, cùng hơi thở, máu huyết vận hành trên cơ thể đối phương để suy đoán tâm tư. Bên cạnh đó, cũng có người được trời phú cho khả năng dị thường, trong vòng trăm bước có thể trực tiếp cảm nhận được suy nghĩ và tâm lý của người khác. Khả năng dị thường này được gọi là Thấu tam giới. Thấu tam giới có nghĩa là thấu suốt tam gới, tức nhìn thấu vẻ bề ngoài, nội khí và tâm tư của người khác, cũng chính là ba tầng cảnh giới hình, tính, tư.
– Ngươi chính là người duy nhất phát giác ra khả năng Thấu tam giới của ta tính cho tới hôm nay! – Gã thanh niên nói với Lỗ Thiên Liễu trong im lặng. Tuy rằng lần này, không những bị Lỗ Thiên Liễu phát giác ra năng lực cảm tri, mà còn bị tìm đúng nơi ẩn nấp, song hắn không hề tỏ ra rối loạn, hơi thở, tâm mạch và huyết khí vận hành vẫn rất mực ổn định. Bởi lẽ hắn hiểu rõ rằng, tuy cô gái kia phát giác ra hắn lén đọc trộm suy nghĩ của cô ta, song lại không có cách gì ngăn cản. Do đó, dù là đối kháng trong suy nghĩ hay trong giao chiến thực tế, thì gã vẫn nắm chắc mười phần thắng.
Gã thanh niên này là ai? Hắn là môn trưởng mới của Chu gia, con trai độc nhất của Chu Chân Mệnh – Chu Ngộ Tâm. Chu Chân Mệnh bị chôn vùi suốt ba ngày trong ngôi mộ giam hồn dưới ba gò đất, sau khi được bới lên, cảm thấy tâm mạch, khí mạch của bản thân đã tổn thương nghiêm trọng, bèn tức tốc cho người đi gọi Chu Ngộ Tâm đang rèn tập ở hải ngoại trở về.
Chu Ngộ Tâm là một quái thai, thường cả ngày ngồi đờ như đá, ba ngày mới thốt được một câu, tuy câu nào cũng trái khoáy ngỗ ngược, nhưng lại nói đâu trúng đấy. Vì hắn bẩm sinh đã có năng lực khác thường, có thể nhìn thấu suy nghĩ và tâm tư của người khác. Chu Chân Mệnh tuy là bậc kỳ tài, song lại không có cách gì dạy dỗ con trai, nên đã sai vài cao thủ hàng đầu đưa hắn ra hải ngoại, cho chu du khắp thiên hạ, nhằm mục đích rèn luyện và bồi đắp thêm cho hắn.
Thực tế cũng đúng là như vậy. Sau nhiều năm rèn luyện, học tập ở nước ngoài, Chu Ngộ Tâm không những đã phát huy được khả năng Thấu tam giới bẩm sinh đến cảnh giới thượng thừa, mà còn thấu hiểu tường tận mọi khảm diện do Chu gia nghiên cứu thiết kế. Hơn nữa, hắn còn biết vận dụng các loại kỹ thuật tiên tiến đã học được ở nước ngoài vào trong khảm diện, khiến chúng càng được vận hành một cách thần tốc bất ngờ, tàn độc, và ổn định hơn nữa.
Chu Ngộ Tâm nhìn khắp lượt những người trước mặt, ánh mắt điềm nhiên như nước lặng. Song trong lòng hắn hiểu rõ, hành động của lão hoà thượng và tay dị nhân đang nhảy tưng tưng như cỗ xác khô kia đều là nhắm vào năng lực siêu phàm Thấu tam giới của hắn.
Kỳ thực, chiêu số của hai người này thoạt đầu vẫn khiến cho tâm tư của hắn phải rối loạn. Câu thần chú tiếng Phạn của lão hoà thượng nghe như kệ Kim Cương, còn điệu nhảy xác chết kia chẳng khác gì điệu vũ ma quỷ, nghe vào tai, nhìn vào mắt đều xộc thẳng vào tâm não. Bởi vậy, Chu Ngộ Tâm bèn chấm dứt ngay năng lực Thấu tam giới, tạm thời di chuyển sự chú ý tới nơi khác.
Nhìn vào hình thế của núi non xung quanh, thì thấy nơi đây là cục phong thuỷ “Mộc dương bi bảng”[36]. Nếu xây mộ tổ trên vách khe, vận thế phù hợp có thể sinh ra bậc vương hầu khanh tướng. Nhưng vì khe sâu hun hút chạy thẳng tắp, không uốn lượn, không đầu không cuối, trong khe lại đầy rẫy chướng khí, mãnh thú, cỏ cây quái dị, nên lại là một cách cục bại vận cực độ. Trong tổ huấn của Chu gia có viết, nơi có bảo cấu, là nơi thiên bảo trấn hung huyệt, cát hung cùng tồn tại cân bằng. Như vậy, xem ra nơi hắn và cô gái nhà họ Lỗ kia đang tới có lẽ chính là vị trí cất giấu của Mộc bảo phía tây nam.
Quan sát xong hình núi, Chu Ngộ Tâm lại lướt qua cách bố trí của phe mình. Gần ngay trước mặt hắn, có sáu tên y phục đen trũi mũ lá sùm sụp đang đứng lẫn trong đám cây lá lô xô hai bên phải trái. Chúng đều là những cao thủ được đưa về từ Thái Lan, không những tinh thông quyền thuật, mà cơ thể cứng rắn chẳng khác gì sắp thép, giống hệt như công phu hoành luyện của Trung Nguyên. Có sáu tên này làm bình phong chắn lối, đối thủ khó lòng tiếp cận được hắn. Phía sau hắn là bốn cao thủ tuyệt đỉnh đã hộ tống hắn ra nước ngoài học tập. Trong bốn cao thủ này, có ba người là hộ pháp tổng đường của Chu gia, một người nữa vốn là đường chủ Chính Quảng đường phía nam. Dù về mặt võ công, kinh nghiệm giang hồ hay mưu mô trí trá, bọn họ đều thuộc hàng cao thủ thượng đẳng trong giang hồ.
Từ một con đường vắt ngang sườn dốc nghiêng chếch xuống phía dưới, hắn đã lần lượt bố trí các trận Đao trúc, Nghìn dây bắt hồn, Bậc trăm bước động trượt. Men theo con đường ngoặt sang một hướng khác, lần lượt là Phi sơn linh miêu, Dãy ống thổi dịch độc, Đao khoá vặn xuôi ngược, Lực sĩ dời núi. Qua một con đường sạn đạo cheo leo vòng qua vách núi đối diện, lại có các khảm diện Mưa nghìn đao, trận Bát quái đột sát, Đá lăn lên dốc. Cuối cùng, trong rừng Bích Qua, còn cho phục sẵn một tấm lưới sống được bện từ hai con mãng xà “vượt ngọn tùng” (độ dài đủ để quấn vòng từ ngọn cây tùng xuống tận gốc) và mười con mãng xà bẻ cành (có thể vặn đứt chạc cây lớn).
Tạm thời chưa nói đến mức độ tinh vi tàn độc của những khảm nút này, chỉ riêng bộ bố cục toàn diện của nó cũng đã là một tuyệt học hiếm thấy trong nghề khảm tử, gọi là “Hồng đấu hấp thiên”[37]. Bố cục này đã bao trùm toàn bộ ngọn núi và một đoạn khe núi, không cho phép người khác bước xuống dù chỉ là nửa bước.
Nhìn lại một lượt kiệt tác của mình, Chu Ngộ Tâm vô cùng đắc ý. Hắn không chỉ phát huy một cách xuất sắc kỹ nghệ của Chu gia, mà còn đưa thêm vào đó rất nhiều kỹ nghệ tiên tiến của nước ngoài. Kỳ thực, trong thâm tâm hắn rất mong muốn đám nhân tài Lỗ gia dám xông pha vào trong đó, lao mình vào trong “chiếc đấu cầu vòng”, để chứng minh cho hiệu quả của khảm nút sau khi đã được hắn cải tiến. Chu Ngộ Tâm rất mực tự tin, dẫu rằng Chu môn gần đây đã liên tiếp gặp phải những tổn thất chưa từng có, song hắn tin tưởng rằng sau khi mình tiếp quản sự nghiệp, cục diện sẽ thay đổi hoàn toàn.
Tin tưởng bản thân, khẳng định bản thân là một phương pháp tuyệt vời để Chu Ngộ Tâm điều chỉnh tâm tư và tâm lực. Tựa như hắn đang dùng một niềm tự hào và thoả mãn để tiến hành một nghi thức, một nghi thức thông linh với tổ tiên của chính mình. Sau nghi thức này, tâm tư hắn sẽ trở nên thanh khiết không linh, tựa như bầu trời vô tận, có thể thâu nạp toàn bộ nhật nguyệt tinh tú, sấm chớp mây mưa.
Khi ánh mắt xanh biếc của Chu Ngộ Tâm lại nhìn thẳng về phía trước, tâm cảnh như bầu trời lồng lộng của hắn đã khiến cho sức mạnh quấy nhiễu của lão hoà thượng và cỗ “xác khô” kia không biết đã bị đánh bại tới xó xỉnh nào. Trong khi một phần lớn tâm cảnh của hắn đã bắt đầu mau chóng bao vây lấy suy nghĩ của người khác. Suy nghĩ của con người, có lúc bay xa tới tận chân trời, có lúc lại tập trung vào một điểm cực kỳ vi tế. Song lúc này, dù suy nghĩ của người Lỗ gia ở trong trạng thái nào, họ đều bị tâm cảnh tựa bầu trời của hắn vây bủa.
Đã bao vây được suy nghĩ, bước tiếp theo chính là dò đoán tâm tư của đối phương. Phương pháp của Chu Ngộ Tâm hôm nay có phần cuồng ngạo phóng túng, bởi vì đã tới thời khắc quyết đấu, bởi vì bản thân hắn đã chuẩn bị kỹ lưỡng cho trận đối quyết, và còn bởi vì những đối thủ kia hoàn toàn bất lực trước khả năng Thấu tam giới của hắn.
Đợt tìm kiếm bằng năng lực Thấu tam giới này không gặp phải bất cứ trở ngại nào. Ánh mắt xanh hun hút của hắn dừng lại trước tiên trên cơ thể lão hoà thượng và cỗ “xác khô”. Bọn họ đang rất chuyên chú, tập trung cao độ, hết sức nỗ lực để khuấy đảo tâm cảnh của hắn, khiến hắn không thể thi triển Thấu tam giới. Chuyên tâm đương nhiên rất cần thiết, trong giao đấu bằng tâm lực đã có câu “không si mê không nhập đạo”. Song Chu Ngộ Tâm phát hiện thấy, trong trạng thái chuyên chú của hai người này, đôi khi vẫn xuất hiện sự gián đoạn. Hiện tượng này cho thấy bọn họ đã thấm mệt, và bắt đầu thiếu tự tin vào sự nỗ lực của bản thân.
Phía sau họ còn có một người cũng rất chuyên chú, là một gã trai thân hình vạm vỡ đang cầm ngang thanh phác đao. Suy nghĩ của người này rất đơn giản, chính là muốn xông lên vào một thời điểm thích hợp để kết liễu tính mạng của mình. Song hắn rất căng thẳng, bởi vì hắn hiểu rõ khả năng này là không thể. Những gã cao thủ Thái Lan trước đó đã nhiều lần đập tan chiêu số của hắn, hơn thế nữa, còn phá huỷ hoàn toàn niềm tin của hắn. Chu Ngộ Tâm thường không xem nhẹ bất cứ ai, song lúc này, hắn lại không thèm để ý tới gã tráng niên kia nữa. Một người đã hoàn toàn đánh mất niềm tin, dù ý đồ có quyết liệt đến đâu, cũng chỉ là kẻ đóng vai phụ trong trận quyết đấu.
Bên gã trai là một lão già nhỏ thó đang phun khói mịt mù. Lão ta rất kỳ quái. Suy nghĩ của lão liên tục nhảy nhót qua lại giữa sơn thuỷ thực tế và sương khói thở ra, điều này khiến Chu Ngộ Tâm có hơi khó khăn khi nắm bắt. Song năng lực Thấu tam giới của hắn đã đạt tới cảnh giới phi phàm, bởi vậy Chu Ngộ Tâm mau chóng thích ứng với sự biến động trong tư duy của lão.
Tuy suy nghĩ của Thôi Vân Phi liên tục biến động, song kế hoạch của lão lại rất mạch lạc bài bản. Lão muốn dùng Quan Ngũ Lang bên cạnh làm mồi nhử, khiến một bộ phận cao thủ Thái Lan che chắn phía trước Chu Ngộ Tâm chuyển hướng sang bao vây Ngũ Lang. Còn lão sẽ dựa vào bản lĩnh khí công của mình, xông qua vòng vây của các cao thủ Thái Lan còn lại, lao thẳng tới chỗ Chu Ngộ Tâm. Song đây vẫn là một động tác giả, đại cao thủ phía sau Chu Ngộ Tâm đều lùi về bảo vệ hắn, như vậy, con đường nhỏ “một người giữ cửa, vạn người khó qua” bên rãnh sẽ được mở thông. Lão sẽ chớp lấy cơ hội này để chạy đi theo đó. Đến lúc này, cho dù đám cao thủ kia có sực tỉnh mà đuổi theo, thì đại sư Vô Do và Ngôn Hành Dạ có lẽ cũng đã kịp thời xông tới chặn chúng lại. Đối với lão, các khảm diện như trận Đao trúc, Nghìn dây bắt hồn, Bậc trăm bước động trượt phía dưới nếu muốn phá giải hoàn toàn sẽ cần một chút thời gian, nhưng nếu chỉ cần một mình lão băng qua, thì chẳng tốn bao nhiêu công sức. Tiếp đó tới hai khảm Phi sơn linh miêu và Dãy ống thổi dịch độc. Phi sơn linh miêu có thể nhờ vào khí công hộ thể để xông qua, còn Dãy ống thổi dịch độc cần phải hao tổn chút tinh lực, bởi vì dạng khảm này không phải là sở trường của Kỳ Số các. Song chỉ cần phá được khảm diện này, toàn bộ Hồng đấu hấp thiên coi như đã bị chém ngang lưng. Nếu theo đúng kế hoạch ban đầu, lão chỉ cần xông được đến đây, coi như việc lớn đã thành.
Chu Ngộ Tâm quả thực thấy khâm phục trong lòng. Lão già này quả là một cao thủ tuyệt đỉnh, võ thuật khảm diện đều tinh thông. Thế nhưng mưu kế sách lược và cách phân tích nguyên lý khảm diện cũ rích của lão khiến hắn cảm thấy nực cười. Đương nhiên, người đủ tư cách để cười lão cũng chỉ có một mình Chu Ngộ Tâm mà thôi. Kế hoạch của lão có quá nhiều nhân tố thiếu chắc chắn, như liệu gã trai vạm vỡ kia có dụ được một bộ phận cao thủ Thái Lan đi không? Liệu lão có thể xông qua những cao thủ còn lại không? Còn một nhân tố thiếu chắc chắn hơn nữa, đó là liệu lão có ép được hắn lùi lại hay không? Bởi vì hắn đã được rèn luyện võ học đến nơi đến chốn, không hề thua kém bất cứ cao thủ thượng đẳng nào trong giang hồ. Và còn nữa, sau lưng hắn còn giấu hai khẩu súng ngắn bắn đạn rời sản xuất ở Anh, liệu khí công của lão có thể chống đỡ nổi súng đạn? Với một loạt khảm diện phía dưới, lão ta cũng suy nghĩ quá đơn giản. Phía trên khảm diện Bậc trăm bước động trượt, hắn đã bố trí thêm ba cụm mìn vướng nổ, hai cụm mìn đạp nổ, những thứ này đều là hàng Thuỵ Điển, phản ứng rất nhạy, lực sát thương cực mạnh. Còn trên vuốt mèo của khảm diện Phi sơn linh miêu đều được lắp thêm vuốt hợp kim mangan tẩm nọc rắc độc sông Nile. Trong khảm diện Dãy ống thổi dịch độc, trong dãy ống thổi còn xen lẫn hai mươi khẩu súng trường liên thanh, phía cuối khảm diện còn có một cỗ pháo đón đầu. Những thứ này lão già kia chắc chắn có nằm mơ cũng không thể tưởng tượng ra, và cũng không thể ứng phó nổi.
Hai kẻ đứng trên vách khe trông giống như anh em ruột, suy nghĩ của chúng là phối hợp với lão già nhả khỏi. Bọn họ một kẻ đang tìm đường, một kẻ đang chuẩn bị thuốc, chuẩn bị sẵn sàng để sau khi lão già nhả khói phá ngang được khảm diện Hồng đấu hấp thiên sẽ lập tức lao xuống dưới rãnh trong phạm vi của khảm nút đã bị phá, nhanh chóng khai quật bảo cấu.
Kẻ tìm đường khiến Chu Ngộ Tâm rất kinh ngạc. Lần theo suy nghĩ của hắn, thì thấy hắn ta không cần dùng đến bất cứ dụng cụ nào, chỉ là tay không mà leo thẳng xuống đáy khe. Hơn nữa, trong lúc leo xuống còn đồng thời bố trí một số thiết bị, để đưa những kẻ khác xuống cùng.
Kẻ còn lại là cao thủ về thuốc giải độc, hắn đang phân tích thành phần của sương độc để chuẩn bị thuốc giải độc cho những người chuẩn bị xuống khe. Chu Ngộ Tâm không tìm hiểu thêm về thứ thuốc giải của kẻ đó, bởi vì hắn không cần tới thứ này. Hắn đã chuẩn bị sẵn một loạt mặt nạ phòng độc mang từ nước ngoài về.
Lão già méo miệng đang nhìn chằm chằm vào vách đá trước mặt có tư duy vô cùng lắt léo. Tuy những đường vân mờ nhạt tại vị trí hình cánh cửa đã bị sương độc che lấp, song hình dáng ban đầu đã hoàn toàn dung nhập vào trong tư duy của lão. Trong cửa Linh Lung chín vòng chỉ có một thay đổi duy nhất, không hề có cơ hội làm thử hay lặp lại, chỉ cần một sai lầm cực nhỏ, cũng sẽ biến thành tử cục vĩnh viễn. Bởi vậy, trước hết cần phải phân tích, nắm bắt thật chính xác nguyên lý và quy luật của hình khoá được bố trí đầu tiên, mới có thể suy luận ra kiểu biến hoá duy nhất. Ở đây cất giấu Mộc bảo, nên hình cửa chọn dùng kết cấu nghìn cặp linh lung cũng là đương nhiên. Vấn đề là ở nguyên lý chín vòng tuần hoàn tương khắc, vòng này cần phải vượng Mộc, như vậy, phải chăng nên bắt tay từ Nhật, Thuỷ, Mộc…
Chu Ngộ Tâm đã dừng lại. Lần dò theo lối tư duy rắc rối lắt léo kiểu này là một việc làm vô cùng khó chịu, hơn nữa tính toán suy lý theo kiểu đó rất phức tạp và mất thời gian, trong khi kết quả cuối cùng chưa chắc đã chính xác. Bản thân hắn đã nghĩ tới cách giải quyết đơn giản hơn, chính là đặt mìn định hướng ở bên dưới tất cả những nơi đã bị khoá cố định để phá. Trong số những người hắn đưa từ nước ngoài về có một gã người Bỉ, là cao thủ chế tạo thuốc nổ.
Mục tiêu cuối cùng của Chu Ngộ Tâm là Lỗ Thiên Liễu. Có lẽ do Lỗ Thiên Liễu đang tập trung tinh thần suy nghĩ điều gì đó, nên ba giác của cô không chú ý tới sự xâm nhập của Thấu tam giới. Bởi vậy Chu Ngộ Tâm đã thuận lợi thăm dò vào trong tư duy của cô, song bầu tư duy đó đã khiến hắn phải sửng sốt.
Chu Ngộ Tâm chưa bao giờ gặp một bầu tư duy nào tỉ mỉ, tinh tế, kín kẽ đến vậy. Từng gốc cây ngọn cỏ, từng phiến lá đọt cành, từng đoá hoa búp nụ trong toàn bộ vùng rừng núi này đều là những điểm cấu thành nên bầu tư duy của cô. Đáng sợ hơn nữa, đó là tác dụng của mỗi điểm cấu thành hoàn toàn không phải là sự tưởng tượng hư vô, mà đều là những cảm nhận thực tế.
Chu Ngộ Tâm biết, đó chính là ba giác siêu phàm của Lỗ Thiên Liễu đang phát huy tác dụng. Cô gái thần kỳ này chỉ cần chạm tay lên thân cây bên cạnh, chỉ cần giẫm chân trên thảm cỏ, chỉ cần hít thở bầu không khí trong lành thấm đẫm hương hoa lá, thì tất cả những nơi mà đám cỏ hoa lá có thể chạm tới, luồng tư duy của cô đều có thể cảm nhận được. Cây cỏ hoa lá trong toàn bộ vùng rừng núi cành liền lá sát, gốc rễ giao hoà, bởi vậy tâm hồn và suy nghĩ của cô ta cũng dung hoà với toàn bộ núi rừng.
Trong một không gian cảm nhận bất tận như vậy, tất cả mọi khảm diện mà Chu Ngộ Tâm đã dày công bố trí đều đã hiện diện trong trí não của Lỗ Thiên Liễu. Không chỉ những khảm nút vốn có đều đã phải hiện hình, mà ngay cả nút lẫy cải tiến của Chu Ngộ Tâm cũng lần lượt bị cô phát giác.
Ngay từ triều Minh, Lỗ gia đã nhiều lần giao tranh, quyết đấu với Chu gia, thu hoạch nhiều nhất của họ chính là đã có được những nhận thức mang tính đột phá đối với kỹ nghệ của tổ tiên. Kỹ nghệ của tổ tiên dạy rằng, “dựng” là gốc, “khuôn thước” là nguyên tắc. Song sau vô số lần phải chịu lép vế và đổ máu, họ đã nhận thức được rằng, ngược lại với “dựng” là dỡ, làm rối loạn “khuôn thước” sẽ thành nguyên lý bàng môn. Và sau đó, Lỗ gia đã tập trung cao thủ chuyên nghiên cứu về kỹ thuật giải phá, rồi quy kỹ nghệ này vào trong loại hình kỹ nghệ phụ trợ bên ngoài Lục công của Lỗ gia, được gọi là Tiểu công. Tiểu công vốn dĩ chỉ để hỗ trợ cho sáu công phu chính, gồm các kỹ nghệ như đẵn gỗ, phá đá, trộn vữa, vận chuyển vật liệu. Những thợ mộc bậc thầy của Lỗ gia thường không học kỹ nghệ này, trước kia chỉ truyền cho người ngoài họ. Tuy nhiên sau khi thêm vào kỹ nghệ phá giải, loại hình kỹ nghệ này đã trở nên nguy hiểm, giảo hoạt và có khả năng sát thương cực lớn. Bởi vậy, chỉ được ghi chép trong sách mà không truyền dạy cho đệ tử.
Đến này, am hiểu về kỹ nghệ Tiểu công chỉ có hai người. Một là đứa con độc nhất mà Nhậm Hoả Cuồng uỷ thác lại cho Lỗ Nhất Khí dạy dỗ là Nhậm Tính Lai. Năm xưa cậu ta theo sư phụ của Nhậm Hoả Cuồng xuống phía nam tìm kiếm vật liệu kỳ lạ, đã tình cờ gặp Lỗ Thịnh Hiếu. Lỗ Thịnh Hiếu thấy đứa trẻ này điêu trá khó bảo, rất thích hợp để học kỹ nghệ Tiểu công, nên đã sao chép chương tổng quát về kỹ nghệ Ban môn và kỹ nghệ Tiểu công tặng cho cậu ta. Một người còn lại là Lỗ Thiên Liễu. Lỗ Thiên Liễu sau khi tu luyện kỹ nghệ của Thiên Sư giáo trên núi Long Hổ, mới bắt đầu nghiên cứu kỹ nghệ Tiểu công. Bởi vì trong giáo pháp của Thiên Sư giáo có một lý luận viết rằng “Khéo khống chế tính, có thể thu phục; không am hiểu tính mà đủ sức, thì tiêu diệt; không am hiểu tính cũng không đủ sức, thì bao vây”, đoạn này nói về khả năng phán đoán thời thế, xoay chuyển sách lược, nhìn nhận một sự việc từ nhiều phương diện. Lỗ Thiên Liễu đọc được câu này, cảm thấy lo lắng bất an trước những kỹ nghệ của Lỗ gia mà mình đã được học, thường cảm thấy còn khiếm khuyết ở một số mặt nào đó. Lỗ Thịnh Nghĩa hiểu được tâm tư của cô, bèn nửa vô tình nửa hữu ý chỉ dẫn cho cô xem bản ghi chép về kỹ nghệ Tiểu công.
Lỗ Thiên Liễu tuy nghiên cứu Tiểu công, song chưa từng áp dụng vào thực tế. Kể cả vừa nãy, khi xem xét những khảm nút mà Chu gia bố trí tại nơi đây, trong kế hoạch mà cô và mọi người đã thảo ra cũng không hề tham khảo tới kỹ pháp Tiểu công. Nhưng vừa nãy, trong trí não Lỗ Thiên Liễu đột nhiên loé lên một ánh linh quang, và trong đầu cô bắt đầu thai nghén một phương pháp phá khảm dựa vào kỹ pháp Tiểu công.
Chu Ngộ Tâm đã nhìn trộm được phương pháp phá khảm này. Không chỉ bất ngờ, hắn còn cảm thấy ớn lạnh tận đáy lòng. Nếu như bọn họ hành sự theo phương pháp của cô ta, hoàn toàn có thể phá giải, áp chế hệ thống khảm diện của hắn tới tận hai khảm cuối cùng. Nếu thực sự đến nước đó, không những Chu gia sẽ đánh mất ưu thế về địa lợi đã chiếm cứ được, mà còn bị chế phục trên tất cả mọi hướng.
Ví dụ như những khảm nút cải tiến mà Chu Ngộ Tâm vô cùng tâm đắc, ba cụm mìn vướng nổ, hai cụm mìn đạp nổ được bố trí phía trên khảm diện bậc trăm bước động trượt, Lỗ Thiên Liễu định dùng hai kỹ thuật phá đá và đổ đất trong Tiểu công để phá giải. Trước tiên, đẩy đá ở sườn núi bên cạnh cho lăn xuống, khiến mìn vướng nổ phát nổ. Tiếp đến đổ đất thành đường, rồi di chuyển trên đường đất đắp, như vậy có thể phân tán sức nén, khiến mìn đạp nổ không thể hoạt động. Tuy linh miêu phi sơn có vuốt thép ngâm độc, song Lỗ Thiên Liễu sẽ áp dụng kỹ pháp tôi vôi trong Tiểu công. Dùng vợt lưới và gỗ bật để bắn các túi vôi bột sống vào chỗ phi miêu ẩn nấp, vôi bột sẽ khiến chúng bỏng mắt, lại thêm trong rừng ẩm ướt, vôi bột bay tứ tung sẽ khiến khắp nơi toả nhiệt bỏng giãy, tới lúc đó linh miêu phi sơn sẽ hoàn toàn không còn cơ hội để tấn công. Để đối phó với dàn ống phun dịch độc xen kẽ hai mươi khẩu súng trường liên thanh và pháo đón đầu, Lỗ Thiên Liễu dự định sử dụng kỹ pháp đốn gỗ trong Tiểu công. Trước hết chưa vào khảm vội, mà đốn hạ những cây to bên ngoài khảm cho đổ vào trong khảm. Cây đổ trúng nút lẫy trong khảm khiến chúng hoạt động hoặc hư hỏng là tốt nhất, song cho dù chạm vào mà không huỷ, thì vẫn có thể băng qua phía trên cây đổ mà đi. Đến cây to đổ xuống cũng không thể khiến cho chốt lẫy khởi động, thì bọn họ hoàn toàn có thể băng qua phía trên một cách an toàn.
Kế hoạch đã nhìn thấu, Chu Ngộ Tâm chỉ có thể thừa nhận mình đã thất bại về mặt khảm nút. Bởi vậy, hắn quyết định ra tay trước khi Lỗ Thiên Liễu thực thi kế hoạch, điều động các cao thủ võ thuật xông lên tấn công. Cho dù nơi đây đâu đâu cũng là tuyệt địa hiểm trở, vài người bọn họ cố thủ nơi hiểm yếu, sẽ gây tổn thất nghiêm trọng cho lực lượng bên hắn, nhưng nhìn vào tình thế trước mắt, đây lại là phương pháp đơn giản và chắc chắn nhất.
Quyết định xong, Chu Ngộ Tâm bèn chuẩn bị thu Thấu tam giới về để hạ lệnh cho thuộc hạ tấn công. Nhưng vào khoảnh khắc năng lực Thấu tam giới sắp sửa thu về, hắn đột nhiên phát hiện ra trong tư duy rất mực kín kẽ của Lỗ Thiên Liễu bất ngờ lướt qua một thông tin rất thiếu hài hoà. Lực đạo Thấu tam giới của Chu Ngộ Tâm lại tiếp tục lao lên, muốn bắt lấy thông tin đó.
Lần này, Chu Ngộ Tâm lại càng ngạc nhiên hơn nữa, bởi lẽ thông tin này cho thấy, Lỗ Thiên Liễu muốn đưa người phía cô ta bỏ chạy thoát thân.
Đã có cách phá giải khảm nút, vì sao còn muốn bỏ chạy? Hiện tượng quái dị này khiến Chu Ngộ Tâm càng dốc toàn bộ tinh lực vào Thấu tam giới. Năng lực bẩm sinh thần kỳ của hắn quả thực phi thường, không những bắt được một tia suy nghĩ thoảng qua của Lỗ Thiên Liễu, mà còn túm giữ thật chặt không buông. Năng lực cảm tri của Chu Ngộ Tâm đã theo chân ý niệm này để xâm nhập vào tầng sâu thẳm trong tư duy của Lỗ Thiên Liễu, xuyên qua mạng lưới được hình thành từ các loại thông tin đến từ ba giác siêu phàm của cô, chớp mắt đã lọt vào trong một tầng tư duy khác.
Tư duy trong tầng thứ này là tư duy cố tình tàng ẩn, bởi vậy kết cấu rất đơn giản, chỉ lác đác vài đường nét, hình thù. Song chỉ vài đường nét, hình thù sơ sài này cũng đủ khiến Chu Ngộ Tâm tim gan lạnh toát.
Thực sự là vô cùng đơn giản, những suy nghĩ ở tầng thứ này chỉ là hơi thay đổi khảm diện mà hắn đã bố trí một chút ít. Song chỉ với một chút ít thay đổi, toàn bộ phương pháp phá giải khảm diện của Lỗ Thiên Liễu sẽ bị vô hiệu hoá hoàn toàn.
Hai khảm diện Nghìn dây bắt hồn và Bậc trăm bước động trượt xếp chồng lên nhau, không dùng dây bắt người, mà là dùng dây để khống chế vị trí mìn đạp nổ và tác động để dẫn nổ, như vậy sẽ tiêu diệt được quá nửa số người của Lỗ gia. Hai khảm diện Phi sơn linh miêu và Dãy ống thổi dịch độc kết hợp với nhau, đổ dung dịch độc lên thân linh miêu, dùng Phi sơn linh miêu để tấn công. Tuy móng vuốt của linh miêu không dễ làm tổn thương đến cao thủ, song khi dung dịch độc trên da lông chúng văng đi, sẽ rất khó tránh. Tiếp đến bố trí khảm diện Đao khoá vặn xuôi ngược ở phía dưới Lực sĩ dời núi, sẽ hình thành cục thế tiến thoái lưỡng nan. Muốn né tránh Lực sĩ dời núi, sẽ sa vào Đao khoá vặn xuôi ngược; muốn vượt qua Đao khoá vặn xuôi ngược, sẽ không tránh nổi Lực sĩ dời núi. Lại bố trí Mưa nghìn đao phía sau trận Bát quái đột sát, rồi khởi động ngay sau trận Đột sát, bố trí khảm diện mãng xà phía trước Đá lăn lên dốc, làm nút lẫy khởi động đầu tiên của Đá lăn lên dốc. Tới lúc đó, không cần quan tâm tới sự sống chết của đám người điều khiển và mãng xà trong khảm, chỉ cần bọn chúng ngăn cản được những người xông vào khảm trong chốc lát, mưa đao và đá lăn đồng loạt xuất hiện, sẽ biến thành cục diện “hai bên cùng chết”, không ai có thể vượt qua. Nếu lại bố trí năm vị trí tấn công tầm xa với tên, pháo, súng trên đỉnh vách đá theo lộ số Ngũ hành, thì lực sát thương càng khủng khiếp không gì sánh kịp.
Phương pháp bố trí khảm nút xuất quỷ nhập thần đến vậy, ngay cả Chu Ngộ Tâm cũng không thể tưởng tượng nổi. Hắn bất giác thầm thán phục trong lòng, thảo nào một dòng họ thợ mộc như Ban môn lại có thể đối kháng ngang cơ suốt vài trăm năm với dòng họ Chu vốn là hậu duệ hoàng gia, kỹ pháp của Ban môn quả là tạo hoá khó địch.
Chính vào lúc đó, tầng ý niệm này của Lỗ Thiên Liễu đột nhiên xáo trộn, trở nên nhoà nhạt, rồi mau chóng tản mát. Tất cả đường nét, hình dáng đều tan biến, trở thành một bầu trống rỗng.
Chu Ngộ Tâm mỉm cười. Cô gái họ Lỗ từ bỏ tầng ý niệm này là muốn tiếp tục khẳng định niềm tin phá khảm giải nút của cô ta, tiếp tục xây dựng kế hoạch đã nhen nhóm trong tầng tư duy trước đó. Đồng thời, cũng nhằm đề phòng năng lực Thấu tam giới của hắn phát giác ra tầng suy nghĩ này mà kịp thời điều chỉnh khảm diện. Tới lúc đó, điều duy nhất bọn chúng có thể làm đúng là chỉ còn cách tháo chạy thoát thân.
Song đã muộn rồi! Chu Ngộ Tâm lập tức thu lại Thấu tam giới, vẫy tay ra hiệu. Một cao thủ lướt tới bên hắn như một cái bóng. Hắn hạ giọng căn dặn vài câu. Ngay sau đó, nhân lực mau chóng được điều động, thiết kế bố cục mau chóng được di chuyển. Chẳng mấy chốc, tất cả những khảm diện cần thay đổi đều đã thay đổi, tất cả các điểm cần bố trí đều đã bố trí. Sau đó, Chu Ngộ Tâm bình thản chờ đợi đám người cần rút lui ngoan ngoãn rút lui.
Sắc mặt Lỗ Thiên Liễu đã trắng bệch như sáp, mà không, trong sắc trắng bệch dường như còn lẫn sắc tái xanh. Cô biết, suy nghĩ của mình một lần nữa đã bị Chu Ngộ Tâm nhìn thấu, hơn nữa, đó lại là tầng suy nghĩ mà cô đã cực lực cố gắng che giấu. Khả năng siêu phàm tới mức xuất quỷ nhập thần của đối phương khiến cô kinh hãi tột độ.
Song Lỗ Thiên Liễu không vội rút lui ngay, mà đưa ánh mắt nhìn khắp lượt những người xung quanh. Có thể thấy, cô đang hy vọng có ai đó nghĩ ra cách giúp mình.
Lão già nhả khói mù mịt đã đứng dậy, ánh mắt cũng mơ hồ như khói vờn, không thể đoán biết. Song Chu Ngộ Tâm không cần dùng tới Thấu tam giới cũng đã đoán ra, lão ta muốn bỏ đi. Đã biết rõ là cầm chắc thất bại, cũng nên hiểu lẽ tiến lui, kịp thời rời khỏi chốn hiểm nguy này càng sớm càng tốt. Quả nhiên, lão già không chút do dự, lập tức ngoắt người đi men theo mép Thiên Câu tiến về phía đông, nơi đó có một con đường đất đắp chênh vênh nối thông ra đường núi.
Kỳ thực con đường đó vốn dĩ cũng chịu sự kiểm soát của cao thủ Chu gia, song vừa rồi, trong lúc điều chỉnh khảm diện, Chu Ngộ Tâm đã cố ý chừa lại lối đó. Mục đích của hắn là đoạt lấy bảo bối, bởi vậy trước mắt không nhất thiết phải dốc sức đuổi cùng giết tận người Lỗ gia, chỉ cần bức bách họ biến đi, không cản trở hắn hành động là được.
Lão già vừa rời đi, những người khác đều hướng ánh nhìn vào Lỗ Thiên Liễu. Lỗ Thiên Liễu do dự một lát. Cuối cùng, hàm răng trắng muốt đã cắn xuống vành môi, rồi mấp máy một câu gì không rõ. Thế là ngoài tay gầy xác ve vừa nhảy nhót tựa cương thi, những người khác đều mau chóng hành động, lục tục rút lui về phía con đường đất đắp.
Còn tay “xác khô” lại nhảy bổ hai bước về phía Chu Ngộ Tâm, hai tay múa lên một động tác vô cùng quái dị. Động tác vừa thi triển, giữa bàn tay hắn lập tức phát ra một tràng âm thanh loảng xoảng chói tai, từ ống tay áo phụt ra một luồng khói lục mịt mờ, ngưng tụ mà không tản mát. Tất cả những người nghe thấy âm thanh quái dị và nhìn thấy luồng sương khói kia đều cảm thấy mắt mờ tai điếc, tâm thần bấn loạn.
Chu Ngộ Tâm không hành động. Phía Chu gia cũng có cao thủ của tộc đuổi xác, bởi vậy hắn biết tay “xác khô” kia đang làm gì. Đây là kỹ xảo độc môn “xác gõ cửa” của họ Ngôn ở Tương Tây. “Xác gõ cửa, khoá tai mắt, loạn tâm tính”. Song kỹ xảo này chỉ dùng trong chiến đấu ở cự ly gần hoặc nghi binh khi trốn chạy. Lúc này không phải là chiến đấu tầm gần, vậy thì chỉ có khả năng là đòn nghi binh để tẩu thoát.
Quả đúng như dự đoán, khi những kẻ hoa mắt ù tai đều đã phục hồi lại trạng thái bình thường, thì tay “xác khô” cũng đã ở trên sạn đạo, vừa khuất dạng sau một khúc quanh bên vách núi.
Kết quả này hoàn toàn phù hợp với mong muốn của Chu Ngộ Tâm. Nhưng không hiểu tại sao, hắn lại cảm thấy một mối bất an âm thầm nhen nhóm trong lòng. Có lẽ đạt được thứ mình muốn quá dễ dàng sẽ khiến con người ta cảm thấy không an tâm. Có câu “quá nhàn ắt có quỷ quái”, ở đây liệu có điều quỷ quái gì không?
Nghi ngờ và bất an cứ liên tục dâng lên trong lòng Chu Ngộ Tâm. Năng lực Thấu tam giới của hắn có thể dò la đến tầng ý niệm sâu xa của cô gái thần kỳ kia, liệu có phải là may mắn? Hay là do cô ta mất cảnh giác? Hay là phía sau tầng ý niệm sâu xa kia còn có cạm bẫy khác chăng?
Chính vào lúc đó, một cao thủ Chu gia tiến lại, cắt ngang bầu tâm tư nghi hoặc bất an của Chu Ngộ Tâm:
– Thưa môn trưởng! Tiềm Võng đường tại Nam Hải cho cú mèo đưa thư tới, nói rằng đã khống chế được đài Mộc Triều của bảo cấu hướng chính nam. Hai ngày nay đang tập hợp thợ khéo, nhân tài và dụng cụ, thiết bị, chỉ đợi thu xếp xong xuôi, lập tức khai quật bảo cấu!
Tin tức tốt đẹp này khiến Chu Ngộ Tâm lập tức dẹp bỏ mọi lo âu sang một bên. Chu gia hao tổn nhân lực vật lực suốt mấy trăm năm qua, song chưa bao giờ có được thu hoạch tốt đẹp như lần này, chỉ trong một ngày đã kiểm soát được hai bảo cấu.
– Đáp thư, lệnh cho Tiềm Võng đường gấp rút khai quật. Lại lệnh cho Lững Quảng đường và Phúc Lâm đường mau chóng điều cao thủ tới Nam Hải trợ giúp! – Chu Ngộ Tâm sắp xếp như vậy là muốn tăng cường chi viện, cũng là để giám sát lẫn nhau.
– Bây giờ trời đã tối, chướng khí chưa tan, lệnh cho khảm diện vòng trong canh phòng nghiêm mật, bên ngoài tuần tra luân phiên. Đợi đến ngày mai, khi sương tan trời sáng, lập tức xuống khe quật bảo! – Nhìn vào cách bố trí, có thể thấy, Chu Ngộ Tâm không những sở hữu khả năng thiên phú dị thường, mà còn rất mực chu toàn thận trọng, quả nhiên di truyền được phong thái nhất quán của nhà họ Chu.
Sáng sớm hôm sau, Chu Ngộ Tâm đột nhiên giật mình bừng tỉnh trên chiếc giường mềm bện từ nan trúc trích huyết kim tuyến. Song cả một vùng rừng núi mênh mông vẫn yên tĩnh tuyệt đối, không có bất cứ âm thanh nào kinh động đến hắn. Quái lạ! Cảm giác từ Thấu tam giới đã trở nên hỗn loạn! Không phải, chính xác hơn là những suy nghĩ mà hắn có thể dò la ở xung quanh vô cùng hỗn loạn. Chuyện gì đã xảy ra? Gần sát chiếc giường đang lọt thỏm trong rừng núi đã xuất hiện một đám khách không mời. Người Lỗ gia đã tìm thêm trợ thủ để quay lại ư? Không phải, trong những suy nghĩ kia, không có suy nghĩ nào hắn đã từng tiếp xúc. Đây là một đám đối thủ mà hắn chưa từng bắt gặp!
Tuy cục thế biến đổi nhanh chóng, song Chu Ngộ Tâm không hề bấn loạn. Hắn bình tĩnh sắp xếp thuộc hạ, khép chặt vòng vây bên trong, trước tiên cần bảo vệ chắc chắn bảo cấu, sau đó đích thân dẫn cao thủ bên ngoài tấn công kẻ địch. Hắn vô cùng tự tin với bản thân, và cũng rất tin tưởng vào người của Chu gia. Đám địch thủ lạ mặt kia hoàn toàn không phải là đối thủ của Chu gia.
Tin tức lan truyền trong giang hồ nhanh đến chóng mặt, tin tức lan truyền trong giang hồ cũng rất dễ bị thổi phồng. Kỳ thực, ngay từ lúc Chu Ngộ Tâm đối mặt với Lỗ Thiên Liễu bên Thiên Câu, đã có người loan tin khắp giang hồ rằng đây là nơi chôn giấu bảo bối của trời, đoạt được bảo bối sẽ có được thiên hạ. Bởi vậy, từ tối hôm qua, trong khi Chu Ngộ Tâm sắp xếp thủ hạ bảo vệ, khai quật bảo cấu, thì các lộ giang hồ từ khắp mọi nẻo đã rầm rập kéo về.
Tình hình ở đài Mộc Triều, Nam Hải cũng giống y như vậy, tin tức về bảo bối lan truyền nhanh chóng, các thế lực giang hồ cũng ùn ùn kéo về. Lực lượng khai quật bảo bối của Chu gia đành phải tạm thời từ bỏ kế hoạch mở bảo cấu, tập trung toàn bộ sức mạnh để đương đầu với kẻ địch khắp ba bề bốn bên, bảo vệ cứ địa. Trong khi tộc người Đản sinh sống trên thuyền vốn dĩ kế thừa di nguyện của tổ tiên Lỗ gia, đời đời bám biển bảo vệ bảo cấu lại lặng lẽ trốn đi biệt tích, chẳng ai rảnh rang để ý cả gia tộc bọn họ đã bỏ đi đâu…
Chu Ngộ Tâm không ngờ được rằng, cuộc chiến ở hai nơi này lại kéo dài tới hơn ba tháng trời ròng rã. Trong thời gian đó, Chu gia đã gần như phải một mình đối chọi với cả giang hồ.
Khi hai cuộc hỗn chiến đẫm máu đã diễn ra được khoảng sáu bảy ngày, trong cơn lo nghĩ đến căng thẳng, Chu Ngộ Tâm đột nhiên phát giác ra một chi tiết. Hắn lập tức rà soát lại một lượt toàn bộ diễn biến trước sau của sự việc, và kết luận là mình đã phạm một sai lầm nghiêm trọng. Ngay lập tức, hắn cho vận dụng tất cả mọi phương pháp truyền tin khẩn cấp của Chu gia, điều động nhân lực của năm đường khẩu phía Bắc để tìm kiếm tung tích của người họ Lỗ. Song đến tận hơn ba tháng sau, khi cuộc chiến dằng dai đã kết thúc, vẫn không thể lần ra chút tăm hơi. Từ đó, người của Ban môn như đã bốc hơi khỏi cõi nhân gian, biệt tích giang hồ không để lại mảy may dấu vết.
Nhưng đám do thám của Nam Hải đường phía Chu gia lại tìm được một bức thư ở chùa Nam Sơn trong địa vực của chúng. Bức thư do đại sư Vô Do chùa Thiên Long, Đại Lý gửi tới bằng chim bồ câu chuyên dùng để trao đổi kinh văn Phật ngữ. Nghe nói phương trượng trong chùa sau khi đọc xong thư, đã một mình tới chỗ quần cư của tộc người Đản, từ đó không thấy trở về. Cho tới ngày nay, trong tập ký sự “Nam sơn tự lục” của ngôi chùa vẫn còn lại ghi chép về việc phương trượng đời thứ mười sáu thoát tục thần du, biệt vô âm tích.
Bức thư không dài, ý tứ đại khái như sau: “Thiên bảo và hung huyệt nghìn năm qua cân bằng lẫn nhau giống như âm dương, người đời thuận theo sự biến đổi của nó mà sinh sống đã thành quen thuộc, hà tất phải cưỡng cầu chuyện cương vực lãnh thổ, mà sự an khang hạnh phúc của sinh linh mới là quan trọng nhất. Thiên bảo phía tây trấn hung huyệt, huỷ diệt vô số sinh linh, lại chẳng bằng Địa bảo phía đông, tan vỡ mà tạo phúc một vùng. Theo ý trời chẳng bằng thuận tự nhiên, người đời tự khắc biết tránh hung tìm phúc, bất tất phải phá vỡ hiện trạng. Hậu duệ Lỗ gia nên giấu kín bảo cấu, mai danh ẩn tích không để kẻ tham lam lợi dụng. Có thể dùng cách cục “Vẽ hoa dụ bướm” trong Kỳ môn Độn giáp để thoát thân, thao tác cụ thể cần chu toàn nghiêm mật, chỉ được một người làm chủ, để những người không rõ sự tình trợ giúp”. Cuối thư đề tên môn trưởng Ban môn Lỗ Nhất Khí.
Nhận được thông tin này, Chu Ngộ Tâm mới ngộ ra thứ “trò quỷ” mà hắn lờ mờ cảm giác được trong ngày hôm đó là gì. Đó chính là tầng tư duy thứ ba của cô gái họ Lỗ mà hắn chưa thể động chạm đến. Còn tầng tư duy thứ hai mà hắn đã lần dò được trong mơ hồ ẩn hiện, kỳ thực chính là một khảm diện ngược. Khảm diện này chính là cách cục thoát thân đã được thiết kế cho riêng bọn họ, cũng là cách cục vây khống nhằm giam chân hắn ở đây không thể thoát thân. Bảo cấu hai nơi té ra chỉ là “vẽ hoa” để dụ con bướm là Chu gia. Chỉ vì những bảo cấu không phải là bảo cấu, mà hắn đã phải sát phạt với toàn bộ giang hồ.
Song Chu Ngộ Tâm vẫn không chịu bỏ cuộc. Và cuối cùng, sau khi trả giá bằng sự hy sinh của tuyệt đại đa số thuộc hạ Chu môn, hắn đã có thể an tâm và an toàn khai quật “bảo cấu”. Việc khai quật đơn giản hơn rất nhiều so với chiến đấu, đám thợ kỳ tài của Chu gia chỉ mất hai, ba ngày đã khẳng định chắc chắn cả hai nơi đều là bảo cấu giả. Tuy kết quả này sớm đã nằm trong dự tính của Chu Ngộ Tâm, song hắn vẫn cảm thấy đau đớn, uất hận và thất vọng không sao tả xiết.
Sau cuộc chiến dằng dai với các thế lực giang hồ tại vùng tây nam và chính nam suốt mấy tháng ròng, Chu gia lâm vào cảnh nhân tài cạn kiệt, lòng người phân tán, từ đó lụn bại, không thể phục hưng.
Khi rời khỏi Thiên Câu mịt mờ sương khói, phảng phất máu tanh, Chu Ngộ Tâm liếc nhìn cánh cửa bảo cấu nguỵ tạo bằng bóng đá ngấn nước, lại dõi mắt nhìn dãy núi hùng vĩ trập trùng, sắc biếc ngút ngàn, liên miên bất tận. Tận cùng của dãy núi là chân trời, tận cùng của chân trời là một dải mây lững lờ trôi nổi. Bảo cấu đang ẩn mình ngay trong dãy núi miên man kia, thế nhưng dưới gầm trời này, duy chỉ hậu duệ của Lỗ gia mới có thể tìm ra bảo cấu. Dưới gầm trời rộng lớn, liệu có ai biết được hậu duệ của Lỗ gia đang ở nơi đâu? Hoặc có lẽ, họ chính là áng mây đang trôi nổi cuối chân trời.
HẾT
Chú thích
[36] Có nghĩa là bia, bảng tắm ánh nắng.
[37] Có nghĩa là chiếc đấu cầu vồng hút trời.