Ông Lục dụi dụi đôi mắt nhòe nhoẹt. Lúc nãy ông cũng đã mấy lần dụi mắt, máu khô và khói đen bám vào mắt ông đã được lau sạch, nhưng lúc này, ông vẫn cảm thấy ánh mắt mơ hồ, nhãn lực không thể tập trung. Cũng khó trách ông, một người tuổi tác đã cao, lại chưa bao giờ động đến quyền cước, vừa trải qua một phen đấu đá quyết liệt, máu đổ hồn kinh, cả về thể chất lẫn tinh thần đều khó mà chịu đựng nổi.
Sau khi mắt đã hơi rõ trở lại, ông ngẩng đầu quan sát kỹ xung quanh. Mặc dù khi nãy ông đã chạy qua nơi này, nhưng vì mải đuổi theo bóng người áo xanh, nên chưa kịp quan sát kỹ lưỡng. Bây giờ nhìn kỹ lại, ông mới có thể khẳng định phán đoán của mình là đúng. Ông bèn cầm thẻ tre chỉ về đầu bên kia của con đường nhỏ, rồi viết lên đất ba chữ “đường Bàn long”(*).
(*) Tức là con đường rồng cuộn.
Lỗ Thiên Liễu là người hiểu rõ nhất học vấn của ông Lục. Nếu nói công phu Tịch trần của Lỗ Thiên Liễu là học vấn gia truyền, thì ông Lục có thể coi là sư phụ đúng nghĩa của cô. Lúc nãy khi vừa nhìn thấy ba chữ “Ngự long cách”(*), cô còn có chút nghi hoặc, ngờ rằng ông Lục đã nhìn nhầm. Vì cha đã từng kể với cô về thân phận và lai lịch của đối phương, những người có thân thế như vậy chắc chắn không thể bày ra bố cục Ngự long. Nhưng khi ông Lục viết thêm ba chữ “đường Bàn long”, chí ít cô cũng khẳng định đầu óc ông Lục vẫn còn sáng suốt. Một người cả đời nghiên cứu phong thủy như ông Lục chắc chắn sẽ không thể mắc hai sai lầm liên tiếp về mặt bố cục phong thủy. Còn nếu đối phương muốn làm loạn cục tướng để bố trí khảm ngầm, hẳn cũng không thể sử dụng liên tiếp hai lần trong Ngự long cách. Huống hồ với thân thế và lai lịch của đối phương, đáng lẽ họ phải kiêng kỵ bố cục “Bàn long làm đường giẫm dưới chân” mới đúng.
Lỗ Thiên Liễu khép mắt lại, ngưng thần tĩnh khí, nhưng lần này, kết quả khiến cô kinh ngạc hơn nữa, vì âm khí đã bao trùm toàn bộ trạch viện. Hơn nữa, trong màn âm khí vẫn tiếp tục bốc lên ngùn ngụt, còn có thêm ít nhiều thủy khí. Các giác quan cực kỳ mẫn cảm của cô đã cảm nhận được có những vụn nước nhỏ li ti đang va đập lên cơ thể. Lẽ nào quả thực có con rồng ma âm thế đang há miệng hít thở?
“Phụt!”
– Á!!!
Đang trong trạng thái mông lung, Lỗ Thiên Liễu bỗng choàng tỉnh bởi tiếng tiếng bọt nước bắn vọt lên và tiếng người kêu rú khiếp sợ. Âm thanh truyền đến từ sân trước. Cả ba người cùng ngoảnh đầu nhìn về giếng trời, giếng trời không có động tĩnh gì, vẫn yên ắng như cũ. Cả ba lại quay đầu nhìn nhau, ánh mắt của họ đã chứng minh họ hoàn toàn không nghe nhầm.
“Mau” – Con chữ của ông Lục ngoáy tít như rồng bay phượng múa. Quan Ngũ Lang chắc chắn không hiểu, Lỗ Thiên Liễu đọc được, nhưng không hiểu ông muốn nói gì, là mau chạy trốn hay là mau hành động?
Ông Lục không còn thời gian để giải thích, lập tức sải bước về phía đường Bàn long, bước chân xiêu vẹo nhưng không hề chậm chạp. Ngũ Lang nhất thời không kịp phản ứng, lúc này mới vội vã nhảy liền hai bước theo kịp ông. Lỗ Thiên Liễu đi sau cùng. Khi ông Lục bước đi, cô không vội theo ngay, mà đứng nguyên tại chỗ và hít hai hơi thật sâu. Nhịp thở sâu khiến vành tai cô rung lên khe khẽ. Sau đó, cô mới xoay người bước theo họ. Sau những động tác vừa rồi, cô đã hiểu rõ rằng, muốn biến cổng chính thành đường rút lui đã trở thành một việc hoàn toàn không thể.
Thực ra lúc trước, khi ông Lục đang bò trên nền sân lát đá xanh, Lỗ Thiên Liễu đã nghe thấy dưới lòng đất vẳng lên những âm thanh quái dị. Âm thanh này vốn dĩ xuất hiện từ ngả rẽ bên kia của ngã ba khi nãy, nhưng không hiểu tại sao nó xuyên thẳng đến phía dưới giếng trời. Ông Lục bò đến đâu, tiếng rền đuổi theo tới đó. Bởi vậy, cô mới cố gắng dùng ánh mắt để hướng dẫn ông Lục tìm cách tránh khỏi âm thanh đầy oán độc và thù hận kia, trườn người mà đi. Vừa nãy cô lại định thần để nghe thử, phát hiện âm thanh quái dị trong giếng trời khi nãy đã trở thành một mớ hỗn độn những tiếng kêu quái đản, trong đó hình như còn pha lẫn tiếng người đang giãy giụa trong cơn hấp hối.
Ông Lục đi rất nhanh, vì ông không muốn lưu lại nơi này một giây phút nào nữa. Vừa nãy khi bò trên nền đá, ông có cảm tưởng như mình đang sa xuống đầm lầy, nền đá xanh bập bềnh như muốn lún sụm xuống dưới. Ông cũng nghe được những âm thanh quái đản văng vẳng dưới lòng đất, tựa như oan hồn trong địa ngục chuẩn bị rách đất chui lên. Thứ mà ông có thể cảm nhận được, chắc chắn Lỗ Thiên Liễu cũng cảm nhận được. Vì vậy khi Lỗ Thiên Liễu kéo Ngũ Lang chạy đi, ông không hề cảm thấy kinh ngạc, mà ngược lại, ông còn lo sợ họ sẽ chạy đến cứu mình. Khi đó, nền đá phía dưới sẽ không chống đỡ nổi mà sụt xuống, cả ba người sẽ phải cùng nhau xuống địa ngục A Tỳ.
Đến lúc này ông Lục vẫn không biết mình đang phải đối mặt với một đối thủ ra sao. Nỗi khiếp sợ và lo lắng khiến ông cảm thấy tim đập muốn vỡ, luồng khí tắc nghẹn trong lồng ngực, phương pháp Đại hoán khí cũng không còn đủ sức điều hòa. Sau bao nhiêu sự cố và tổn thương, lại đối diện với tình cảnh này, không những thể lực của ông không chịu đựng nổi, mà ngay cả trí não cũng khó bề trụ vững.
Lúc này, khi sụp xuống trước cửa chính sảnh, cửa chính chợt mở ra, ông đã thấy giữa gian chính có thờ một bức tranh “Dị sĩ đồ long”(*), chắc chắn thân thế của đối phương còn sâu xa khó lường hơn những gì ông đã nghe được và phỏng đoán. Ông liên tưởng tới chiếc cầu công trên dòng sông phía trước trạch viện, hai đầu cầu sau khi tiến vào các khu nhà không hề tiếp nối với đường đi, đó có lẽ là cách cục “giá long yên”(**). Còn căn lầu xem kịch đơn độc ở hoa viên phía sau, không có nhà trước sau nối liền, chỉ tiếp nối với một đoạn hành lang, có lẽ đó là “định long tỏa”(***). Hai điểm này càng khẳng định thêm cho phán đoán của ông: bố cục của khu nhà này không phải theo cách cục Tiềm long, mà là cách cục Ngự long nghìn năm hiếm gặp
(*) Có nghĩa là hào kiệt chém rồng.
(**) Có nghĩa là cưỡi yên rồng.
(***) Có nghĩa là khóa giữ rồng.
Ông Lục cảm thấy khiếp sợ là vì ông biết, ở trong một khu trạch viện như thế này, cả sống và chết đều vô cùng đau đớn và đáng sợ. Nhưng ông vẫn phải cố che đậy nỗi khiếp sợ trước mặt hai đứa trẻ kia, như vậy mới không khiến chúng mất đi niềm tin sinh tồn, đây cũng chính là điều mà ông đang lo lắng. Sỡ dĩ ông giành đi đầu tiên, vì ông lo sợ không may lộ ra sơ hở gì khiến hai đứa trẻ kia phát hiện ra.
Đường Bàn long, đuôi rồng ở ngoài, đầu rồng ở trong, lưng rồng phía trên, móng rồng phía dưới. Vậy bức tường bao nhấp nhô chạy dài trước mặt là cái gì đây?
Trên tường không có cửa, chỉ có những ô cửa sổ song hoa được ghép thành từ những viên ngói nhỏ uốn cong. Giữa tường bao và đường Bàn long không hề có vườn hoa hay cây cối, chỉ có một bãi cỏ hẹp kéo dài, cỏ mọc rậm rạp nhưng đã vàng úa. Ở phía đông bãi cỏ có một khung cửa hình tròn, nằm ở trên bức tường ngăn vuông góc với tường bao, cánh cửa màu đen khép chặt. Phía tây bãi cỏ không có đường đi, bị bức tường bao vòng sang vây kín. Sát với tường bao phía tây có một ngôi đình lục giác, với cột đỏ, xà đỏ, rui mé cũng đỏ, lợp ngói vàng kim. Lỗ Thiên Liễu còn nhìn thấy loáng thoáng những bức tranh rực rỡ hoa lệ vẽ trên xà ngang và viền mái hiên của ngôi đình.
– Bức tường chính là xương rồng! – Lỗ Thiên Liễu buột miệng nói ra, nhưng kỳ thực trong lòng cô vẫn cảm thấy hồ nghi, không thực sự chắc chắn.
Nét mặt ông Lục lộ rõ sự kinh ngạc và mừng rỡ. Ông đã biết mấy vị thiên sư núi Long Hổ đều không nói sai, cô gái này khác hẳn người thường, có linh tính và giác quan sánh với thần tiên. Cuốn sách “Huyền giác” mà chưởng giáo thiên sư đưa cho ông, cũng chỉ vì người đàn bà khi nãy vừa bắt ông quỳ xuống gọi là thái hậu mà ông giấu kín, không chịu giảng giải cho Lỗ Thiên Liễu. Ông thấy mình thật là có lỗi với cô cháu gái, giờ đây có hối hận cũng đã muộn rồi.
Lỗ Thiên Liễu đi tới trước một song cửa sổ trên tường, nhìn qua bên kia. Bên đó có một con đường lát đá, nhưng bên cạnh không có bãi cỏ, chỉ có cây. Cây cối đều mọc ở phía bên kia đường, ken dày san sát.
Lỗ Thiên Liễu lại khép mắt lại. Cô đã nghe thấy tiếng âm khí ướt sũng lớp lớp dâng lên từ phía sau rặng cây, tựa như những nhịp tim co bóp nặng nề. Cô còn ngửi thấy một thứ mùi, như hương thơm của dầu hoa quế, lại cũng giống như hương thơm của mai quế lộ, đang từ từ lan tỏa tới chỗ cô.
Hương thơm này có tên gọi là “bách hoa nhụy phức”, là thứ hương liệu nổi tiếng của Thiên Tự Phẩm Nữ Vinh đường ở Hàng Châu.
Lỗ Thiên Liễu từ từ mở mắt ra. Cô lập tức nhìn thấy một khuôn mặt phụ nữ mang mặt nạ ly miêu màu vàng kim. Khuôn mặt đang tì sát vào song cửa ngay phía trước, cách cô chỉ trong gang tấc, ánh mắt ngùn ngụt oán giận. Bên dưới tấm mặt nạ, đôi môi tuy đang mím thật chặt, nhưng hai hàm răng vẫn nghiến sít vào nhau, khiến các cơ mặt nổi lên nhọn hoắt trên hai má xương xương, bộ dạng vô cùng thống hận tựa như muốn lập tức chui qua song cửa đến ăn tươi nuốt sống Lỗ Thiên Liễu.
Khuôn mặt xuất hiện quá đột ngột khiến tim Lỗ Thiên Liễu nảy lên loạn xạ, cơ gân trên cổ giật căng, hơi thở nín bặt. Nhưng ngoài mặt cô vẫn không có biểu hiện gì khác lạ, chỉ có thân thể là di chuyển, từng bước từng bước bình tĩnh lùi lại phía sau, lùi về con đường lát đá, đứng bên cạnh ông Lục. Trong lúc lùi về, ánh mắt cô vẫn nhìn chằm chằm vào khuôn mặt kia. Lực sát thương ẩn chứa trong ánh mắt không hề lùi theo nhịp bước, mà càng lúc càng trở nên mãnh liệt.
Người đàn bà mang mặt nạ ly miêu đứng ở bên ngoài bức tường xương rồng, bà ta nhìn chằm chằm vào ba người ở phía bên kia, lòng dạ rối tung như đám tơ vò, bùng nhùng quấn riết lên tận trí não. Đặc biệt là ánh mắt của đứa con gái trẻ kia, ánh mắt khiến cho đám tơ quấn chặt lấy tim bà, thắt thành một cái nút trượt, từ từ kéo rút, bóp nghẹt đến tức thở.
Bà ta giận dữ vô cùng. Thứ nhất, bà ta không ngờ rằng ông Lục lại xông được đến tận đây, chắc chắn những cạm bẫy trước đó đã bị ông ta phá tanh bành cả rồi. Lại càng không ngờ bên cạnh ông Lục lại mọc thêm ra hai đứa oắt con, chứng tỏ những bố cục tinh vi mà bà ta đã mất bao công tốn sức thiết kế chuyên để đối phó nhà họ Lỗ đã bị đột phá không chỉ có một. Nhưng nếu như chỉ là đột phá mấy bố cục này cũng không sao, vì nơi đây vốn dĩ không phải nơi chuyên dụng để vây khốn kẻ địch, mà là nơi chuyên dụng để vây khốn rồng, cả khu vườn cũng không nên rối loạn đến nhường kia. Cục diện dường như đã sắp đến lúc không thể khống chế.
Tối hôm qua, từ phương bắc thả bồ câu đưa thư tiền trạm chuyển tin về, thông báo tứ hợp viện ở Bắc Bình bị phá, một cao thủ trẻ tuổi của nhà họ Lỗ đã lấy mất bảo bối bí mật mang đi. Thế là hoàng thượng, mà không hiện giờ vẫn chưa thể gọi là hoàng thượng; đó là người mà bà vẫn gọi là con, còn thủ hạ đều gọi là môn trưởng; người đó gom toàn bộ cao thủ có máu mặt trong khu vườn và khu xung quanh, tiến thẳng về phía bắc. Trước khi đi, còn thả bồ câu đưa thư đến Tam Giang đường và Ninh Hải đường phía nam điều cao thủ tới bảo vệ khu vườn. Vì gần đây khu vườn không được yên ổn, bỗng dưng bị đột nhập đến mấy lần. Cũng chẳng biết là người họ Lỗ hay họ Mặc, vì còn chưa kịp xuống lệnh vây bắt, đã bị khảm diện, sát thủ thủ tiêu mất rồi.
Người đàn bà mang mặt nạ vàng kim cũng biết nhà họ Lỗ ở đất Giang Nam không có mấy người. Về bản lĩnh của họ, bà ta cũng nắm rõ như lòng bàn tay, vì đã cài được nội gián trong nhà họ Lỗ, chính là ông Lục. Để đề phòng nhà họ Lỗ nhân lúc khu vườn trống trải tập kích bất ngờ, khiến mình không kịp trở tay, bà ta đã quyết định ra tay trước. Bà ta lệnh cho vận hành lại các khảm, nút, chốt, bẫy trong vườn, lại dựng thêm vài khảm diện mới, sau đó sai ông Lục dẫn người nhà họ Lỗ đến, dự định cất một mẻ lưới, tận trừ hậu họa. Mặc dù những cao thủ lão luyện đều đã bị con trai dẫn đi, nhưng bà ta vẫn chắc mẩm rẳng, những gì đang có trong tay đã thừa sức đối phó với vài mống người trong nhà họ Lỗ.
Ông Lục trở mặt là điều bà ta không ngờ tới, nhưng bà ta chẳng thèm bận tâm. Năm xưa bà ta đã quan sát rất kỹ người này, lựa theo sở thích của ông ta mà được ông nhận là tri kỷ. Mặc dù chỉ qua lại có một đêm, nhưng đã khống chế được ông ta suốt hơn hai mươi năm, coi như cũng lời lắm rồi. Theo như những gì đã biết, tính cách và bản lĩnh của người này không thể gây ra uy hiếp lớn. Những người còn lại trong nhà họ Lỗ, theo thông tin tình báo từ ông Lục, bản lĩnh của họ nhiều nhất cũng chỉ để thoát thân, tuyệt đối không đủ sức làm điên đảo cục tướng, mở khóa thả rồng.
Nhưng giờ đây, bà ta không hiểu tại sao mọi chuyện lại thành ra như vậy. Không biết người nhà họ Lỗ mượn được phép thần thông ở đâu, lại có thể khiến con rồng chết bị khóa chặt kia động long khí. Dưới nước có sự bất thường, ngay cả quỷ nước cũng ngoi lên bờ. Tình hình tại cổng chính, sảnh chính hiện giờ không biết ra sao, đợi mãi vẫn chưa có ám hiệu phát ra. Một lũ vô dụng, cứ như chết hết cả rồi. Lão Lục chết tiệt kia đã đến sát bên tường xương rồng, mà vẫn chưa thấy phát ám hiệu, không chừng đã chết hết thật rồi cũng nên!
Ba người bên trong bắt đầu di chuyển, ý đồ và mục tiêu đã rất rõ ràng. Bọn họ đã nhận ra cục tướng của nơi này, đang định di chuyển tới đầu rồng, tìm ra điểm yếu, triển khai thủ đoạn, làm đảo lộn toàn bộ cục tướng.
Ở bên này bức tường, người đàn bà mang mặt nạ ly miêu cũng di chuyển theo, vừa di chuyển vừa móc từ trong người ra một chiếc còi, vung tay ném lên không trung. Tiếng còi ré lên nhức óc.
Từ trên mái đình lục giác gần góc tường phía tây bỗng rơi xuống sáu chiếc “xà ngang” chính là những chiếc xà ngang màu đỏ hoa văn rực rỡ mà Lỗ Thiên Liễu vừa nhìn thấy. “Xà ngang” rơi xuống, nhưng khi tiếp đất lại dựng đứng lên, vừa chạm đất đã lập tức vụt chạy như bay về phía ba người.
Sáu chiếc “xà ngang” di chuyển hết sức nhẹ nhàng, thoăn thoắt như sáu con ly miêu. Nhưng chúng không phải xà ngang, cũng chẳng phải ly miêu, mà là người, là sát thủ. Trong tay mỗi kẻ đều lăm lăm một đôi chủy thủ nhọn hoắt, lưỡi mảnh uốn cong, giống như cặp lông mày lá liễu của đào hát trên sân khấu. Động tác của chúng đều răm rắp, có trật tự trước sau, tập hợp thành một hình quả trám với phần mũi nhọn hoắt đầy sát khí.
“Thiên lăng khai bích”(*), cục thứ năm mươi lăm trong trận pháp Kỳ môn Độn giáp, thời xưa thường dùng khi một cánh quân nhỏ muốn tập kích hoặc đột phá một đội quân lớn. “Thiên lăng” có sáu góc nhọn, bất kỳ góc nào cũng có thể biến thành mũi nhọn xung kích. Trong quá trình tấn công, có thể tùy ý thay đổi góc nhọn và phương hướng tấn công, khiến cho tiến thoái dễ dàng, chỉ đâu đánh đó. Còn ở đây, sát cục này được gọi là “Lục lăng xung vi biến”(**), vì nó không những có thể tấn công một số đông người, mà khi đối phương người ít thế mỏng, còn có thể dàn thành mũi nhọn để công kích, hoặc mở sáu góc ra, vây bắt đối phương vào giữa, tiến hành tấn công từ sáu hướng.
(*) Có nghĩa là mũi nhọn của trời phá vỡ tường.
(**) Có nghĩa là biến hóa của cách cục sáu mũi nhọn đột phá vòng vây.
Quan Ngũ Lang xoay người xách đao định xông lên, nhưng lập tức bị ông Lục giữ lại. Ông Lục cũng không nói gì, chỉ gấp gáp kéo Ngũ Lang rời khỏi đường Bàn long chạy sang bãi cỏ khô héo bên đường. Lỗ Thiên Liễu chạy theo sau hai người, nhưng lại đến bãi cỏ trước tiên, vì cô vốn có khinh công rất tốt và nhãn lực tuyệt diệu.
Sáu góc nhọn sắc bén chỉ còn cách họ vài bước chân, nhưng ông Lục đã dừng lại trên bãi cỏ. Ông nhanh chóng xoay người lại, cắm ngay chiếc thẻ tre đang cầm trên tay phải xuống đất, rồi lại rút lấy một chiếc từ tay trái cắm xuống. Động tác rất chóng vánh, nhưng không mấy đẹp mắt, khom lưng chổng mông hệt như người cấy mạ ruộng xuân.
Những thẻ tre được cắm xuống cũng không ngay hàng thẳng lối được như cây lúa, mà rời rạc loạn xạ, xiêu vẹo ngả nghiêng, khoảng cách cũng ngắn dài lộn xộn.
Đỉnh nhọn của “quả trám” lao vụt tới trước tiên, khi nhìn thấy thẻ tre cắm trên mặt đất, gã đã không kịp dừng bước, vì chỉ cần gã dừng lại, trận hình phía sau sẽ xô ngay tới. Cũng may là thẻ tre thấp bé, gã chỉ cần hơi bật lên là đã có thể nhảy qua. Và giữa những thẻ tre cũng có rất nhiều khoảng trống để đặt chân. “Mũi nhọn” nhắm sẵn một khoảng trống khả rộng, nhảy ngay vào đó.
Khi bàn chân tiếp đất, gã đột nhiên phát hiện ra có vấn đề, vị trí của thẻ tre mà gã nhìn thấy trong lúc chạy khác hẳn với vị trí thực của nó, hướng chỉ của mũi thẻ tre cũng khác. Nhưng đã quá muộn, một mũi thẻ tre đã xuyên ngập vào lòng bàn chân gã.
“Mũi nhọn” phản ứng rất nhanh, động tác lập tức thay đổi, chân bị thương hơi nhấc lên, tiếp tục dùng chân không bị thương làm chân trụ, đẩy cơ thể lao vụt về phía trước. Gã muốn cố gắng nhảy vọt qua bãi thẻ tre.
Mặc dù chỉ có một chân, nhưng bước nhảy của gã không hề ngắn, chớp mắt cả thân mình “mũi nhọn” đã nhẹ nhàng vượt qua trận thẻ tre. Nhưng gã vẫn không có điểm tiếp đất, vì Quan Ngũ Lang đã cầm đao đợi sẵn ở đầu kia.
Không chỉ có “mũi nhọn” gặp phải chướng ngại, mà hai gã chạy song song ngay phía sau gã, lại thêm hai gã chay song song ở phía sau nữa, đều đã giẫm phải thẻ tre. Động tác và bộ pháp của chúng giống hệt nhau, cách ứng phó trước biến cố cũng như đúc từ một khuôn. Tất cả đều nhảy vụt lên, định vượt qua trận thẻ tre.
Nhiệm vụ của Quan Ngũ Lang đã trở nên vô cùng nhàn nhã, Khuyên nhi đao chỉ cần xoay tít hai vòng, bốn chiếc “xà ngang” đã đổ gục dưới đất, cũng lặng lẽ không một tiếng động như khi chúng còn trên mái đình, duy chỉ có màu sắc dường như càng thêm chói mắt. Chỉ còn một chiếc “xà ngang” vừa nhìn cánh tay và cẳng chân đứt rời của mình vừa rú lên thê thảm. Còn duy nhất một tên bình an vô sự, đó là “mũi nhọn” phía sau cùng. Gã đã kịp dừng bước ngay trước trận thẻ tre, nhưng cảnh tượng kinh hoàng bày ra trước mặt đã khiến gã biến lại thành “xà ngang” trên nóc đình, lặng đi bất động. Khác là ở chỗ gã đang đứng thẳng, có vẻ giống cây cột trụ hơn là xà ngang.
“Loan chi tư phong”(*), cục thứ hai mươi tư trong Kỳ môn Độn giáp, nói theo thuật ngữ phong thủy của phái Thiết kim đoạn ngọc, đây là cục “trồng rừng phá gió giữ vận khí”. Tức là ở phía trước khoảng trống hoặc con đường có gió lùa, tiến hành trồng cây dựa theo phương vị cửu tinh bát môn, sao cho cửa sinh tử tương thông, vị trí cửu tinh nối tiếp, chắn gió giữ khí, lọc uế chuyển thanh, để đảm bảo phong thủy của ngôi nhà không bị gió lùa gây phá tán, vận khí gia đình được tốt đẹp lâu dài.
(*) Có nghĩa là cành cây rối loạn xé gió.
Khi chiêu này được dùng trong trận pháp, lại có các hiệu quả kỳ diệu như gió động cành xoay, động tĩnh bất động, bóng hình lẫn lộn, hư thực khó phân. Năm xưa đại tướng triều Tống là Địch Thanh bày trận Phong lâm đã phá được đội quân muông thú phía nam, trận Phong lâm chính là được phát triển từ “Loạn chi tư phong” mà ra.
Giống như những gì mà nhân khảm “xà ngang” đã nhìn thấy, rõ ràng thấy thẻ tre ở chỗ này, nhưng khi giẫm xuống lại phát hiện ra không phải. Tại sao? Vì họ đang chạy với tốc độ rất nhanh. Nếu như họ từ từ di chuyển đến, chắc chắn có thể dễ dàng lách qua khe hở vượt qua đám thẻ tre.
Đối phương đã chắt lọc tinh hoa của Kỳ môn Độn giáp, huấn luyện được trận nhân khảm “Lục lăng xung vi” vô cùng lợi hại. Khi khởi động như gió thổi đất bằng, khi hành động như gió rạp đồng cỏ, khi tấn công như gió lốc dữ dội. Nhưng họ đã hoàn toàn không ngờ rằng, đối thủ của họ hôm nay lại là một cao thủ cả đời nghiên cứu Kỳ môn Độn giáp, một cao thủ chuyên lấy việc giải cục thế phá bại ác hiểm trong phong thủy làm vui.
Người đàn bà mang mặt nạ ly miêu bên ngoài bức tường đã nhìn thấy tất cả, hàm dưới rớt xuống. Đó là một thứ biểu cảm rất phức tạp, có ngạc nhiên, có kinh hãi, và cả hối hận. Đến hôm nay bà ta mới biết, những việc tưởng chừng đã hoàn toàn nắm chắc trong tay, kỳ thực vẫn còn quá nhiều nhân tố nằm ngoài kiểm soát. Người mà bà ta cứ ngỡ đã hiểu thấu tận chân tơ kẽ tóc, hôm nay lại dạy cho bà ta một đòn bất ngờ khó tưởng tượng.
Quan Ngũ Lang không tiếp tục truy sát nhân khảm cuối cùng, vì anh ta không phải một sát thủ khát máu, anh ta chỉ là một người thợ muốn bảo vệ tính mạng cho mình. Thực ra cũng chẳng cần phải truy sát, gã nhân khảm kia cũng đã mất hết hồn vía bởi cảnh tượng thê thảm của chúng bạn chỉ trong chớp mắt, hoàn toàn mất hết khả năng tấn công và tư duy. Đây chính là khuyết điểm lớn nhất của bọn nhân khảm trong khu vườn này, chúng chỉ biết nhìn người khác đổ máu, nhưng không chịu nổi bản thân đổ máu. Một tổ hợp sắc bén nguy hiểm nhường đó, chớp mắt đã bị diệt mất năm tên, kẻ còn lại hoang mang khiếp đảm tựa như vừa chứng kiến cảnh tay chân mình bị chặt đứt lìa, đứng chôn chân tại chỗ không dám xông lên.
Lúc này, ba người đã điềm tĩnh quay bước về phía cánh cửa tròn màu đen đang đóng chặt, Quan Ngũ Lang khí thế bừng bừng cầm đao đi sau đoạn hậu. Một đòn giết bốn vừa rồi khiến anh ta đột nhiên thấy mình anh dũng vô song, hào khí vạn trượng, buông được một hơi uất khí đè nén trong lòng. Người đàn bà bên ngoài bức tường không đi theo họ nữa. Nhân khảm ở phía bên kia cũng không dám di chuyển, chỉ đứng chết trân nhìn theo ba người.
Đã đến phía trước cánh cửa tròn màu đen, Lỗ Thiên Liễu và ông Lục mới kín đáo thở phào một hơi dài. Thực ra trong lòng họ vô cùng căng thẳng, nếu người đàn bà kia lại gọi đến một tổ hợp nhâm khảm như vậy nữa, bọn họ sẽ hết đường. Cho dù người đàn bà kia không còn thuộc hạ khác để sử dụng, nhưng chỉ cần một cái “xà ngang” sống sót kia vòng qua trận Loạn chi tư phong, cũng có thể chặn đứng họ. Nhìn vào thân thủ bộ pháp khi nãy, có thể thấy công lực của gã cho dù không thể giết chết họ, nhưng cũng đủ để vây khốn họ tại đây, đợi trợ thủ kéo đến.
Quan Ngũ Lang vốn không thích nghĩ nhiều, nên không thể ý thức được các mối nguy hiểm đang rình rập. Đây chính là nhược điểm, nhưng trong một số tình huống, lại chính là ưu điểm. Như lúc này đây, thần thái của anh ta khiến nhân khảm kia không dám manh động, cũng khiến người đàn bà mang mặt nạ ly miêu từ bỏ ý định tiếp tục vây giết. Nhưng người mang tính cách này cũng rất dễ bị kích động. Vừa nhìn thấy cánh cửa không có khóa, anh ta đã lập tức đánh mất sự thận trọng cần có, hấp tấp đưa tay đẩy vào cánh cửa.
– Không được động vào! – Lỗ Thiên Liễu hét lên sợ hãi. Giọng của cô không quá chói tai, nhưng trong tai của Ngũ Lang, nó khác nào tiếng sét giữa trời quang. Ông Lục cũng giật mình khiếp đảm, ông biết Lỗ Thiên Liễu có phản ứng như vậy, chắc chắn sẽ có chuyện bất thường. Ông đã đọc cuốn “Huyền giác” mà thiên sư chưởng môn tặng cho, cũng từng nghe các lão đạo sĩ trên núi Long Hổ nói rằng Lỗ Thiên Liễu là nửa người nửa tiên, có thanh đồng bích nhãn. Nên trong nhà họ Lỗ, ông là người hiểu Lỗ Thiên Liễu hơn cả, thậm chí còn hiểu Lỗ Thiên Liễu hơn cả bản thân cô. Đương nhiên, đó chỉ là trước khi Lỗ Thiên Liễu đọc trộm cuốn “Huyền giác”.
Ban đầu, Lỗ Thiên Liễu không biết nguy hiểm đến từ phía nào, chỉ khẳng định là có nguy hiểm tồn tại, một thứ nguy hiểm có thể nghiền nát cả ba thành vụn cám chỉ trong nháy mắt. Cô ngửi thấy một thứ mùi, thứ mùi của ngày Tết. Đúng vậy, thứ mùi này thường xuyên lan tỏa trong không gian những khi Tết đến.
Thuốc nổ! Đúng! Khứu giác của Lỗ Thiên Liễu đã đưa ra khẳng định. Hơn nữa, đây hoàn toàn không phải thứ thuốc nổ bánh pháo. Vì mùi của nó nồng nặc hơn rất nhiều. Các dây thần kinh đang căng cứng của cô gần như đã cảm nhận được uy lực khủng khiếp của cú bùng nổ, từng sợi lông tơ khắp cơ thể đang run rẩy kịch liệt.
– Không được cử động, tuyệt đối không được cử động! – Giọng nói của Lỗ Thiên Liễu rất ít khi căng thẳng như vậy, khiến hai người vừa nghe lập tức căng thẳng hơn.
– Tôi đứng yên, hai người lui trước đi! – Quan Ngũ Lang chưa bao giờ đếm xỉa đến sự sống chết của bản thân, chỉ quan tâm đến sự bình an của Lỗ Thiên Liễu.
– Đồ ngốc! Anh nghĩ chỉ mình anh giẫm phải lẫy thôi à? Hai người chúng tôi cũng giẫm vào rồi!
Lỗ Thiên Liễu đang trách móc sự hấp tấp của Ngũ Lang, đồng thời cũng thầm tự trách bản thân quá sơ ý. Cô ngoảnh đầu nhìn người đàn bà mang mặt nạ ở bên kia bức tường, lại nhìn nhân khảm đang đứng ngây thộn phía sau. Bây giờ, cô đã hiểu tại sao họ không bám theo, vì đây là một khảm tuyệt đoạn, một khảm tuyệt đoạn có uy lực sát thương và phạm vi công phá cực lớn.