Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm. Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản

Lời Nguyền Lỗ Ban

Quyển 3 – Chương 39: Thạc Dã Kim

Tác giả: Viên Thái Cực
Chọn tập

Trên đường đi, Lang Thiên Thanh đã kể cho Lỗ Nhất Khí nghe, ông ta vốn là một cao thủ đột kích trong một băng đảng thổ phỉ trên núi, về sau cảm thấy bàn tay vấy quá nhiều máu tanh nên đã tự động rút lui, một mình kiếm sống bằng nghề săn bắn trong rừng già. Một lần bị kẻ thù trong một băng đảng khác ám toán, bắt giữ, rồi treo làm cột bang[1], may được Nhậm Hoả Cuồng cứu sống. Để đền ơn cứu mạng, ông mới nhận lời giúp Nhậm Hoả Cuồng thực hiện một việc trọng đại. Vì chuyện này, họ đã vạch ra rất nhiều phương án, lên kế hoạch chuẩn bị chu đáo, Nhậm Hoả Cuồng còn giúp ông cải tiến cây súng trường.

Nói tới đây, Lỗ Nhất Khí theo phản xạ liếc nhìn khẩu súng của Lạp Thần. Nhìn hình dáng bên ngoài, đây chỉ là một khẩu súng trường nòng trơn bình thường, song ở bên miệng nòng súng thấy gờ xoáy, chắc chắn là Nhậm Hoả Cuồng đã tạo ra rãnh xoáy bên trong nòng súng, tăng cường độ chuẩn xác cho đường đạn. Ông còn kéo dài hộp lò xo pit tông phía sau, để tăng cường lực đẩy cho viên đạn; hơn nữa còn đổi báng súng đơn thành báng súng đôi, như vậy sau khi luyện tập, tay trái cũng có thể lên đạn chóng vánh, đây cũng chính là nguyên nhân vì sao Lạp Thần có thể bắn liên tiếp. Ngoài ra, ông còn mở rộng hộp đạn, khiến một lần có thể nạp được số đạn nhiều gấp đôi.

Lang Thiên Thanh kể rằng, mấy đêm trước, Nhậm Hoả Cuồng cho bà bạn già tới báo tin, đã đến lúc tiến hành đại sự. Ông bèn lập tức hành động theo kế hoạch, âm thầm đi theo. Sau khi tiêu diệt ba tay nỏ, ông liền bám theo dấu vết của tay nỏ bị thương, trở thành người đi trước mở đường. Cho đến khi đi vào miệng khe núi, đụng đầu Thú Vương Hùng Sơn Bình của đối phương, mới mất liên lạc với Nhậm Hoả Cuồng.

Tro bụi vẫn mù mịt kín trời, bóng đêm đặc quánh xoè tay không thấy ngón.

– Ở ngay phía trước! – Nghe giọng nói, không thể đoán ra Lỗ Nhất Khí đang nghĩ gì.

– Phía trước ư? – Lạp Thần có vẻ nghi ngờ – Phía trước đã là giữa lòng sông, tại đó có một xoáy nước ngoặt[2] lớn nhất, người dân xung quanh gọi nó là miệng rồng đen, bình thường chẳng ai dám tới!

Câu nói của Lạp Thần đã khẳng định cho phán đoán của Lỗ Nhất Khí. Cảm giác siêu phàm của cậu đã lần tìm trong đêm đen và bụi dày mù mịt, phát hiện ra một vùng khí tướng. Hình tướng của khí tướng này cực kỳ hung hiểm, bốc lên cuồn cuộn, xộc đến chín tầng mây, giống như lốc xoáy, giống như sóng dữ, đen đặc nặng nề, nhiếp hồn động phách… Đó chính là hung huyệt!

Họ không nhìn thấy dòng sông, mặt sông đã đóng một lớp băng rất dày; họ không nhìn thấy mặt băng, trên mặt băng tuyết phủ tầng tầng lớp lớp; họ không nhìn thấy mặt tuyết, trên tuyết đã phủ kín một lớp tro núi lửa.

Quả nhiên là hung huyệt! Núi lửa phun trào ở một khoảng cách gần như vậy mà vẫn không hề ảnh hưởng đến môi trường lạnh giá nơi đây. Ngay cả tàn tro nóng bỏng của núi lửa cũng không thể khiến mặt băng tan chảy.

Nhìn từ xa đã thấy, ở trên mặt băng mênh mông quả thực có một vòng xoáy, một vòng xoáy thẫm đen sáng lấp lánh. Đó là vòng xoáy băng do nước sông đen kịt đông cứng mà thành, nhô lên khỏi mặt băng. Không cao, song rõ là tạo hoá khéo léo, tinh xảo tuyệt luân.

Trong vòng xoáy băng chắc chắn phải hàm chứa một thứ năng lượng khác thường. Dưới tác động của thứ năng lượng này, không chỉ Lỗ Nhất Khí mà những người khác đều bắt đầu cảm thấy tức ngực đau đầu, toàn thân rời rã. Ngay cả bầy chó ngao và sói xanh cũng đã bắt đầu trở nên bứt rứt, hoảng loạn, vùng chạy tứ tung. Nguồn năng lượng bí hiểm toả ra từ xoáy băng tựa như lớp lớp sóng xô, đổ dồn về phía họ, gây nhiễu loạn tư duy, mê hoặc tinh thần, tê liệt giác quan của họ.

Trạng thái hôn mê của Lỗ Nhất Khí là nghiêm trọng nhất, song trạng thái này là mất đi một phần suy nghĩ hay là thu nạp thêm một tầng suy nghĩ khác, chỉ bản thân cậu mới biết được. Bước chân của cậu vẫn vô cùng kiên định, đi thẳng tới xoáy băng.

Bỗng nhiên, từ trong tro bụi và tuyết xốp chui ra một đám sinh vật chắn ngang đường đi của họ. Do cảm giác của mọi người đều đã suy giảm đáng kể, nên đến tận khi giáp mặt với chúng, họ mới phát hiện ra.

Đám sinh vật cản đường chính là một bầy sói mệt mỏi và một con gấu lớn cũng bơ phờ không kém. Phía sau bầy sói còn có một bóng người thương tích đầy mình đang ngồi thu lu, trong mắt chiếu ra những tia sáng còn thú tính hơn cả bầy chó sói. Kẻ này là ai? Chính là Thú Vương, kẻ thù của Lang Thiên Thanh.

Lạp Thần và Thú Vương là kẻ thù lâu năm, song thường lánh mặt nhau, giờ đây môn phái xảy ra đại sự, không thể khước từ, bởi vậy trước đó đã quyết chiến một trận dữ dội ở trong núi, khiến cả hai bên đều tổn thương nghiêm trọng.

Lạp Thần đứng hiên ngang ở trên cùng, xung quanh chỉ còn lại ba con chó ngao và hai con sói xanh, nhìn vào tư thế và khả năng chiến đấu, có thể thấy rằng năm con thú còn sót lại không kém thế bao nhiêu so với bầy sói và con gấu to xù của Thú Vương, lại xuất hiện một cục diện ngang sức ngang tài.

Lạp Thần ra hiệu cho Thuỷ Băng Hoa và lão mù đỡ Lỗ Nhất Khí đi vòng sang một bên, còn mình cầm chắc súng trong tay, ngậm dao săn trong miệng, tiếp tục đi về phía Thú Vương.

Thú Vương chỉ gầm khẽ một tiếng rồi lập tức xông lên, trong tay hắn nắm chặt một khẩu súng đầu hổ. Đây là kiểu súng ba đốt do Hoả Lưu đường thuộc Đông xưởng triều Minh chế ra, có thể bắn liên tiếp ba mũi đinh nanh sói.

Lạp Thần chẳng thèm kêu tiếng nào, vì trong miệng ông đang ngậm dao săn. Ông không thể đánh rơi lưỡi dao săn, bởi lẽ ông biết rõ trong ổ súng chỉ còn một viên đạn. Sau khi viên đạn duy nhất bắn ra, ông chỉ có thể dựa vào lưỡi dao để liều mạng.

Trong nháy mắt, bầy thú hoang của cả hai phe đang trong trạng thái uể oải bỗng trở nên hưng phấn lạ kỳ, tựa như là hồi quang phản chiếu.

Súng đầu hổ đã nổ vang. Súng trường cũng đã khai hoả. Tiếng gấu gầm rống, tiếng sói tru vang, tiếng chó ngao sủa loạn. Một bầy thú hoang xáp vào nhau cắn xé điên cuồng, tựa như sóng cuộn trên sông.

Tro bụi bay mù mịt, tuyết trắng văng tung toé, lông da tơi tả, máu huyết tứ tung. Trên bãi chiến trường hỗn loạn, chốc lát không còn tro bụi, không còn tuyết trắng, chỉ trơ ra một mặt băng rộng lớn trơn trượt. Trên lớp băng loang lổ những máu, dưới sự phản chiếu của mặt băng lạnh lẽo, càng thêm đỏ chói đến nhức mắt…

Lỗ Nhất Khí đã tới bên vòng xoáy băng. Cậu khép hờ hai mắt, tựa như đang ngủ.

Thuỷ Băng Hoa và lão mù đều mệt lử, toàn thân rệu rã, ngồi bệt xuống lớp tuyết dày. Còn Lỗ Nhất Khí vẫn đứng sừng sững ở đó như kẻ mất hồn, cơ thể hoàn toàn bất động.

Một lúc lâu sau, Lỗ Nhất Khí mới đưa tay ra, khẽ đặt lên trên xoáy băng, động tác nhẹ nhàng tựa như đang bắt mạch cho khuê nữ. Hơi lạnh từ xoáy băng truyền theo ngớn tay, bàn tay, cánh tay, vai, cổ, xông thẳng lên đỉnh đầu cậu, khiến cậu giật mình mở choàng hai mắt.

Trước mặt là vòng xoáy, một vòng xoáy do nước đóng băng kết thành. Trong vòng xoáy còn có một vòng xoáy nữa, là vòng xoáy do dòng nước đen ngòm tạo nên.

Vòng xoáy nước đen rất to và sâu, nặng nề và đặc quánh, tốc độ xoay chuyển cũng không nhanh, trông giống như sắp đông cứng đến nơi.

Lỗ Nhất Khí đã mở mắt, song lại không nhìn vào vòng xoáy, mà đang quan sát phía đối diện của vòng xoáy. Trong cơn mơ màng, cậu cảm giác một cách rất chân thực rằng nơi đó vừa mới xuất hiện một thứ vô cùng tuyệt diệu, đang toả ra một luồng khí linh động tràn trề. Cậu đã nhận ra, đó chính là thứ đã xuất hiện trong Ngũ trùng đăng nguyên hội, cũng từng thấp thoáng trong vùng rừng núi trập trùng khi cậu chạy khỏi Kim gia trại. Lúc này, làn khí toả ra từ nó càng tuôn trào mạnh mẽ, dường như để chống đỡ lại một thứ gì đó.

Cảm giác của cậu nhận ra làn khí, song đôi mắt cậu lại nhìn thấy một người. Rất khó nói đây là một người như thế nào. Nhìn vào cách ăn mặc thì thấy rất bình thường, song nhìn vào khí chất phong thái, lại thấy trong vẻ cao quý còn toát lên nét tiên phong đạo cốt. Cao quý là bẩm sinh, còn tiên phong đạo cốt cần phải rèn luyện nhiều năm mới có được.

Món đồ tuyệt diệu kia đang nằm trên lưng người này, không chỉ phát ra luồng khí linh động, mà còn thoang thoảng một mùi hương ngọt dịu. Hương thơm này vô cùng đặc biệt, ngửi qua một lần sẽ nhớ mãi không quên, chính là kỳ nam kiến mật[3].

Gỗ kỳ nam kiến mật không thể bào, gọt, không thể quét sơn, chỉ có thể nhờ vào ma sát trong quá trình sử dụng để lên nước tự nhiên, nếu không sẽ khiến vỏ nứt ruột mục.

Trên lưng người này đeo một chiếc hộp gỗ nam có hình cành cây, nhìn từ xa đã thấy mặt gỗ sáng bóng như ngọc. Có thể mài bóng đến độ trơn tru như ngọc thế kia, chắc chắn phải có hàng nghìn năm tuổi.

Phía sau người đeo hộp, còn có một người nữa khom lưng mà đi. Người này tuy lưng eo cong lên như cánh cung, song đầu vẫn vươn dài về phía trước, vẻ như một người gù bẩm sinh. Đôi mắt kẻ này đỏ vằn như máu, một tay cầm sợi dây đỏ, các ngón tay đang liên tục tết nút gỡ nút. Đầu còn lại của sợi dây được cắn thật chặt bên nửa hàm răng bên trái, nhìn qua hệt như dòng máu ứa ra từ khoé miệng. Người này đối lập hoàn toàn với người phía trước, khắp mình toả ra yêu khí dày đặc.

– Cậu làm rất tốt! – Người đeo hộp gỗ kỳ nam lên tiếng, giọng nói điềm đạm, tựa như đang trò chuyện với bạn tri giao.

– Thuận theo tự nhiên mà thôi! – Lỗ Nhất Khí không biết phải nói gì, song câu nói cứ như tự nhiên bật ra từ trí não. Đây có lẽ là nhờ công phu tự nhiên của Đạo gia chăng? Bởi vậy, trạng thái của cậu càng được thả lỏng tự nhiên hơn.

– Tôi biết cậu có lý do để tới đây! – Giọng nói vẫn rất điềm tĩnh.

– Còn tôi lại không rõ lắm, nhưng bây giờ thì tôi đã hiểu! – Câu trả lời còn tự nhiên hơn.

– Nơi này tôi đã tìm kiếm khá lâu rồi!

– Nên cũng muộn rồi?

– Chưa muộn! Cậu vẫn chưa ra tay.

– Muộn rồi, nếu không anh đã không để tôi tới đây!

– Thật khó tin, một vật bé nhỏ như vậy lại có thể định được hung huyệt!

– Tôi cũng không tin, song không thể không tin.

– Dựa vào cái gì? Cảm giác ư?

– Có lẽ vậy! Còn do các người ép tôi phải tin.

– Cậu thực sự muốn làm như vậy?

– Thuận theo tự nhiên thôi!

– Chúng ta hãy bàn bạc thêm!

– Đợi tôi làm xong đã rồi tính.

– Vậy thì thật đáng tiếc!

– Chưa chắc, có lẽ là may mắn.

Nói xong câu này, Lỗ Nhất Khí rút một thứ từ trong ngực áo ra.

– Nếu tôi đến cướp thì sao? – Giọng nói rất nhẹ nhàng, giống như đang thương lượng.

– Hung huyệt chặn đường, không biết hung hiểm đến đâu, trong lúc gấp rút chớ nên bước qua! – Lỗ Nhất Khí cũng nhẹ nhàng khuyên can, giống như đang ngăn cản một người bạn theo tiễn.

– Vậy thì phải giết chết cậu trước khi cậu ra tay! – Trong giọng nói đã có phần lạnh lẽo.

Lỗ Nhất Khí nở một nụ cười, bởi lẽ sự uy hiếp đã cho cậu hiểu rằng, mình sắp thắng.

– “Thứ được kỳ nam kiến mật phong kín thường là loại khí giới nghìn sát, khí giới xuất hiện, kinh thiên động địa, chém giết tất thành công”. – Lỗ Nhất Khí chợt nhớ tới một tờ rách rời tàn khuyết của cuốn “Thuợng cổ thần di khí giám”[4] có viết như vậy – Nhưng có điều anh giết tôi, anh cũng chưa chắc đã có được thứ này. Giết chết tôi, anh cũng không bao giờ có thể tìm ra các món thiên bảo còn lại. Tốt nhất hãy để mọi việc thuận theo tự nhiên. Trời làm chủ, người hành động, anh thông minh hơn tôi, có lời gì hãy để lần sau nói tiếp.

Người đối diện không nói thêm câu nào nữa, dù sao hắn cũng là người có đạo hạnh, có tu dưỡng. Chỉ có điều hắn dang suy nghĩ, đang cân nhắc, dường như hắn đã ý thức được bản thân trở nên kém thế ở điểm nào, cũng ý thức được suy nghĩ của mình có chỗ lệch lạc.

Thái độ của Lỗ Nhất Khí rất đỗi ung dung, ung dung tựa như những bông tuyết đang phiêu diêu giữa bầu không. Vào đúng lúc này, trên bầu trời u ám bỗng rắc xuống những bông tuyết xoay tròn, chao lượn qua trước mắt Lỗ Nhất Khí. Lỗ Nhất Khí nhìn theo một bông hoa tuyết, ánh mắt chăm chú kéo theo gò má, khoé môi, nở thành một nụ cười sáng bừng trên khuôn mặt. Cùng với cái mỉm cười, vật đang giữ trong tay nhẹ nhàng rơi vào vòng xoáy, tuy nhanh hơn nhiều so với tuyết rơi, song cũng tự nhiên y như vậy, tự nhiên như ánh sao băng thoáng lướt ngang trời.

Vào khoảnh khắc vật này rơi xuống, hai bóng người đối diện chợt rùng khẽ lên một thoáng, song chỉ là một thoáng. Tận mắt thấy món bảo bối đời đời kiếm tìm, ngày đêm mơ tưởng bị quăng xuống hung huyệt, sau này khó lòng còn thấy lại, mà vẫn có thể bình thản trấn tĩnh đến thế, quả là một định lực trên đời hiếm gặp.

Thứ vừa rơi vào vòng xoáy chính là miếng pha lê màu đen được rút ra từ bệ đặt hộp ngọc trong thạch thất. Sau khi dập dềnh mấy cái trong vòng xoáy, nó lập tức chìm nghỉm xuống phía dưới. Trong một khoảnh khắc, trên bề mặt miếng pha lê bỗng loé lên những tia sáng vàng kim. Ánh sáng rực rỡ đến chói loà, song thứ đang rực sáng không phải là bề mặt bóng bẩy của pha lê, mà chính là hình thù được tạo thành bởi những tia sáng vàng kim.

Những tia sáng vàng rực rỡ đã kết thành bốn chữ với tự dạng thuần phác cổ xưa: “Thạc dã lưu kim”[5].

Những con chữ vàng kim chỉ chớp lên một thoáng rồi biến mất, song đã vĩnh viễn khắc sâu trong trí não Lỗ Nhất Khí, đương nhiên cũng có thể đã vĩnh viễn đọng lại trong tâm trí những người khác nữa. Lỗ Nhất Khí ngẩng đầu lên nhìn người đối diện, người này cũng đang nhìn cậu. Bốn mắt giao nhau, dường như thần hồn giao tiếp, dường như tâm cảnh tương thông, tất cả đều chất chứa trong chỗ không lời.

Ngay sau khi nuốt trọn miếng pha lê đen, xoáy nước đột nhiên biến mất, mặt nước bỗng chốc phẳng lặng như gương. Dòng nước sông đen kịt nặng nề và đặc quánh, không có lấy một gợn sóng lăn tăn.

Bỗng vang lên một tràng tiếng nổ ầm ì, nghe như sấm xuân dậy đất, chỉ có điều tiếng sấm vọng đến từ dưới chân, trong khi dưới chân họ là mặt băng trên dòng sông lớn. Dòng sông phong kín băng dày thình lình vang tiếng nổ rền, khiến người ta không khỏi bàng hoàng kinh sợ.

Hai người đối diện đã đi rồi. Ngay khi tiếng sấm vừa vọng lên, họ đã ung dung rời bước.

Lỗ Nhất Khí không đi, thậm chí hai bàn chân cậu không hề xê dịch lấy một chút. Cậu đứng im lìm bất động, khí định thần nhàn, dường như quên bẫng cả những tiếng nổ rền như sấm dưới chân.

Đi được vài bước, người kia bỗng dừng lại, quay đầu nhìn Lỗ Nhất Khí, trong ánh mắt tràn đầy kinh ngạc và khâm phục, rồi khoé miệng khẽ mỉm cười, cất giọng điềm đạm bình hoà mà nói:

– Hẹn ngày gặp lại!

Lỗ Nhất Khí không nói, chỉ mỉm cười đáp lại, cho tới khi hai người đã khuất dạng sau làn gió tuyết. Những vết rạn nứt khúc khuỷu ngoằn ngoèo tràn lên mặt băng như một mạng nhện khổng lồ, không ngừng kéo dài lan rộng. Từ các vết nứt, nước sông đen thẫm trào lên, gợn ánh lân tinh lấp loáng, giống như dầu sánh, giống như vàng dát, khiến các vết nứt trông hệt như tia chớp, hệt như rắn vàng, hệt như rồng đen.

Băng trên mặt sông đã vỡ vụn, dòng sông đã thoát khỏi lớp băng khoá kín.

Nơi Lỗ Nhất Khí đang đứng là một tảng băng lớn đã bị vô số vết rạn nứt bủa vây ngang dọc, nó hoàn toàn có thể chịu được sức nặng của ba người Lỗ Nhất Khí, Thuỷ Băng Hoa và lão mù.

Những vết rạn nứt vẫn tiếp tục kéo dài. Mặt băng đã vỡ vụn thành vô số tảng băng trôi, bắt đầu di chuyển theo dòng nước chảy, chốc chốc lại va vào nhau phát ra những tiếng lách cách, khiến dòng sông lặng lẽ trong tiết giữa đông trở nên náo nhiệt lạ thường.

Trong “Tát Cáp Liên giang thuỷ chí”[6] có viết: “Đầu thời Dân Quốc, nước sông bất thường. Lập đông chưa lâu thì băng vỡ, song băng trôi không cản trở, nước đen không ngập, đường sông thông suốt”.

Dã sử dân gian truyền rằng: “Đầu thời Dân Quốc, Hắc Long Giang xuất hiện sự lạ, tiết Lập đông băng vỡ băng trôi, có bậc thế ngoại cao nhân đoán rằng, là điềm báo thiên hạ có biến, phân định biên cương, đánh đuổi hết giặc Mãn”.

Một tảng băng lớn từ từ trôi về phía hạ lưu. Lỗ Nhất Khí vẫn đứng sừng sững, ánh mắt nhìn miên man về phía xa xăm. Thuỷ Băng Hoa và lão mù ngồi bệt bên cạnh, đều đã mệt mỏi rã rời, rũ đầu im lặng.

Trên bờ đê ven sông, người đeo hộp gỗ rảo theo mấy bước về phía hạ lưu, song nhanh chóng dừng ngay lại, vẩy ống tay áo một cách khoan thai, rồi bình thản nhìn ba người Lỗ Nhất Khí trôi đi mỗi lúc một xa.

Người gù mắt đỏ bước lên nói:

– Chu thiếu chủ! Thổ bảo phía tây nam đã lần ra tung tích!

Chú thích

[1] Là một cực hình. Vào mùa đông, lột hết quần áo của người chịu hình vào cây cột rồi dội nước lên cho đông cứng thành băng.

[2] Tại chỗ lòng sông rẽ ngoặt thường xuất hiện xoáy nước rất xiết, lại do nước từ thượng lưu đổ tới sẽ khiến đáy sông nơi đó xuất hiện vực nước sâu.

[3] Một loại gỗ nam (gỗ lim) kỳ lạ, toả ra hương thơm ngọt ngào. Loài kiến mật thường làm tổ trên cây này. Loài kiến này thích ăn mật ong song lại không bị mật ong dính chặt, có sức khoẻ và khả năng gặm khoét cực lớn, nên nếu bị chúng sống ký sinh, gỗ nam sẽ không thể dùng được, chỉ một cây gỗ bằng cổ tay cũng đã có vô số tổ kiến, trong cả vạn gốc cây may ra mới có một gốc nguyên lành. Dùng nó để chế tác vật dụng sẽ có độ phong kín cực tốt, không chỉ che đậy được thi khí, âm khí, mà sát khí, huyết khí, độc khí đều có thể được che kín bên trong.

[4]Ban đầu có lẽ đây là một tác phẩm gồm cả chữ viết và tranh vẽ. Trong phần tàn khuyết của bản chép tay có câu: “Thiên sát khí xuất, sát tất thành” (vũ khí thiên sát xuất hiện, chém giết tất thành công).

[5] Theo truyền thuyết, sau khi Đại Vũ trị thuỷ thành công, đã phân chia đất đai theo tác dụng. Trong đó, loại đất phì nhiêu màu mỡ có thể trổng trọt cho thu hoạch tốt gọi là “lưu kim địa” (đất chảy vàng). “Thạc dã lưu kim” có nghĩa là ấn ngọc để phong trấn loại đất này.

[6] Một cuốn sách ghi chép về những biến động thuỷ văn của sông Tát Cáp Liên, cũng chính là sông Hắc Long Giang. Song rất hạn chế, vì dòng sông này rất dài, nên cuốn sách chỉ ghi chép lại những biến động thuỷ văn của một khúc sông. Song khá nhiều sự việc và hiện tượng bất thường đều có thể phản ánh tình trạng của toàn bộ lưu vực sông khi đó, hiện vẫn được dùng làm tư liệu tham khảo.

Hết Tập 3

Nói tới đây, Lỗ Nhất Khí theo phản xạ liếc nhìn khẩu súng của Lạp Thần. Nhìn hình dáng bên ngoài, đây chỉ là một khẩu súng trường nòng trơn bình thường, song ở bên miệng nòng súng thấy gờ xoáy, chắc chắn là Nhậm Hoả Cuồng đã tạo ra rãnh xoáy bên trong nòng súng, tăng cường độ chuẩn xác cho đường đạn. Ông còn kéo dài hộp lò xo pit tông phía sau, để tăng cường lực đẩy cho viên đạn; hơn nữa còn đổi báng súng đơn thành báng súng đôi, như vậy sau khi luyện tập, tay trái cũng có thể lên đạn chóng vánh, đây cũng chính là nguyên nhân vì sao Lạp Thần có thể bắn liên tiếp. Ngoài ra, ông còn mở rộng hộp đạn, khiến một lần có thể nạp được số đạn nhiều gấp đôi.

Lang Thiên Thanh kể rằng, mấy đêm trước, Nhậm Hoả Cuồng cho bà bạn già tới báo tin, đã đến lúc tiến hành đại sự. Ông bèn lập tức hành động theo kế hoạch, âm thầm đi theo. Sau khi tiêu diệt ba tay nỏ, ông liền bám theo dấu vết của tay nỏ bị thương, trở thành người đi trước mở đường. Cho đến khi đi vào miệng khe núi, đụng đầu Thú Vương Hùng Sơn Bình của đối phương, mới mất liên lạc với Nhậm Hoả Cuồng.

Tro bụi vẫn mù mịt kín trời, bóng đêm đặc quánh xoè tay không thấy ngón.

– Ở ngay phía trước! – Nghe giọng nói, không thể đoán ra Lỗ Nhất Khí đang nghĩ gì.

– Phía trước ư? – Lạp Thần có vẻ nghi ngờ – Phía trước đã là giữa lòng sông, tại đó có một xoáy nước ngoặt[2] lớn nhất, người dân xung quanh gọi nó là miệng rồng đen, bình thường chẳng ai dám tới!

Câu nói của Lạp Thần đã khẳng định cho phán đoán của Lỗ Nhất Khí. Cảm giác siêu phàm của cậu đã lần tìm trong đêm đen và bụi dày mù mịt, phát hiện ra một vùng khí tướng. Hình tướng của khí tướng này cực kỳ hung hiểm, bốc lên cuồn cuộn, xộc đến chín tầng mây, giống như lốc xoáy, giống như sóng dữ, đen đặc nặng nề, nhiếp hồn động phách… Đó chính là hung huyệt!

Họ không nhìn thấy dòng sông, mặt sông đã đóng một lớp băng rất dày; họ không nhìn thấy mặt băng, trên mặt băng tuyết phủ tầng tầng lớp lớp; họ không nhìn thấy mặt tuyết, trên tuyết đã phủ kín một lớp tro núi lửa.

Quả nhiên là hung huyệt! Núi lửa phun trào ở một khoảng cách gần như vậy mà vẫn không hề ảnh hưởng đến môi trường lạnh giá nơi đây. Ngay cả tàn tro nóng bỏng của núi lửa cũng không thể khiến mặt băng tan chảy.

Nhìn từ xa đã thấy, ở trên mặt băng mênh mông quả thực có một vòng xoáy, một vòng xoáy thẫm đen sáng lấp lánh. Đó là vòng xoáy băng do nước sông đen kịt đông cứng mà thành, nhô lên khỏi mặt băng. Không cao, song rõ là tạo hoá khéo léo, tinh xảo tuyệt luân.

Trong vòng xoáy băng chắc chắn phải hàm chứa một thứ năng lượng khác thường. Dưới tác động của thứ năng lượng này, không chỉ Lỗ Nhất Khí mà những người khác đều bắt đầu cảm thấy tức ngực đau đầu, toàn thân rời rã. Ngay cả bầy chó ngao và sói xanh cũng đã bắt đầu trở nên bứt rứt, hoảng loạn, vùng chạy tứ tung. Nguồn năng lượng bí hiểm toả ra từ xoáy băng tựa như lớp lớp sóng xô, đổ dồn về phía họ, gây nhiễu loạn tư duy, mê hoặc tinh thần, tê liệt giác quan của họ.

Trạng thái hôn mê của Lỗ Nhất Khí là nghiêm trọng nhất, song trạng thái này là mất đi một phần suy nghĩ hay là thu nạp thêm một tầng suy nghĩ khác, chỉ bản thân cậu mới biết được. Bước chân của cậu vẫn vô cùng kiên định, đi thẳng tới xoáy băng.

Bỗng nhiên, từ trong tro bụi và tuyết xốp chui ra một đám sinh vật chắn ngang đường đi của họ. Do cảm giác của mọi người đều đã suy giảm đáng kể, nên đến tận khi giáp mặt với chúng, họ mới phát hiện ra.

Đám sinh vật cản đường chính là một bầy sói mệt mỏi và một con gấu lớn cũng bơ phờ không kém. Phía sau bầy sói còn có một bóng người thương tích đầy mình đang ngồi thu lu, trong mắt chiếu ra những tia sáng còn thú tính hơn cả bầy chó sói. Kẻ này là ai? Chính là Thú Vương, kẻ thù của Lang Thiên Thanh.

Lạp Thần và Thú Vương là kẻ thù lâu năm, song thường lánh mặt nhau, giờ đây môn phái xảy ra đại sự, không thể khước từ, bởi vậy trước đó đã quyết chiến một trận dữ dội ở trong núi, khiến cả hai bên đều tổn thương nghiêm trọng.

Lạp Thần đứng hiên ngang ở trên cùng, xung quanh chỉ còn lại ba con chó ngao và hai con sói xanh, nhìn vào tư thế và khả năng chiến đấu, có thể thấy rằng năm con thú còn sót lại không kém thế bao nhiêu so với bầy sói và con gấu to xù của Thú Vương, lại xuất hiện một cục diện ngang sức ngang tài.

Lạp Thần ra hiệu cho Thuỷ Băng Hoa và lão mù đỡ Lỗ Nhất Khí đi vòng sang một bên, còn mình cầm chắc súng trong tay, ngậm dao săn trong miệng, tiếp tục đi về phía Thú Vương.

Thú Vương chỉ gầm khẽ một tiếng rồi lập tức xông lên, trong tay hắn nắm chặt một khẩu súng đầu hổ. Đây là kiểu súng ba đốt do Hoả Lưu đường thuộc Đông xưởng triều Minh chế ra, có thể bắn liên tiếp ba mũi đinh nanh sói.

Lạp Thần chẳng thèm kêu tiếng nào, vì trong miệng ông đang ngậm dao săn. Ông không thể đánh rơi lưỡi dao săn, bởi lẽ ông biết rõ trong ổ súng chỉ còn một viên đạn. Sau khi viên đạn duy nhất bắn ra, ông chỉ có thể dựa vào lưỡi dao để liều mạng.

Trong nháy mắt, bầy thú hoang của cả hai phe đang trong trạng thái uể oải bỗng trở nên hưng phấn lạ kỳ, tựa như là hồi quang phản chiếu.

Súng đầu hổ đã nổ vang. Súng trường cũng đã khai hoả. Tiếng gấu gầm rống, tiếng sói tru vang, tiếng chó ngao sủa loạn. Một bầy thú hoang xáp vào nhau cắn xé điên cuồng, tựa như sóng cuộn trên sông.

Tro bụi bay mù mịt, tuyết trắng văng tung toé, lông da tơi tả, máu huyết tứ tung. Trên bãi chiến trường hỗn loạn, chốc lát không còn tro bụi, không còn tuyết trắng, chỉ trơ ra một mặt băng rộng lớn trơn trượt. Trên lớp băng loang lổ những máu, dưới sự phản chiếu của mặt băng lạnh lẽo, càng thêm đỏ chói đến nhức mắt…

Lỗ Nhất Khí đã tới bên vòng xoáy băng. Cậu khép hờ hai mắt, tựa như đang ngủ.

Thuỷ Băng Hoa và lão mù đều mệt lử, toàn thân rệu rã, ngồi bệt xuống lớp tuyết dày. Còn Lỗ Nhất Khí vẫn đứng sừng sững ở đó như kẻ mất hồn, cơ thể hoàn toàn bất động.

Một lúc lâu sau, Lỗ Nhất Khí mới đưa tay ra, khẽ đặt lên trên xoáy băng, động tác nhẹ nhàng tựa như đang bắt mạch cho khuê nữ. Hơi lạnh từ xoáy băng truyền theo ngớn tay, bàn tay, cánh tay, vai, cổ, xông thẳng lên đỉnh đầu cậu, khiến cậu giật mình mở choàng hai mắt.

Trước mặt là vòng xoáy, một vòng xoáy do nước đóng băng kết thành. Trong vòng xoáy còn có một vòng xoáy nữa, là vòng xoáy do dòng nước đen ngòm tạo nên.

Vòng xoáy nước đen rất to và sâu, nặng nề và đặc quánh, tốc độ xoay chuyển cũng không nhanh, trông giống như sắp đông cứng đến nơi.

Lỗ Nhất Khí đã mở mắt, song lại không nhìn vào vòng xoáy, mà đang quan sát phía đối diện của vòng xoáy. Trong cơn mơ màng, cậu cảm giác một cách rất chân thực rằng nơi đó vừa mới xuất hiện một thứ vô cùng tuyệt diệu, đang toả ra một luồng khí linh động tràn trề. Cậu đã nhận ra, đó chính là thứ đã xuất hiện trong Ngũ trùng đăng nguyên hội, cũng từng thấp thoáng trong vùng rừng núi trập trùng khi cậu chạy khỏi Kim gia trại. Lúc này, làn khí toả ra từ nó càng tuôn trào mạnh mẽ, dường như để chống đỡ lại một thứ gì đó.

Cảm giác của cậu nhận ra làn khí, song đôi mắt cậu lại nhìn thấy một người. Rất khó nói đây là một người như thế nào. Nhìn vào cách ăn mặc thì thấy rất bình thường, song nhìn vào khí chất phong thái, lại thấy trong vẻ cao quý còn toát lên nét tiên phong đạo cốt. Cao quý là bẩm sinh, còn tiên phong đạo cốt cần phải rèn luyện nhiều năm mới có được.

Món đồ tuyệt diệu kia đang nằm trên lưng người này, không chỉ phát ra luồng khí linh động, mà còn thoang thoảng một mùi hương ngọt dịu. Hương thơm này vô cùng đặc biệt, ngửi qua một lần sẽ nhớ mãi không quên, chính là kỳ nam kiến mật[3].

Gỗ kỳ nam kiến mật không thể bào, gọt, không thể quét sơn, chỉ có thể nhờ vào ma sát trong quá trình sử dụng để lên nước tự nhiên, nếu không sẽ khiến vỏ nứt ruột mục.

Trên lưng người này đeo một chiếc hộp gỗ nam có hình cành cây, nhìn từ xa đã thấy mặt gỗ sáng bóng như ngọc. Có thể mài bóng đến độ trơn tru như ngọc thế kia, chắc chắn phải có hàng nghìn năm tuổi.

Phía sau người đeo hộp, còn có một người nữa khom lưng mà đi. Người này tuy lưng eo cong lên như cánh cung, song đầu vẫn vươn dài về phía trước, vẻ như một người gù bẩm sinh. Đôi mắt kẻ này đỏ vằn như máu, một tay cầm sợi dây đỏ, các ngón tay đang liên tục tết nút gỡ nút. Đầu còn lại của sợi dây được cắn thật chặt bên nửa hàm răng bên trái, nhìn qua hệt như dòng máu ứa ra từ khoé miệng. Người này đối lập hoàn toàn với người phía trước, khắp mình toả ra yêu khí dày đặc.

– Cậu làm rất tốt! – Người đeo hộp gỗ kỳ nam lên tiếng, giọng nói điềm đạm, tựa như đang trò chuyện với bạn tri giao.

– Thuận theo tự nhiên mà thôi! – Lỗ Nhất Khí không biết phải nói gì, song câu nói cứ như tự nhiên bật ra từ trí não. Đây có lẽ là nhờ công phu tự nhiên của Đạo gia chăng? Bởi vậy, trạng thái của cậu càng được thả lỏng tự nhiên hơn.

– Tôi biết cậu có lý do để tới đây! – Giọng nói vẫn rất điềm tĩnh.

– Còn tôi lại không rõ lắm, nhưng bây giờ thì tôi đã hiểu! – Câu trả lời còn tự nhiên hơn.

– Nơi này tôi đã tìm kiếm khá lâu rồi!

– Nên cũng muộn rồi?

– Chưa muộn! Cậu vẫn chưa ra tay.

– Muộn rồi, nếu không anh đã không để tôi tới đây!

– Thật khó tin, một vật bé nhỏ như vậy lại có thể định được hung huyệt!

– Tôi cũng không tin, song không thể không tin.

– Dựa vào cái gì? Cảm giác ư?

– Có lẽ vậy! Còn do các người ép tôi phải tin.

– Cậu thực sự muốn làm như vậy?

– Thuận theo tự nhiên thôi!

– Chúng ta hãy bàn bạc thêm!

– Đợi tôi làm xong đã rồi tính.

– Vậy thì thật đáng tiếc!

– Chưa chắc, có lẽ là may mắn.

Nói xong câu này, Lỗ Nhất Khí rút một thứ từ trong ngực áo ra.

– Nếu tôi đến cướp thì sao? – Giọng nói rất nhẹ nhàng, giống như đang thương lượng.

– Hung huyệt chặn đường, không biết hung hiểm đến đâu, trong lúc gấp rút chớ nên bước qua! – Lỗ Nhất Khí cũng nhẹ nhàng khuyên can, giống như đang ngăn cản một người bạn theo tiễn.

– Vậy thì phải giết chết cậu trước khi cậu ra tay! – Trong giọng nói đã có phần lạnh lẽo.

Lỗ Nhất Khí nở một nụ cười, bởi lẽ sự uy hiếp đã cho cậu hiểu rằng, mình sắp thắng.

– “Thứ được kỳ nam kiến mật phong kín thường là loại khí giới nghìn sát, khí giới xuất hiện, kinh thiên động địa, chém giết tất thành công”. – Lỗ Nhất Khí chợt nhớ tới một tờ rách rời tàn khuyết của cuốn “Thuợng cổ thần di khí giám”[4] có viết như vậy – Nhưng có điều anh giết tôi, anh cũng chưa chắc đã có được thứ này. Giết chết tôi, anh cũng không bao giờ có thể tìm ra các món thiên bảo còn lại. Tốt nhất hãy để mọi việc thuận theo tự nhiên. Trời làm chủ, người hành động, anh thông minh hơn tôi, có lời gì hãy để lần sau nói tiếp.

Người đối diện không nói thêm câu nào nữa, dù sao hắn cũng là người có đạo hạnh, có tu dưỡng. Chỉ có điều hắn dang suy nghĩ, đang cân nhắc, dường như hắn đã ý thức được bản thân trở nên kém thế ở điểm nào, cũng ý thức được suy nghĩ của mình có chỗ lệch lạc.

Thái độ của Lỗ Nhất Khí rất đỗi ung dung, ung dung tựa như những bông tuyết đang phiêu diêu giữa bầu không. Vào đúng lúc này, trên bầu trời u ám bỗng rắc xuống những bông tuyết xoay tròn, chao lượn qua trước mắt Lỗ Nhất Khí. Lỗ Nhất Khí nhìn theo một bông hoa tuyết, ánh mắt chăm chú kéo theo gò má, khoé môi, nở thành một nụ cười sáng bừng trên khuôn mặt. Cùng với cái mỉm cười, vật đang giữ trong tay nhẹ nhàng rơi vào vòng xoáy, tuy nhanh hơn nhiều so với tuyết rơi, song cũng tự nhiên y như vậy, tự nhiên như ánh sao băng thoáng lướt ngang trời.

Vào khoảnh khắc vật này rơi xuống, hai bóng người đối diện chợt rùng khẽ lên một thoáng, song chỉ là một thoáng. Tận mắt thấy món bảo bối đời đời kiếm tìm, ngày đêm mơ tưởng bị quăng xuống hung huyệt, sau này khó lòng còn thấy lại, mà vẫn có thể bình thản trấn tĩnh đến thế, quả là một định lực trên đời hiếm gặp.

Thứ vừa rơi vào vòng xoáy chính là miếng pha lê màu đen được rút ra từ bệ đặt hộp ngọc trong thạch thất. Sau khi dập dềnh mấy cái trong vòng xoáy, nó lập tức chìm nghỉm xuống phía dưới. Trong một khoảnh khắc, trên bề mặt miếng pha lê bỗng loé lên những tia sáng vàng kim. Ánh sáng rực rỡ đến chói loà, song thứ đang rực sáng không phải là bề mặt bóng bẩy của pha lê, mà chính là hình thù được tạo thành bởi những tia sáng vàng kim.

Những tia sáng vàng rực rỡ đã kết thành bốn chữ với tự dạng thuần phác cổ xưa: “Thạc dã lưu kim”[5].

Những con chữ vàng kim chỉ chớp lên một thoáng rồi biến mất, song đã vĩnh viễn khắc sâu trong trí não Lỗ Nhất Khí, đương nhiên cũng có thể đã vĩnh viễn đọng lại trong tâm trí những người khác nữa. Lỗ Nhất Khí ngẩng đầu lên nhìn người đối diện, người này cũng đang nhìn cậu. Bốn mắt giao nhau, dường như thần hồn giao tiếp, dường như tâm cảnh tương thông, tất cả đều chất chứa trong chỗ không lời.

Ngay sau khi nuốt trọn miếng pha lê đen, xoáy nước đột nhiên biến mất, mặt nước bỗng chốc phẳng lặng như gương. Dòng nước sông đen kịt nặng nề và đặc quánh, không có lấy một gợn sóng lăn tăn.

Bỗng vang lên một tràng tiếng nổ ầm ì, nghe như sấm xuân dậy đất, chỉ có điều tiếng sấm vọng đến từ dưới chân, trong khi dưới chân họ là mặt băng trên dòng sông lớn. Dòng sông phong kín băng dày thình lình vang tiếng nổ rền, khiến người ta không khỏi bàng hoàng kinh sợ.

Hai người đối diện đã đi rồi. Ngay khi tiếng sấm vừa vọng lên, họ đã ung dung rời bước.

Lỗ Nhất Khí không đi, thậm chí hai bàn chân cậu không hề xê dịch lấy một chút. Cậu đứng im lìm bất động, khí định thần nhàn, dường như quên bẫng cả những tiếng nổ rền như sấm dưới chân.

Đi được vài bước, người kia bỗng dừng lại, quay đầu nhìn Lỗ Nhất Khí, trong ánh mắt tràn đầy kinh ngạc và khâm phục, rồi khoé miệng khẽ mỉm cười, cất giọng điềm đạm bình hoà mà nói:

– Hẹn ngày gặp lại!

Lỗ Nhất Khí không nói, chỉ mỉm cười đáp lại, cho tới khi hai người đã khuất dạng sau làn gió tuyết. Những vết rạn nứt khúc khuỷu ngoằn ngoèo tràn lên mặt băng như một mạng nhện khổng lồ, không ngừng kéo dài lan rộng. Từ các vết nứt, nước sông đen thẫm trào lên, gợn ánh lân tinh lấp loáng, giống như dầu sánh, giống như vàng dát, khiến các vết nứt trông hệt như tia chớp, hệt như rắn vàng, hệt như rồng đen.

Băng trên mặt sông đã vỡ vụn, dòng sông đã thoát khỏi lớp băng khoá kín.

Nơi Lỗ Nhất Khí đang đứng là một tảng băng lớn đã bị vô số vết rạn nứt bủa vây ngang dọc, nó hoàn toàn có thể chịu được sức nặng của ba người Lỗ Nhất Khí, Thuỷ Băng Hoa và lão mù.

Những vết rạn nứt vẫn tiếp tục kéo dài. Mặt băng đã vỡ vụn thành vô số tảng băng trôi, bắt đầu di chuyển theo dòng nước chảy, chốc chốc lại va vào nhau phát ra những tiếng lách cách, khiến dòng sông lặng lẽ trong tiết giữa đông trở nên náo nhiệt lạ thường.

Trong “Tát Cáp Liên giang thuỷ chí”[6] có viết: “Đầu thời Dân Quốc, nước sông bất thường. Lập đông chưa lâu thì băng vỡ, song băng trôi không cản trở, nước đen không ngập, đường sông thông suốt”.

Dã sử dân gian truyền rằng: “Đầu thời Dân Quốc, Hắc Long Giang xuất hiện sự lạ, tiết Lập đông băng vỡ băng trôi, có bậc thế ngoại cao nhân đoán rằng, là điềm báo thiên hạ có biến, phân định biên cương, đánh đuổi hết giặc Mãn”.

Một tảng băng lớn từ từ trôi về phía hạ lưu. Lỗ Nhất Khí vẫn đứng sừng sững, ánh mắt nhìn miên man về phía xa xăm. Thuỷ Băng Hoa và lão mù ngồi bệt bên cạnh, đều đã mệt mỏi rã rời, rũ đầu im lặng.

Trên bờ đê ven sông, người đeo hộp gỗ rảo theo mấy bước về phía hạ lưu, song nhanh chóng dừng ngay lại, vẩy ống tay áo một cách khoan thai, rồi bình thản nhìn ba người Lỗ Nhất Khí trôi đi mỗi lúc một xa.

Người gù mắt đỏ bước lên nói:

– Chu thiếu chủ! Thổ bảo phía tây nam đã lần ra tung tích!

Chú thích

[1] Là một cực hình. Vào mùa đông, lột hết quần áo của người chịu hình vào cây cột rồi dội nước lên cho đông cứng thành băng.

[2] Tại chỗ lòng sông rẽ ngoặt thường xuất hiện xoáy nước rất xiết, lại do nước từ thượng lưu đổ tới sẽ khiến đáy sông nơi đó xuất hiện vực nước sâu.

[3] Một loại gỗ nam (gỗ lim) kỳ lạ, toả ra hương thơm ngọt ngào. Loài kiến mật thường làm tổ trên cây này. Loài kiến này thích ăn mật ong song lại không bị mật ong dính chặt, có sức khoẻ và khả năng gặm khoét cực lớn, nên nếu bị chúng sống ký sinh, gỗ nam sẽ không thể dùng được, chỉ một cây gỗ bằng cổ tay cũng đã có vô số tổ kiến, trong cả vạn gốc cây may ra mới có một gốc nguyên lành. Dùng nó để chế tác vật dụng sẽ có độ phong kín cực tốt, không chỉ che đậy được thi khí, âm khí, mà sát khí, huyết khí, độc khí đều có thể được che kín bên trong.

[4]Ban đầu có lẽ đây là một tác phẩm gồm cả chữ viết và tranh vẽ. Trong phần tàn khuyết của bản chép tay có câu: “Thiên sát khí xuất, sát tất thành” (vũ khí thiên sát xuất hiện, chém giết tất thành công).

[5] Theo truyền thuyết, sau khi Đại Vũ trị thuỷ thành công, đã phân chia đất đai theo tác dụng. Trong đó, loại đất phì nhiêu màu mỡ có thể trổng trọt cho thu hoạch tốt gọi là “lưu kim địa” (đất chảy vàng). “Thạc dã lưu kim” có nghĩa là ấn ngọc để phong trấn loại đất này.

[6] Một cuốn sách ghi chép về những biến động thuỷ văn của sông Tát Cáp Liên, cũng chính là sông Hắc Long Giang. Song rất hạn chế, vì dòng sông này rất dài, nên cuốn sách chỉ ghi chép lại những biến động thuỷ văn của một khúc sông. Song khá nhiều sự việc và hiện tượng bất thường đều có thể phản ánh tình trạng của toàn bộ lưu vực sông khi đó, hiện vẫn được dùng làm tư liệu tham khảo.

Hết Tập 3

Chọn tập
Bình luận