Bộ Bán Thốn bèn nói:
-Hãy nhìn kỹ những con thuyền kia, chúng không hề chòng chành chao đảo, trông y hệt như tranh cắt giấy!
Âu Tử quan sát đám thuyền đánh cá một lần nữa, và gã đã há hốc miệng, đứng nghệt ra. Đúng vậy, những con thuyền bí hiểm kia đi lại thẳng đơ, lặng phắc, ngay cả những ngọn đèn trên thuyền cũng không thấy mảy may rung động.
-Ảo ảnh thuyền! Thứ mà mọi người vừa nói là ảo ảnh thuyền! Có lẽ là cùng một nguyên lý với ảo ảnh người, ảo ảnh lạc đà ở quê tôi… – Lão mù nói tới đây, đột nhiên câm bặt. Lão cảm thấy dường như có rất nhiều ánh mắt đang đổ dồn về phía mình. Ngoài ánh mắt chăm chú của những người trên thuyền đang chờ đợi lão nói tiếp, còn có thêm một ánh mắt âm u vô hồn không rõ từ nơi nào chiếu tới, khiến lão lạnh buốt sống lưng.
o O o
Từ trên thuyền lớn chầm chậm thả xuống một chiếc làn buộc bằng sợi thừng gai vàng óng. Lỗ Nhất Khí nhìn thoáng qua đã nhận ra chiếc làn được đan bằng loại trúc phấn vàng xanh nhạt cực kỳ hiếm hoi chỉ mọc trong rừng đạm trúc vùng Chiết Đông, cách đan rất giống với lối đan “khám thờ mắt lưới trời tròn đất vuông” của Lỗ gia.
Trong làn đặt một chiếc chén tử sa được nung từ loại cao lanh đen ánh xanh, với kiểu tạo hình sáu viền cuốn một tay kẹp, chất liệu trơn tru bóng mịn tựa lưu ly. Trong chén đựng thứ trà xanh trong vắt như ngọc phỉ thuý thượng phẩm lấy từ mỏ đá lâu năm, hương thơm phảng phất thanh tao. Khi chiếc làn mới hạ xuống nửa chừng, Lỗ Nhất Khí đã có phần ngây ngất.
Lỗ Nhất Khí đang khát khô cổ, nên cậu không chút ngần ngừ, bưng luôn chén trà đưa lên trước mũi khẽ lắc một cái để thưởng hương, rồi khẽ nhấp môi một chút, đó là nếm vị. Cuối cùng, cậu uống liền một hơi hết chén trà, để nước trà thoải mái chảy từ cuống lưỡi tới cổ họng, đây gọi là tận hưởng.
Uống xong, Lỗ Nhất Khí mân mê chiếc chén trên bàn tay độc nhất một lát, rồi mới đặt trở lại trong làn, thong thả lên tiếng:
-Chỉ có trà Thanh Ô Long đầu sương cuối thu mới có được hương thơm này, có lẽ là mọc ở nơi khuất nắng nhiều sương, nên không có cảm giác khô chát xộc vào cổ họng. Cây trà không quá một thước, rễ bám đất bốn phần, bám đá sáu phần, nước trà mới trong vắt đến nhường này. Quan trọng nhất là trà này không sao, không lên men, mà được ủ trong tám tầng sa mỏng, nên màu sắc mới xanh biếc tựa phỉ thuý. Xin cho thêm một chén nữa!
Người áo xanh đã cười, cười một cách sảng khoái. Dưới gầm trời này, chuyện hiếm có nhất là đối thủ cũng chính là tri kỷ.
Vô số cao thủ trên bốn con thuyền xung quanh đang hết sức kinh ngạc và thán phục. Thần thái ung dung, phong độ khoáng đạt, kiến thức uyên bác của cậu thanh niên kia, hoàn toàn không thể có ở một kẻ giang hồ.
Lỗ Nhất Khí không biết người khác đang nghĩ gì, cậu chỉ biết rằng, đối thủ sẽ không và cũng không cần thiết phải hạ độc để lấy đi tính mạng của cậu. Bởi vậy, cậu đã ung dung uống cạn chén trà. Những lời cậu vừa nói tuy đều là những kiến giải sâu sắc về trà, song kỳ thực cậu chẳng phải là cao thủ thưởng trà gì cả. Chỉ là khi còn học ở Bắc Bình, cậu có một người bạn học là con của một trang trại trà lớn vào dạng hiếm có trong cả nước. Người bạn đó từng cho cậu mượn hai cuốn sách cổ viết về trà, là “Trà mật” và “Bách trà biện lạc”, bởi vậy cậu vẫn nhớ được dăm ba nội dung trong đó.
Làn đựng trà lại được thả xuống trước mặt Lỗ Nhất Khí. Lỗ Nhất Khí nở một nụ cười rất thành tâm với người mời trà, song lần này, khi nâng chén trà lên, cậu lại không uống, mà chỉ im lặng thưởng thức hương thơm lan toả.
Đến khi nụ cười đã nhạt dần, đã thu lại, cậu mới bắt đầu chậm rãi lên tiếng:
-Mới đó mà đã gặp lại rồi! – Vẻ mặt cậu lúc này đã điềm nhiên như nước.
Và người áo xanh cũng thốt lên gần như đồng thời với cậu:
-Đợi cậu lâu quá!
Nhưng cả hai người đều nghe rõ lời nói của đối phương, và họ lại cùng cười.
Lỗ Nhất Khí:
-Tâm cảnh bất an, thời gian dằng dặc.
Người áo xanh:
-Tuy đã chắc chắn, muốn nhanh khó được.
Lỗ Nhất Khí:
-Không dục không cầu, khí theo huyền đạo, hình theo tự nhiên, tự đạt thanh linh.
Người áo xanh:
-Không dục nhưng khó từ nhiệm vụ trời trao, không cầu nhưng phải gánh trọng trách của gia tộc. Mong được thấu hiểu!
Lỗ Nhất Khí:
-Đương nhiên thấu hiểu, nhưng cớ gì phải khổ?
Người áo xanh:
-Hít thở khí trời đất, tôi luyện thân tự nhiên, chỉ tiếc không tu nổi mệnh tiên thiên.
Lỗ Nhất Khí:
-Một cuộc đời, một giấc mơ, thiên hạ mấy người hiểu được sâu, nói được rõ?
Người áo xanh:
-Ta và cậu đều như nhau, khuyên ta hay là tự khuyên mình?
Lỗ Nhất Khí gượng cười:
-Tôi không giống ông, không thể thoái lui. Lui rồi, ông có theo không?
Người áo xanh vẫn giữ nguyên nụ cười từ khi nãy:
-Cậu nhường ta một thứ, ta nhường cậu đất trời, cớ sao không vui vẻ mà làm?
Vẻ mặt Lỗ Nhất Khí lại trở nên bình lặng:
-Nếu trời đất không dung, có thể vui được sao? Còn làm được gì nữa?
-Cân có chia trăm khắc, thước có vạch mười tấc. Ta và cậu hôm nay gặp mặt, cần phải nói chuyện phân chia.
-Khách sáo rồi! Cân hay thước đều trong tay ông, nặng nhẹ ngắn dài đều do ông quyết định.
-Để ta quyết định, cậu sẽ không vui.
-Ra giá bằng trời, trả tiền tại đất.
-Vậy ta để cậu vào trước một ngày, ta sẽ vào sau. Sau đó cùng thi thố tài năng, sống hay chết dựa vào sức mạnh, dựa vào số mệnh.
-Ba ngày!
-Hai ngày!
Khi người áo xanh nói ra hai chữ “hai ngày”, Lỗ Nhất Khí nhìn thấy trong mắt hắn loé lên một luồng sáng sắc lạnh tựa đao quang, biểu lộ sự kiên định tuyệt đối trước cái giá sau cùng. Nhưng luồng sáng này cũng đã làm rối loạn khí tướng trầm ổn tĩnh tại tuyệt đối của hắn. Cậu biết, trong cuộc giao tranh này, mình lại giành thế thượng phong.
-Thoả thuận đã xong… Có điều không cần các người phải áp giải bọn tôi đi. Hãy cho tôi bản đồ, rồi các người theo sau.
-Được! – Luồng hàn quang càng bừng lên mạnh mẽ.
-À, còn nữa, các người hãy cung cấp nước và lương thực cho bọn ta.
-Cũng được! – Trong ánh mắt lạnh lùng bắt đầu xen lẫn những tia rờn rợn.
-Còn nữa còn nữa! Hãy cho tôi một ít lá trà!
Luồng sáng sắc lạnh đột ngột vụt tắt, làn khí tướng đã bắt đầu rối loạn phần rìa ngoài lại được ngưng kết thành khối. Người áo xanh đã ý thức được rằng Lỗ Nhất Khí đang cố tình chọc giận hắn, gây nhiễu loạn trạng thái của hắn, bèn lập tức thu nhiếp nguyên khí.
Thuyền đi sóng dậy. Thuyền lớn đã dịch sang bên cạnh nhường đường. Con thuyền mũi sắt điềm nhiên lướt đi, mang theo một bức hải đồ cùng với nước và lương thực vừa được cung cấp.
Nhìn theo con thuyền mũi sắt lúc một xa dần, người áo xanh thở dài một tiếng nặng nề:
-Thật đáng tiếc vì cậu ta không phải là người của Chu môn ta! Thật đáng sợ vì cậu ta là địch thủ của Chu môn ta!
Con thuyền mũi sắt đi được một đoạn khá dài mới giương buồm tăng tốc. Mọi người đều đã trở lên boong thuyền. Bộ Bán Thốn vẫy tay gọi Sa Khẩu đến giúp hắn giữ bánh lái. Nếu là lúc bình thường, khi cần rời khỏi vị trí, hắn chỉ cần dùng dây chão thắt nút buộc bánh lái là xong, nhưng lúc này thì không thể. Thứ nhất, vì đang trong đêm tối mịt mùng, tầm nhìn không rõ; thứ hai, vì hiện tại hướng đi của thuyền là sườn đón sóng biển, dòng tạt mũi thuyền, nên kiểm soát khá khó khăn. Quan trọng nhất là sau cuộc đụng đầu với đối thủ lần này, hắn đã không còn yên tâm giao phó bánh lái cho một sợi dây chão vô tri nữa.
Bản đồ đường đi rất đơn giản. Điểm xuất phát là bãi đá ngầm Bách Biến. Cũng có điểm đến, song không thấy ghi tên. Giữa hai điểm này là một đường màu đỏ vòng vèo khúc khuỷu rất đậm nét, xung quanh có vài điểm đánh dấu khá nổi bật, còn lại đều là các đường phác hoạ lờ mờ.
Bộ Bán Thốn không nghiên cứu kỹ lưỡng vị trí và hướng đi của con thuyền, mà trực tiếp lần luôn đến điểm đích đã được đánh dấu. Đó là một vòng tròn xoe, một vòng tròn đỏ tươi như máu. Điều này đã đem lại cho Bộ Bán Thốn có một dự cảm chẳng lành: đích đến hẳn là một thuỷ vực hiểm ác mà hắn chưa bao giờ được nghe tên; hơn nữa, sau khi từ đó trở về, có lẽ cả đời này hắn cũng chẳng bao giờ dám nhắc lại.
Lỗ Nhất Khí chậm rãi bước lại gần, nhìn thấy Bộ Bán Thốn cứ nâng mãi tấm hải đồ trên tay nhìn trân trân một hồi lâu, bèn nói:
-Không cần phải xem kỹ! Trước mắt cứ đi xuống phía nam, khi gần tới nơi hãy xem kỹ rồi tiếp cận đến vị trí chính xác. Bây giờ anh hãy kể lại cho tôi biết, chúng ta đã thoát khỏi bãi đá và bị bao vây như thế nào. Trên thuyền chỉ có anh là biết rõ chuyện này.
Bộ Bán Thốn còn chưa kịp mở miệng, lão Xoa đã hấp tấp cướp lời:
-Để tôi nói! Thuỷ triều dải không đáng sợ, đáng sợ là sóng quay đầu. Vừa nãy, sau khi triều dải tràn qua bãi đá Bách Biến, chắc chắn đã đâm phải miệng phễu rồi, nên mới quay đầu làm thành thế cắt, mà lưỡi cắt vừa hay lại nhắm thẳng vào khe đá ngầm.
Dẫu rằng trong mấy tháng vừa qua, Lỗ Nhất Khí đã học được khá nhiều ẩn ngữ giang hồ, song hàng tràng những từ lóng của nghề đi biển thốt ra từ miệng lão Xoa, cậu nghe cứ mơ mơ hồ hồ như lạc trong biển sương mù.
Bộ Bán Thốn đập một cái vào bả vai lão Xoa, khiến lão ta câm bặt.
-Lỗ môn trưởng, là như thế này. Đường bờ biển ở nơi đó chắc chắn có hình tam giác hoặc hình cái đấu, cơn thuỷ triều hình dải sau khi đâm vào bờ liền quay đầu lại, biến thành hai con sóng cuộn bạc đầu đan chéo vào nhau. Thế nước thuỷ triều khi hai luồng sóng lớn đan xen là hung dữ nhất. Chúng tôi gọi dạng thuỷ triều quay đầu như vậy là triều lưỡi kéo. Triều lưỡi kéo nơi bãi đá quỷ lại càng khủng khiếp gấp bội so với triều lưỡi kéo thông thường. Hai con sóng bạc đầu dựng lên cao rồi cuộn xéo xuống dưới, đầu sóng vọt lên khác nào lưỡi dao vươn khỏi mặt nước. Đặc biệt hơn nữa là nó vừa hay lại đi qua đúng khe hở rộng rãi nhất trong đám đá ngầm.
-Vậy là do chúng ta kém may mắn thôi! – Lỗ Nhất Khí có ý an ủi Bộ Bán Thốn.
-Không phải! Lúc đầu tôi cũng cho là như vậy, nhưng đến khi con sóng cuộn đột nhiên biến thành bức tường nước, tôi mới phát hiện ra có điều bất ổn. Có thể triều lưỡi kéo quay đầu chỉ là ngẫu nhiên, có thể đường đi của triều lưỡi kéo chỉ là ngẫu nhiên, song sự biến hoá tiếp theo chắc chắn có bàn tay của con người can thiệp.
-Lại có người điều khiển được cả thuỷ triều ư?
-Không phải là điều khiển, mà là lợi dụng. Ngoại trừ dòng biển theo mùa, thời tiết thay đổi, bằng không thuỷ triều rất hiếm khi biến đổi. Bởi vậy, đối thủ chắc chắn từ sớm đã nắm bắt được hiện tượng thuỷ triều dải quay đầu biến thành triều lưỡi kéo nơi đây. Chắc hẳn chúng đã thay đổi cục diện của bãi đá ngầm, cho nổ tung những tảng đá cản đường, để triều lưỡi kéo có thể chạy thẳng qua khe hở giữa bãi đá. Sau đó, bọn chúng lại tiến hành sửa sang những tảng đá ngầm ẩn dưới mặt nước, khiến cho nơi đó lúc bình thường trông có vẻ sóng yên gió lặng, nhưng thuỷ triều vừa tới, lập tức khuấy đảo đất trời.
-Tại sao ngươi lại khẳng định đó là do con người tạo tác mà không phải là do thiên tạo? – Lão mù hỏi.
-Bởi vì ngọn thuỷ triều ngọn hoắt như dao của triều lưỡi kéo đột nhiên bị cục thế “trâu đứng rẽ nước” làm cho biến đổi. Có lẽ mọi người đã từng nghe thấy cục thế “trâu nằm định thuỷ”? Rất nhiều nơi, khi tu sửa đường sông, thường chôn một hai con trâu nằm bằng đồng xanh ở ngã ba sông, nguyên nhân vì trâu nằm có hình dáng suôn thuận, khi dòng nước chảy qua, có thể dẫn dòng thông ứ. Còn cục thế “trâu đứng” ở đây có tác dụng hoàn toàn ngược lại, nó tương đương với cục thứ ba mươi sáu “phá phong thành chướng”[15] trong Kỳ môn Độn giáp.
-Một ngọn đổ vỡ thành nghìn trùng chướng! – Lỗ Nhất Khí có biết cục thế này.
-Thấy con thuyền sắp mất kiểm soát mà đâm thẳng vào đá ngầm, tôi đã hoàn toàn tuyệt vọng. Song đúng vào thời khắc ngàn cân treo sợi tóc đó, dưới chân tảng đá ngầm trước mặt bỗng xuất hiện một vòng xoáy, trông có vẻ hơi giống với cách xây đình cuối hành lang được chép trong “Ban kinh”, gọi là “cờ cuốn mây bay”. Tôi còn chưa kịp nhìn xem bên dưới được bài trí ra sao, con thuyền đã chui tọt qua một kẽ đá ngầm chật hẹp bên cạnh, phóng vụt ra mặt biển phía ngoài. Khi thuyền ổn định trở lại, đã thấy bị mắc kẹt giữa bốn con thuyền to lớn.
-Ồ, thì ra là như vậy. Xem ra hôm nay chúng ta có chạy kiểu gì cũng không thể thoát khỏi sự truy đuổi của chúng. Nếu không đạt được thoả thuận với tôi, chúng sẽ tuyệt đối không bỏ cuộc. Nhưng tại sao đối phương lại biết được thời gian và đường đi của chúng ta nhỉ? – Lỗ Nhất Khí lẩm bẩm như tự nhủ với chính mình. Song người nói vô tình, người nghe lại hữu ý, lời vừa thốt ra, tất cả mọi người đều tim đập như trống, bắt đầu lục soát trí nhớ xem bản thân có lúc nào sơ hở để lộ thông tin hay không.
-Đúng rồi, Lỗ môn trưởng, tôi đang muốn hỏi cậu, vụ trao đổi giữa hai người khi nãy là có ý gì? – Lão Xoa vẫn không bỏ được thói quen muốn hỏi cho ra nhẽ.
-Ông không biết ư? – Lời nói của Lỗ Nhất Khí không hề có mảy may chế giễu hay kiêu ngạo, vì ngữ khí của cậu vẫn điềm nhiên không chút thay đổi – Là tìm bảo bối! Để tôi đi tìm trước, hai ngày nữa họ sẽ xuất phát đuổi theo sau.
-Thế thì bọn chúng quả là đại ngốc! Hai ngày? Không sợ chúng ta tìm ra trước hay sao? – Âu Tử nói rồi cười hềnh hệch.
-Người biết vận dụng đủ loại khảm nút kỳ quái khó lường để tóm gọn cả đám cao thủ biển khơi như các vị đây lại có thể là kẻ ngốc được ư? Nếu có thể tìm ra bảo bối, chúng đã khai quật từ lâu rồi, chẳng việc gì phải thoả thuận với tôi cho mất công. Thời gian hai ngày kỳ thực chỉ là một sợi dây trói, nhằm dắt mũi bọn ta giúp chúng dẹp chướng ngại mở đường đi. Hơn nữa tôi cảm thấy đối phương vẫn chưa thể hoàn toàn yên tâm về chúng ta, chắc chắn sẽ bố trí thêm nhiều nút lẫy khác để theo dõi. Thế nào gọi là dựa vào sức mạnh dựa vào số mệnh? Có nghĩa là cho dù chúng ta có tìm ra trước, chúng vẫn sẽ ra tay cướp đoạt.
-Mẹ nó chứ, đúng là rỗi hơi! Trong tình thế khi nãy, kiểu gì chẳng phải nghe chúng sắp xếp, lại còn đặt điều tử tế ra điều kiện trao đổi này nọ, đúng là vớ vẩn hết sức. Bọn này không phải phường ngu độn cũng là đầu óc cán mai!
-Chúng không thể, cũng không dám!
-Tại sao? – Lão Xoa vừa hiếu kỳ vừa kinh ngạc.
-Vì có tôi! – Trong giọng nói điềm tĩnh rất mực của Lỗ Nhất Khí toát lên một uy thế vô hình. Nói dứt câu, cậu không thốt thêm lời nào nữa, mà đi thẳng xuống khoang thuyền.
Con thuyền mũi sắt lặng lẽ thẳng tiến về phía nam. Đối phương rất giữ lời, không còn thấy xuất hiện cỗ chiến thuyền kiểu nhà Minh nào nữa. Song Bộ Bán Thốn vẫn thường xuyên đứng thần ra ở đuôi thuyền. Hắn luôn có cảm giác thuyền của đối phương sẽ thình lình xuất hiện bất cứ lúc nào tại một nơi hoàn toàn không ngờ tới.
Lỗ Nhất Khí có vẻ rất bất thường, suốt ngày ru rú dưới khoang thuyền, như ngủ mà không phải ngủ, cũng không mở lời trò chuyện với ai. Không ai hiểu nổi cậu đang làm gì, đang nghĩ gì.
Nửa đêm hôm đó, cậu lẳng lặng leo lên boong, đứng cạnh vị trí lái thuyền của Bộ Bán Thốn, bộ dạng như kẻ mộng du, vẻ mặt thẫn thờ, nhìn trân trân vào Bộ Bán Thốn. Hồi lâu sau, cậu mới hỏi khẽ một câu, âm sắc mơ màng, song rõ ràng từng tiếng một:
-Trong tấm hải đồ của đối phương, có địa danh nào xuất hiện các chữ “phúc”, “lang”, “bãi” không?
Bộ Bán Thốn ngẫm nghĩ một lát rồi đáp:
-Không có!
-Không thể! Sao lại như thế được? Sao lại như thế được?… – Lỗ Nhất Khí vừa lảm nhảm trong miệng, vừa quay trở xuống khoang thuyền.
Bộ Bán Thốn cảm thấy vô cùng quái lạ, trong lòng dấy lên chút lo âu. Chẳng lẽ vị môn trưởng trẻ tuổi của Lỗ gia lại bị ma ám?
Họ đã rong ruổi hơn một tháng trời trên biển cả. Dưới ánh mặt trời loa loá, những tấm áo bông đã trở nên nóng nực. Tuy gió bắc vẫn quất như roi, song đã không còn lạnh lẽo như trước. Có lẽ do mùa xuân sắp tới, cũng có lẽ là do họ đang xuôi xuống phương nam. Con thuyền thuận buồm xuôi gió thẳng tiến, không biết hải trình đã được bao xa, cũng không biết là đã tới vùng biển nào. Chỉ có Bộ Bán Thốn biết rõ, bởi lẽ hải đồ ở trong tay hắn. Nhưng hắn không nói, mà mọi người cũng không hỏi.
Lỗ Nhất Khí ngày càng trở nên kỳ quặc. Ngoài những lúc ăn uống vệ sinh, hầu như suốt ngày chỉ ngủ li bì. Song cậu có vẻ không lúc nào được ngủ ngon giấc, vừa chợp mắt là gặp ác mộng, toàn thân co giật, vẻ rất khiếp sợ. Thuỷ Băng Hoa ôm lấy cậu, vỗ về cậu cũng vô ích. Bàn tay cậu thường luồn vào trong ngực áo, nơi đó có cất tấm thẻ ngọc được tìm thấy cùng với “Cơ xảo tập”. Mấy hôm nay, cậu đang cố gắng nghiền ngẫm một hàng chữ trên tấm thẻ ngọc, song quả là hết sức khó khăn. Chỉ miễn cưỡng nhận ra được một chữ “Ly”, cũng nhờ một ký hiệu kỳ quái ngay trước chữ này có hình thù na ná hào tượng của quẻ Ly nên cậu mới suy đoán ra được. Quẻ Ly trong Chính Bát quái tượng trưng cho phương nam, nhưng trong Tiên thiên Âm dương Bát quái lại ngầm chỉ phương đông.
Thứ không thấy được bằng mắt, đôi khi lại có thể hiển hiện thông qua con đường khác. Cũng giống với đàn bà, chỉ nhìn thôi vẫn không bằng tận tay khám phá. Lỗ Nhất Khí cả ngày mơ mơ màng màng, không lúc nào rời tay khỏi dãy ký hiệu khó đoán khó hiểu bên cạnh hào tượng của quẻ Ly. Cậu bắt đầu liên tục nói mê, nhưng chỉ lặp đi lặp lại có mấy chữ “phúc”, “lang”, “bãi”.
Những ngày tiếp theo, cậu không còn luồn tay vào trong ngực nữa, cũng không còn lặp đi lặp lại ba con chữ kia, mà cứ lảm nhảm mãi một câu vô nghĩa:
-Tới rồi, sắp quá rồi! Tới rồi, quá rồi!
Đến vài bữa gần đây, cậu không hé răng lấy nửa lời, ngay cả một hơi thở mạnh cũng không thấy, chỉ vùi đầu ngủ mê mệt.
Mọi người trên thuyền đều vô cùng lo lắng. Thiếu đi trụ cột, chẳng ai biết bước tiếp theo phải làm thế nào. Chỉ còn Bộ Bán Thốn vẫn đủ bình tĩnh để duy trì hướng đi của con thuyền đúng như đường chỉ dẫn trong tấm bản đồ. Kỳ thực trong lòng hắn cũng đang rối như canh hẹ, không biết phải làm thế nào, không biết nên đi nhanh hay đi chậm. Nếu đi nhanh, liệu trước khi tới nơi cần đến, Lỗ Nhất Khí có kịp thời hồi phục hay không? Nếu trên đường bỏ lỡ thứ gì thì thực nguy to. Nếu đi chậm, chẳng lẽ lại lãng phí thời gian hai ngày mà đối phương đã nhường cho vào việc đi đường?
Đã sắp tới điểm đích được khoanh trên bản đồ, Bộ Bán Thốn vẫn chưa phát hiện thấy thứ gì liên quan tới những chữ mà Lỗ Nhất Khí từng lảm nhảm. Hắn vẫn luôn nghĩ rằng, vị môn trưởng trẻ tuổi của Lỗ gia tuyệt đối không phải hạng tầm thường, mỗi lời cậu nói ra đều có vài phần đạo lý. Song phóng mắt nhìn quanh, chỉ thấy mặt biển mênh mông bất tận, thứ duy nhất thay đổi chính là mặt trời lặn mọc, thi thoảng mới có một bóng hải âu vụt qua. Về sau, đến cả chim hải âu cũng không thấy tăm hơi đâu nữa.
Nói thực, Bộ Bán Thốn chưa bao giờ phải lái thuyền vượt một hải trình xa xôi đến vậy. Ước tính theo cự ly đánh dấu trên bản đồ, con thuyền của họ chí ít đã đi được vài nghìn dặm, hải vực phía trước đã thuộc khu vực biển xa. Đối với một hải trình xa xôi như vậy, con thuyền của họ tỏ ra quá nhỏ bé và cũ kỹ. May mà nó được chế tạo bởi thợ mộc Lỗ gia, nên kiên cố khác thường; hơn nữa tuy tuổi thuyền khá cao, song lại ít khi sử dụng, mỗi năm ba lần bảo dưỡng bằng dầu trẩu, nên mới có thể trụ vững trước sóng biển gió khơi. Đương nhiên, suốt đường đi không gặp phải sóng to gió lớn cũng là một chuyện vô cùng may mắn.
Trong suốt những ngày qua, Bộ Bán Thốn luôn kiên quyết tự mình cầm lái, rất hiếm khi nhờ người khác giữ hộ. Nếu như bình thường, hắn chỉ cần nhìn vào hướng gió mùa, hướng dòng biển và vị trí của mặt trời, mặt trăng và sao trời, đã dễ dàng xác định được phương hướng. Song lần này, hắn đã cẩn thận lôi từ đáy hòm ra một chiếc la bàn kiểu cách cổ xưa song trông còn rất mới, chốc chốc lại liếc nhìn, chú ý tới từng thay đổi dù là rất nhỏ bé trên mặt la bàn. Cũng không biết chiếc la bàn đã bỏ xó nhiều năm có hỏng hóc gì không, mà sau khi đối chiếu với vị trí sao trời, hắn phát hiện thấy kim chỉ la bàn không thực chuẩn xác, có vẻ như hơi lệch về phía đông.
Lại thêm một buổi hoàng hôn đỏ loang phía chân trời, mặt biển thẫm xanh đã nhuộm đỏ bầm như máu.
Sa Khẩu từ trong khoang thuyền chui ra, nhìn về phía mặt trời đang lặn, nụ cười Di Lặc trên khuôn mặt hắn cứng đờ như miễn cưỡng.
Bộ Bán Thốn nhìn Sa Khẩu, thuận miệng hỏi một câu như thường lệ:
-Vẫn thế à?
-Không! Hôm nay còn mê lú nặng hơn, cả ngày nhắm mắt lảm nhảm, hai bữa chẳng ăn gì! – Trong lời nói của Sa Khẩu lộ rõ vẻ lo âu thực sự.
Bộ Bán Thốn lại thở dài một tiếng, rồi tiếp tục phóng mắt nhìn ra mặt biển mênh mông, vẻ mặt vô cảm. Con thuyền vẫn lượt đi không nhanh không chậm.
Lão Xoa đứng cạnh đang bận rộn việc gì đó. Lão chỉ dừng tay một lát khi nghe Sa Khẩu thông báo về tình trạng của Lỗ Nhất Khí. Một con thuyền bé tí thế này thì có việc quái gì mà phải bận rộn luôn tay như vậy? Quanh đi quẩn lại cũng chỉ là kiểm tra vài sợi dây chão và mớ ngư cụ. Song vẫn có hai người từ đầu chí cuối luôn theo dõi sát sao mọi hành động của lão ta, đó là Bộ Bán Thốn và lão mù. Họ phát hiện thấy ngày nào lão Xoa cũng thu dọn mớ dụng cụ sơ sài kia đến tận ba lần, thu dọn xong lại ngồi tẩn mẩn chế tạo vài món đồ lễ đơn giản. Nói chung là lão ta không chịu ngồi yên lấy một chốc, dường như muốn dùng cách này để giải toả điều gì.
Chú thích
[15] Có nghĩa là phá đỉnh núi thành chướng ngại vật.
Bộ Bán Thốn bèn nói:
-Hãy nhìn kỹ những con thuyền kia, chúng không hề chòng chành chao đảo, trông y hệt như tranh cắt giấy!
Âu Tử quan sát đám thuyền đánh cá một lần nữa, và gã đã há hốc miệng, đứng nghệt ra. Đúng vậy, những con thuyền bí hiểm kia đi lại thẳng đơ, lặng phắc, ngay cả những ngọn đèn trên thuyền cũng không thấy mảy may rung động.
-Ảo ảnh thuyền! Thứ mà mọi người vừa nói là ảo ảnh thuyền! Có lẽ là cùng một nguyên lý với ảo ảnh người, ảo ảnh lạc đà ở quê tôi… – Lão mù nói tới đây, đột nhiên câm bặt. Lão cảm thấy dường như có rất nhiều ánh mắt đang đổ dồn về phía mình. Ngoài ánh mắt chăm chú của những người trên thuyền đang chờ đợi lão nói tiếp, còn có thêm một ánh mắt âm u vô hồn không rõ từ nơi nào chiếu tới, khiến lão lạnh buốt sống lưng.
o O o
Từ trên thuyền lớn chầm chậm thả xuống một chiếc làn buộc bằng sợi thừng gai vàng óng. Lỗ Nhất Khí nhìn thoáng qua đã nhận ra chiếc làn được đan bằng loại trúc phấn vàng xanh nhạt cực kỳ hiếm hoi chỉ mọc trong rừng đạm trúc vùng Chiết Đông, cách đan rất giống với lối đan “khám thờ mắt lưới trời tròn đất vuông” của Lỗ gia.
Trong làn đặt một chiếc chén tử sa được nung từ loại cao lanh đen ánh xanh, với kiểu tạo hình sáu viền cuốn một tay kẹp, chất liệu trơn tru bóng mịn tựa lưu ly. Trong chén đựng thứ trà xanh trong vắt như ngọc phỉ thuý thượng phẩm lấy từ mỏ đá lâu năm, hương thơm phảng phất thanh tao. Khi chiếc làn mới hạ xuống nửa chừng, Lỗ Nhất Khí đã có phần ngây ngất.
Lỗ Nhất Khí đang khát khô cổ, nên cậu không chút ngần ngừ, bưng luôn chén trà đưa lên trước mũi khẽ lắc một cái để thưởng hương, rồi khẽ nhấp môi một chút, đó là nếm vị. Cuối cùng, cậu uống liền một hơi hết chén trà, để nước trà thoải mái chảy từ cuống lưỡi tới cổ họng, đây gọi là tận hưởng.
Uống xong, Lỗ Nhất Khí mân mê chiếc chén trên bàn tay độc nhất một lát, rồi mới đặt trở lại trong làn, thong thả lên tiếng:
-Chỉ có trà Thanh Ô Long đầu sương cuối thu mới có được hương thơm này, có lẽ là mọc ở nơi khuất nắng nhiều sương, nên không có cảm giác khô chát xộc vào cổ họng. Cây trà không quá một thước, rễ bám đất bốn phần, bám đá sáu phần, nước trà mới trong vắt đến nhường này. Quan trọng nhất là trà này không sao, không lên men, mà được ủ trong tám tầng sa mỏng, nên màu sắc mới xanh biếc tựa phỉ thuý. Xin cho thêm một chén nữa!
Người áo xanh đã cười, cười một cách sảng khoái. Dưới gầm trời này, chuyện hiếm có nhất là đối thủ cũng chính là tri kỷ.
Vô số cao thủ trên bốn con thuyền xung quanh đang hết sức kinh ngạc và thán phục. Thần thái ung dung, phong độ khoáng đạt, kiến thức uyên bác của cậu thanh niên kia, hoàn toàn không thể có ở một kẻ giang hồ.
Lỗ Nhất Khí không biết người khác đang nghĩ gì, cậu chỉ biết rằng, đối thủ sẽ không và cũng không cần thiết phải hạ độc để lấy đi tính mạng của cậu. Bởi vậy, cậu đã ung dung uống cạn chén trà. Những lời cậu vừa nói tuy đều là những kiến giải sâu sắc về trà, song kỳ thực cậu chẳng phải là cao thủ thưởng trà gì cả. Chỉ là khi còn học ở Bắc Bình, cậu có một người bạn học là con của một trang trại trà lớn vào dạng hiếm có trong cả nước. Người bạn đó từng cho cậu mượn hai cuốn sách cổ viết về trà, là “Trà mật” và “Bách trà biện lạc”, bởi vậy cậu vẫn nhớ được dăm ba nội dung trong đó.
Làn đựng trà lại được thả xuống trước mặt Lỗ Nhất Khí. Lỗ Nhất Khí nở một nụ cười rất thành tâm với người mời trà, song lần này, khi nâng chén trà lên, cậu lại không uống, mà chỉ im lặng thưởng thức hương thơm lan toả.
Đến khi nụ cười đã nhạt dần, đã thu lại, cậu mới bắt đầu chậm rãi lên tiếng:
-Mới đó mà đã gặp lại rồi! – Vẻ mặt cậu lúc này đã điềm nhiên như nước.
Và người áo xanh cũng thốt lên gần như đồng thời với cậu:
-Đợi cậu lâu quá!
Nhưng cả hai người đều nghe rõ lời nói của đối phương, và họ lại cùng cười.
Lỗ Nhất Khí:
-Tâm cảnh bất an, thời gian dằng dặc.
Người áo xanh:
-Tuy đã chắc chắn, muốn nhanh khó được.
Lỗ Nhất Khí:
-Không dục không cầu, khí theo huyền đạo, hình theo tự nhiên, tự đạt thanh linh.
Người áo xanh:
-Không dục nhưng khó từ nhiệm vụ trời trao, không cầu nhưng phải gánh trọng trách của gia tộc. Mong được thấu hiểu!
Lỗ Nhất Khí:
-Đương nhiên thấu hiểu, nhưng cớ gì phải khổ?
Người áo xanh:
-Hít thở khí trời đất, tôi luyện thân tự nhiên, chỉ tiếc không tu nổi mệnh tiên thiên.
Lỗ Nhất Khí:
-Một cuộc đời, một giấc mơ, thiên hạ mấy người hiểu được sâu, nói được rõ?
Người áo xanh:
-Ta và cậu đều như nhau, khuyên ta hay là tự khuyên mình?
Lỗ Nhất Khí gượng cười:
-Tôi không giống ông, không thể thoái lui. Lui rồi, ông có theo không?
Người áo xanh vẫn giữ nguyên nụ cười từ khi nãy:
-Cậu nhường ta một thứ, ta nhường cậu đất trời, cớ sao không vui vẻ mà làm?
Vẻ mặt Lỗ Nhất Khí lại trở nên bình lặng:
-Nếu trời đất không dung, có thể vui được sao? Còn làm được gì nữa?
-Cân có chia trăm khắc, thước có vạch mười tấc. Ta và cậu hôm nay gặp mặt, cần phải nói chuyện phân chia.
-Khách sáo rồi! Cân hay thước đều trong tay ông, nặng nhẹ ngắn dài đều do ông quyết định.
-Để ta quyết định, cậu sẽ không vui.
-Ra giá bằng trời, trả tiền tại đất.
-Vậy ta để cậu vào trước một ngày, ta sẽ vào sau. Sau đó cùng thi thố tài năng, sống hay chết dựa vào sức mạnh, dựa vào số mệnh.
-Ba ngày!
-Hai ngày!
Khi người áo xanh nói ra hai chữ “hai ngày”, Lỗ Nhất Khí nhìn thấy trong mắt hắn loé lên một luồng sáng sắc lạnh tựa đao quang, biểu lộ sự kiên định tuyệt đối trước cái giá sau cùng. Nhưng luồng sáng này cũng đã làm rối loạn khí tướng trầm ổn tĩnh tại tuyệt đối của hắn. Cậu biết, trong cuộc giao tranh này, mình lại giành thế thượng phong.
-Thoả thuận đã xong… Có điều không cần các người phải áp giải bọn tôi đi. Hãy cho tôi bản đồ, rồi các người theo sau.
-Được! – Luồng hàn quang càng bừng lên mạnh mẽ.
-À, còn nữa, các người hãy cung cấp nước và lương thực cho bọn ta.
-Cũng được! – Trong ánh mắt lạnh lùng bắt đầu xen lẫn những tia rờn rợn.
-Còn nữa còn nữa! Hãy cho tôi một ít lá trà!
Luồng sáng sắc lạnh đột ngột vụt tắt, làn khí tướng đã bắt đầu rối loạn phần rìa ngoài lại được ngưng kết thành khối. Người áo xanh đã ý thức được rằng Lỗ Nhất Khí đang cố tình chọc giận hắn, gây nhiễu loạn trạng thái của hắn, bèn lập tức thu nhiếp nguyên khí.
Thuyền đi sóng dậy. Thuyền lớn đã dịch sang bên cạnh nhường đường. Con thuyền mũi sắt điềm nhiên lướt đi, mang theo một bức hải đồ cùng với nước và lương thực vừa được cung cấp.
Nhìn theo con thuyền mũi sắt lúc một xa dần, người áo xanh thở dài một tiếng nặng nề:
-Thật đáng tiếc vì cậu ta không phải là người của Chu môn ta! Thật đáng sợ vì cậu ta là địch thủ của Chu môn ta!
Con thuyền mũi sắt đi được một đoạn khá dài mới giương buồm tăng tốc. Mọi người đều đã trở lên boong thuyền. Bộ Bán Thốn vẫy tay gọi Sa Khẩu đến giúp hắn giữ bánh lái. Nếu là lúc bình thường, khi cần rời khỏi vị trí, hắn chỉ cần dùng dây chão thắt nút buộc bánh lái là xong, nhưng lúc này thì không thể. Thứ nhất, vì đang trong đêm tối mịt mùng, tầm nhìn không rõ; thứ hai, vì hiện tại hướng đi của thuyền là sườn đón sóng biển, dòng tạt mũi thuyền, nên kiểm soát khá khó khăn. Quan trọng nhất là sau cuộc đụng đầu với đối thủ lần này, hắn đã không còn yên tâm giao phó bánh lái cho một sợi dây chão vô tri nữa.
Bản đồ đường đi rất đơn giản. Điểm xuất phát là bãi đá ngầm Bách Biến. Cũng có điểm đến, song không thấy ghi tên. Giữa hai điểm này là một đường màu đỏ vòng vèo khúc khuỷu rất đậm nét, xung quanh có vài điểm đánh dấu khá nổi bật, còn lại đều là các đường phác hoạ lờ mờ.
Bộ Bán Thốn không nghiên cứu kỹ lưỡng vị trí và hướng đi của con thuyền, mà trực tiếp lần luôn đến điểm đích đã được đánh dấu. Đó là một vòng tròn xoe, một vòng tròn đỏ tươi như máu. Điều này đã đem lại cho Bộ Bán Thốn có một dự cảm chẳng lành: đích đến hẳn là một thuỷ vực hiểm ác mà hắn chưa bao giờ được nghe tên; hơn nữa, sau khi từ đó trở về, có lẽ cả đời này hắn cũng chẳng bao giờ dám nhắc lại.
Lỗ Nhất Khí chậm rãi bước lại gần, nhìn thấy Bộ Bán Thốn cứ nâng mãi tấm hải đồ trên tay nhìn trân trân một hồi lâu, bèn nói:
-Không cần phải xem kỹ! Trước mắt cứ đi xuống phía nam, khi gần tới nơi hãy xem kỹ rồi tiếp cận đến vị trí chính xác. Bây giờ anh hãy kể lại cho tôi biết, chúng ta đã thoát khỏi bãi đá và bị bao vây như thế nào. Trên thuyền chỉ có anh là biết rõ chuyện này.
Bộ Bán Thốn còn chưa kịp mở miệng, lão Xoa đã hấp tấp cướp lời:
-Để tôi nói! Thuỷ triều dải không đáng sợ, đáng sợ là sóng quay đầu. Vừa nãy, sau khi triều dải tràn qua bãi đá Bách Biến, chắc chắn đã đâm phải miệng phễu rồi, nên mới quay đầu làm thành thế cắt, mà lưỡi cắt vừa hay lại nhắm thẳng vào khe đá ngầm.
Dẫu rằng trong mấy tháng vừa qua, Lỗ Nhất Khí đã học được khá nhiều ẩn ngữ giang hồ, song hàng tràng những từ lóng của nghề đi biển thốt ra từ miệng lão Xoa, cậu nghe cứ mơ mơ hồ hồ như lạc trong biển sương mù.
Bộ Bán Thốn đập một cái vào bả vai lão Xoa, khiến lão ta câm bặt.
-Lỗ môn trưởng, là như thế này. Đường bờ biển ở nơi đó chắc chắn có hình tam giác hoặc hình cái đấu, cơn thuỷ triều hình dải sau khi đâm vào bờ liền quay đầu lại, biến thành hai con sóng cuộn bạc đầu đan chéo vào nhau. Thế nước thuỷ triều khi hai luồng sóng lớn đan xen là hung dữ nhất. Chúng tôi gọi dạng thuỷ triều quay đầu như vậy là triều lưỡi kéo. Triều lưỡi kéo nơi bãi đá quỷ lại càng khủng khiếp gấp bội so với triều lưỡi kéo thông thường. Hai con sóng bạc đầu dựng lên cao rồi cuộn xéo xuống dưới, đầu sóng vọt lên khác nào lưỡi dao vươn khỏi mặt nước. Đặc biệt hơn nữa là nó vừa hay lại đi qua đúng khe hở rộng rãi nhất trong đám đá ngầm.
-Vậy là do chúng ta kém may mắn thôi! – Lỗ Nhất Khí có ý an ủi Bộ Bán Thốn.
-Không phải! Lúc đầu tôi cũng cho là như vậy, nhưng đến khi con sóng cuộn đột nhiên biến thành bức tường nước, tôi mới phát hiện ra có điều bất ổn. Có thể triều lưỡi kéo quay đầu chỉ là ngẫu nhiên, có thể đường đi của triều lưỡi kéo chỉ là ngẫu nhiên, song sự biến hoá tiếp theo chắc chắn có bàn tay của con người can thiệp.
-Lại có người điều khiển được cả thuỷ triều ư?
-Không phải là điều khiển, mà là lợi dụng. Ngoại trừ dòng biển theo mùa, thời tiết thay đổi, bằng không thuỷ triều rất hiếm khi biến đổi. Bởi vậy, đối thủ chắc chắn từ sớm đã nắm bắt được hiện tượng thuỷ triều dải quay đầu biến thành triều lưỡi kéo nơi đây. Chắc hẳn chúng đã thay đổi cục diện của bãi đá ngầm, cho nổ tung những tảng đá cản đường, để triều lưỡi kéo có thể chạy thẳng qua khe hở giữa bãi đá. Sau đó, bọn chúng lại tiến hành sửa sang những tảng đá ngầm ẩn dưới mặt nước, khiến cho nơi đó lúc bình thường trông có vẻ sóng yên gió lặng, nhưng thuỷ triều vừa tới, lập tức khuấy đảo đất trời.
-Tại sao ngươi lại khẳng định đó là do con người tạo tác mà không phải là do thiên tạo? – Lão mù hỏi.
-Bởi vì ngọn thuỷ triều ngọn hoắt như dao của triều lưỡi kéo đột nhiên bị cục thế “trâu đứng rẽ nước” làm cho biến đổi. Có lẽ mọi người đã từng nghe thấy cục thế “trâu nằm định thuỷ”? Rất nhiều nơi, khi tu sửa đường sông, thường chôn một hai con trâu nằm bằng đồng xanh ở ngã ba sông, nguyên nhân vì trâu nằm có hình dáng suôn thuận, khi dòng nước chảy qua, có thể dẫn dòng thông ứ. Còn cục thế “trâu đứng” ở đây có tác dụng hoàn toàn ngược lại, nó tương đương với cục thứ ba mươi sáu “phá phong thành chướng”[15] trong Kỳ môn Độn giáp.
-Một ngọn đổ vỡ thành nghìn trùng chướng! – Lỗ Nhất Khí có biết cục thế này.
-Thấy con thuyền sắp mất kiểm soát mà đâm thẳng vào đá ngầm, tôi đã hoàn toàn tuyệt vọng. Song đúng vào thời khắc ngàn cân treo sợi tóc đó, dưới chân tảng đá ngầm trước mặt bỗng xuất hiện một vòng xoáy, trông có vẻ hơi giống với cách xây đình cuối hành lang được chép trong “Ban kinh”, gọi là “cờ cuốn mây bay”. Tôi còn chưa kịp nhìn xem bên dưới được bài trí ra sao, con thuyền đã chui tọt qua một kẽ đá ngầm chật hẹp bên cạnh, phóng vụt ra mặt biển phía ngoài. Khi thuyền ổn định trở lại, đã thấy bị mắc kẹt giữa bốn con thuyền to lớn.
-Ồ, thì ra là như vậy. Xem ra hôm nay chúng ta có chạy kiểu gì cũng không thể thoát khỏi sự truy đuổi của chúng. Nếu không đạt được thoả thuận với tôi, chúng sẽ tuyệt đối không bỏ cuộc. Nhưng tại sao đối phương lại biết được thời gian và đường đi của chúng ta nhỉ? – Lỗ Nhất Khí lẩm bẩm như tự nhủ với chính mình. Song người nói vô tình, người nghe lại hữu ý, lời vừa thốt ra, tất cả mọi người đều tim đập như trống, bắt đầu lục soát trí nhớ xem bản thân có lúc nào sơ hở để lộ thông tin hay không.
-Đúng rồi, Lỗ môn trưởng, tôi đang muốn hỏi cậu, vụ trao đổi giữa hai người khi nãy là có ý gì? – Lão Xoa vẫn không bỏ được thói quen muốn hỏi cho ra nhẽ.
-Ông không biết ư? – Lời nói của Lỗ Nhất Khí không hề có mảy may chế giễu hay kiêu ngạo, vì ngữ khí của cậu vẫn điềm nhiên không chút thay đổi – Là tìm bảo bối! Để tôi đi tìm trước, hai ngày nữa họ sẽ xuất phát đuổi theo sau.
-Thế thì bọn chúng quả là đại ngốc! Hai ngày? Không sợ chúng ta tìm ra trước hay sao? – Âu Tử nói rồi cười hềnh hệch.
-Người biết vận dụng đủ loại khảm nút kỳ quái khó lường để tóm gọn cả đám cao thủ biển khơi như các vị đây lại có thể là kẻ ngốc được ư? Nếu có thể tìm ra bảo bối, chúng đã khai quật từ lâu rồi, chẳng việc gì phải thoả thuận với tôi cho mất công. Thời gian hai ngày kỳ thực chỉ là một sợi dây trói, nhằm dắt mũi bọn ta giúp chúng dẹp chướng ngại mở đường đi. Hơn nữa tôi cảm thấy đối phương vẫn chưa thể hoàn toàn yên tâm về chúng ta, chắc chắn sẽ bố trí thêm nhiều nút lẫy khác để theo dõi. Thế nào gọi là dựa vào sức mạnh dựa vào số mệnh? Có nghĩa là cho dù chúng ta có tìm ra trước, chúng vẫn sẽ ra tay cướp đoạt.
-Mẹ nó chứ, đúng là rỗi hơi! Trong tình thế khi nãy, kiểu gì chẳng phải nghe chúng sắp xếp, lại còn đặt điều tử tế ra điều kiện trao đổi này nọ, đúng là vớ vẩn hết sức. Bọn này không phải phường ngu độn cũng là đầu óc cán mai!
-Chúng không thể, cũng không dám!
-Tại sao? – Lão Xoa vừa hiếu kỳ vừa kinh ngạc.
-Vì có tôi! – Trong giọng nói điềm tĩnh rất mực của Lỗ Nhất Khí toát lên một uy thế vô hình. Nói dứt câu, cậu không thốt thêm lời nào nữa, mà đi thẳng xuống khoang thuyền.
Con thuyền mũi sắt lặng lẽ thẳng tiến về phía nam. Đối phương rất giữ lời, không còn thấy xuất hiện cỗ chiến thuyền kiểu nhà Minh nào nữa. Song Bộ Bán Thốn vẫn thường xuyên đứng thần ra ở đuôi thuyền. Hắn luôn có cảm giác thuyền của đối phương sẽ thình lình xuất hiện bất cứ lúc nào tại một nơi hoàn toàn không ngờ tới.
Lỗ Nhất Khí có vẻ rất bất thường, suốt ngày ru rú dưới khoang thuyền, như ngủ mà không phải ngủ, cũng không mở lời trò chuyện với ai. Không ai hiểu nổi cậu đang làm gì, đang nghĩ gì.
Nửa đêm hôm đó, cậu lẳng lặng leo lên boong, đứng cạnh vị trí lái thuyền của Bộ Bán Thốn, bộ dạng như kẻ mộng du, vẻ mặt thẫn thờ, nhìn trân trân vào Bộ Bán Thốn. Hồi lâu sau, cậu mới hỏi khẽ một câu, âm sắc mơ màng, song rõ ràng từng tiếng một:
-Trong tấm hải đồ của đối phương, có địa danh nào xuất hiện các chữ “phúc”, “lang”, “bãi” không?
Bộ Bán Thốn ngẫm nghĩ một lát rồi đáp:
-Không có!
-Không thể! Sao lại như thế được? Sao lại như thế được?… – Lỗ Nhất Khí vừa lảm nhảm trong miệng, vừa quay trở xuống khoang thuyền.
Bộ Bán Thốn cảm thấy vô cùng quái lạ, trong lòng dấy lên chút lo âu. Chẳng lẽ vị môn trưởng trẻ tuổi của Lỗ gia lại bị ma ám?
Họ đã rong ruổi hơn một tháng trời trên biển cả. Dưới ánh mặt trời loa loá, những tấm áo bông đã trở nên nóng nực. Tuy gió bắc vẫn quất như roi, song đã không còn lạnh lẽo như trước. Có lẽ do mùa xuân sắp tới, cũng có lẽ là do họ đang xuôi xuống phương nam. Con thuyền thuận buồm xuôi gió thẳng tiến, không biết hải trình đã được bao xa, cũng không biết là đã tới vùng biển nào. Chỉ có Bộ Bán Thốn biết rõ, bởi lẽ hải đồ ở trong tay hắn. Nhưng hắn không nói, mà mọi người cũng không hỏi.
Lỗ Nhất Khí ngày càng trở nên kỳ quặc. Ngoài những lúc ăn uống vệ sinh, hầu như suốt ngày chỉ ngủ li bì. Song cậu có vẻ không lúc nào được ngủ ngon giấc, vừa chợp mắt là gặp ác mộng, toàn thân co giật, vẻ rất khiếp sợ. Thuỷ Băng Hoa ôm lấy cậu, vỗ về cậu cũng vô ích. Bàn tay cậu thường luồn vào trong ngực áo, nơi đó có cất tấm thẻ ngọc được tìm thấy cùng với “Cơ xảo tập”. Mấy hôm nay, cậu đang cố gắng nghiền ngẫm một hàng chữ trên tấm thẻ ngọc, song quả là hết sức khó khăn. Chỉ miễn cưỡng nhận ra được một chữ “Ly”, cũng nhờ một ký hiệu kỳ quái ngay trước chữ này có hình thù na ná hào tượng của quẻ Ly nên cậu mới suy đoán ra được. Quẻ Ly trong Chính Bát quái tượng trưng cho phương nam, nhưng trong Tiên thiên Âm dương Bát quái lại ngầm chỉ phương đông.
Thứ không thấy được bằng mắt, đôi khi lại có thể hiển hiện thông qua con đường khác. Cũng giống với đàn bà, chỉ nhìn thôi vẫn không bằng tận tay khám phá. Lỗ Nhất Khí cả ngày mơ mơ màng màng, không lúc nào rời tay khỏi dãy ký hiệu khó đoán khó hiểu bên cạnh hào tượng của quẻ Ly. Cậu bắt đầu liên tục nói mê, nhưng chỉ lặp đi lặp lại có mấy chữ “phúc”, “lang”, “bãi”.
Những ngày tiếp theo, cậu không còn luồn tay vào trong ngực nữa, cũng không còn lặp đi lặp lại ba con chữ kia, mà cứ lảm nhảm mãi một câu vô nghĩa:
-Tới rồi, sắp quá rồi! Tới rồi, quá rồi!
Đến vài bữa gần đây, cậu không hé răng lấy nửa lời, ngay cả một hơi thở mạnh cũng không thấy, chỉ vùi đầu ngủ mê mệt.
Mọi người trên thuyền đều vô cùng lo lắng. Thiếu đi trụ cột, chẳng ai biết bước tiếp theo phải làm thế nào. Chỉ còn Bộ Bán Thốn vẫn đủ bình tĩnh để duy trì hướng đi của con thuyền đúng như đường chỉ dẫn trong tấm bản đồ. Kỳ thực trong lòng hắn cũng đang rối như canh hẹ, không biết phải làm thế nào, không biết nên đi nhanh hay đi chậm. Nếu đi nhanh, liệu trước khi tới nơi cần đến, Lỗ Nhất Khí có kịp thời hồi phục hay không? Nếu trên đường bỏ lỡ thứ gì thì thực nguy to. Nếu đi chậm, chẳng lẽ lại lãng phí thời gian hai ngày mà đối phương đã nhường cho vào việc đi đường?
Đã sắp tới điểm đích được khoanh trên bản đồ, Bộ Bán Thốn vẫn chưa phát hiện thấy thứ gì liên quan tới những chữ mà Lỗ Nhất Khí từng lảm nhảm. Hắn vẫn luôn nghĩ rằng, vị môn trưởng trẻ tuổi của Lỗ gia tuyệt đối không phải hạng tầm thường, mỗi lời cậu nói ra đều có vài phần đạo lý. Song phóng mắt nhìn quanh, chỉ thấy mặt biển mênh mông bất tận, thứ duy nhất thay đổi chính là mặt trời lặn mọc, thi thoảng mới có một bóng hải âu vụt qua. Về sau, đến cả chim hải âu cũng không thấy tăm hơi đâu nữa.
Nói thực, Bộ Bán Thốn chưa bao giờ phải lái thuyền vượt một hải trình xa xôi đến vậy. Ước tính theo cự ly đánh dấu trên bản đồ, con thuyền của họ chí ít đã đi được vài nghìn dặm, hải vực phía trước đã thuộc khu vực biển xa. Đối với một hải trình xa xôi như vậy, con thuyền của họ tỏ ra quá nhỏ bé và cũ kỹ. May mà nó được chế tạo bởi thợ mộc Lỗ gia, nên kiên cố khác thường; hơn nữa tuy tuổi thuyền khá cao, song lại ít khi sử dụng, mỗi năm ba lần bảo dưỡng bằng dầu trẩu, nên mới có thể trụ vững trước sóng biển gió khơi. Đương nhiên, suốt đường đi không gặp phải sóng to gió lớn cũng là một chuyện vô cùng may mắn.
Trong suốt những ngày qua, Bộ Bán Thốn luôn kiên quyết tự mình cầm lái, rất hiếm khi nhờ người khác giữ hộ. Nếu như bình thường, hắn chỉ cần nhìn vào hướng gió mùa, hướng dòng biển và vị trí của mặt trời, mặt trăng và sao trời, đã dễ dàng xác định được phương hướng. Song lần này, hắn đã cẩn thận lôi từ đáy hòm ra một chiếc la bàn kiểu cách cổ xưa song trông còn rất mới, chốc chốc lại liếc nhìn, chú ý tới từng thay đổi dù là rất nhỏ bé trên mặt la bàn. Cũng không biết chiếc la bàn đã bỏ xó nhiều năm có hỏng hóc gì không, mà sau khi đối chiếu với vị trí sao trời, hắn phát hiện thấy kim chỉ la bàn không thực chuẩn xác, có vẻ như hơi lệch về phía đông.
Lại thêm một buổi hoàng hôn đỏ loang phía chân trời, mặt biển thẫm xanh đã nhuộm đỏ bầm như máu.
Sa Khẩu từ trong khoang thuyền chui ra, nhìn về phía mặt trời đang lặn, nụ cười Di Lặc trên khuôn mặt hắn cứng đờ như miễn cưỡng.
Bộ Bán Thốn nhìn Sa Khẩu, thuận miệng hỏi một câu như thường lệ:
-Vẫn thế à?
-Không! Hôm nay còn mê lú nặng hơn, cả ngày nhắm mắt lảm nhảm, hai bữa chẳng ăn gì! – Trong lời nói của Sa Khẩu lộ rõ vẻ lo âu thực sự.
Bộ Bán Thốn lại thở dài một tiếng, rồi tiếp tục phóng mắt nhìn ra mặt biển mênh mông, vẻ mặt vô cảm. Con thuyền vẫn lượt đi không nhanh không chậm.
Lão Xoa đứng cạnh đang bận rộn việc gì đó. Lão chỉ dừng tay một lát khi nghe Sa Khẩu thông báo về tình trạng của Lỗ Nhất Khí. Một con thuyền bé tí thế này thì có việc quái gì mà phải bận rộn luôn tay như vậy? Quanh đi quẩn lại cũng chỉ là kiểm tra vài sợi dây chão và mớ ngư cụ. Song vẫn có hai người từ đầu chí cuối luôn theo dõi sát sao mọi hành động của lão ta, đó là Bộ Bán Thốn và lão mù. Họ phát hiện thấy ngày nào lão Xoa cũng thu dọn mớ dụng cụ sơ sài kia đến tận ba lần, thu dọn xong lại ngồi tẩn mẩn chế tạo vài món đồ lễ đơn giản. Nói chung là lão ta không chịu ngồi yên lấy một chốc, dường như muốn dùng cách này để giải toả điều gì.
Chú thích
[15] Có nghĩa là phá đỉnh núi thành chướng ngại vật.