Chính vào lúc Lỗ Nhất Khí đang âm thầm suy nghĩ, đột nhiên xuất hiện một luồng sát khí cực kỳ sắc bén từ phía tháp trắng chầm chậm tiến lại, mang lại một thứ cảm giác giống như đao sắc cứa vào da thịt. Trong quá trình di chuyển, luồng khí lúc đi lúc dừng, rẽ ngoặt quanh co, có vẻ như đang giải khảm mà tới.
Lỗ Nhất Khí không nói gì, chỉ ngoái đầu liếc nhìn Phật sống. Sắc mặt Phật sống hết sức đăm chiêu. Đúng vậy, phía trước có Báo Cơ cản đường, phía sau có Chu Chân Mệnh âm thầm theo dõi, bây giờ lại thình lình mọc ra một luồng sát khí sắc bén rợn người. Trong tình cảnh thế này, Phật sống không những phải tự bảo vệ mình, mà còn phải che chắn cho Lỗ Nhất Khí vừa mới bị thương, dù có Phật Tổ hay thần tiên ở đây, cũng khó tránh khỏi lo lắng.
– Con đường duy nhất chỉ có thể là xông qua chỗ Báo Cơ nương nương, lên Thiên Thê trước khi quân chi viện tới kịp! – Lỗ Nhất Khí lẩm bẩm như tự nhủ với bản thân.
Phật sống đã tin lời Lỗ Nhất Khí. Trong mắt ông ta, Lỗ Nhất Khí là một cao thủ tuyệt đỉnh tinh thông Phật lý, dùng tâm ngự địch, có cậu sát cánh bên ông ta, thì việc xông qua cửa ải của Báo Cơ nương nương hẳn cũng là việc dễ dàng.
Thế là Phật sống xốc Lỗ Nhất Khí lên, đi thẳng về phía trước. Nhìn thấy Phật sống dứt khoát lao lên, Báo Cơ nương nương quát lên như sấm:
– Phật gia, nếu nhất quyết xông lên, chớ trách tôi vô tình!
Lời vừa dứt, trên vách đá bỗng vang lên một tràng những tiếng “lắc rắc”. Lỗ Nhất Khí thoạt nghe đã biết là tiếng chốt lẫy kéo căng. Bức bích hoạ rất rộng, phạm vi của nó bao trùm phần lớn đoạn đường từ hành lang bên ngoài tháp trắng đến phía dưới đám bậc thang đá của dãy núi Thiên Thế. Bởi vậy, phạm vi sát thương của khảm diện này cũng vô cùng rộng lớn. Chỉ cần đặt chân lên con đường phía trước bức bích hoạ, chắc chắn bọn họ sẽ hết đường.
Sau khi phát ra một tràng những âm thanh quái dị, bức bích hoạ sắc màu rực rỡ đã xuất hiện một vài biến hoá rất vi tế, mỗi một biến hoá đều tương đương với sự tồn tại của một loại nút giết hoặc nút vây.
Lỗ Nhất Khí chú ý tới từng mảy may biến hoá. Nguyên lý của “Cơ xảo tập” và “Ban kinh” đã dung hội quán thông trong trí não, tầm hiểu biết về khảm nút của cậu cũng đã đạt đến cảnh giới thượng thừa. Nhìn vào những biến hoá, Lỗ Nhất Khí có thể khẳng định có cả thảy trên mười lăm loại nút lẫy trên tấm bích hoạ. Trong mảng bích hoạ ngay trước mặt cậu có ba loại là Lưới quăng tám chân, Gông khớp nhanh hai hình và Kẹp lông nhím. Sang phía tây lần lượt là các nút Vòng ráng mây, Cắt chữ điền, Mâu xuyên tim chín chín vào một, Chụp máu theo gió…; sang phía đông lần lượt là các nút Cóc trời phun vàng, Toà chạm đất, Bút mộng sinh hoa… Còn có hai chỗ Lỗ Nhất Khí phát hiện ra chốt lẫy, song không biết được là loại nút gì, bởi lẽ chỉ có một đầu ống thò ra, đoán rằng không phải là nước độc, nước ăn mòn, cũng là loại khói hun, sương độc.
Hai người Lỗ Nhất Khí không cần phải suy xét tới đám nút lẫy phía đông, bởi vì bậc đá Thiên Thê nằm ở phía tây nơi họ đang đứng. Số nút ở đoạn này lại nhiều hơn hẳn phía đông, khoảng trên dưới mười loại.
Trong nghề khảm tử từ cổ chí kim, không ai có thể liên tục vượt qua nhiều cơ quan cạm bẫy đến như vậy. Theo ghi chép trong sách vở, người từng liên tục vượt qua được nhiều khảm nút nhất chính là kỳ nhân khảm tử thời Đường Mặc Phi Yên, đây là một kỳ nữ trong Mặc môn, cả đời chuyên nghiên cứu về nguyên lý khảm nút. Khi bà sáu mươi ba tuổi, một mình xông vào luỹ Thính Thiên của An Lộc Sơn, liên tiếp vượt qua sáu khảm trong sảnh Bố Chiến ở tầng thứ hai của luỹ, nhưng cuối cùng vẫn phải bỏ mạng trong khảm Cửa sập hình búa chém mười lần. Còn một người nữa là Cẩm Mao Thử Bạch Ngọc Đường thời Tống, trước khi rơi vào khảm diện “lưới chuông bắt sẻ” ở lầu Tiêu Dao rồi bị mưa tên bắn chết, ông đã liên tiếp vượt qua năm khảm, sau đó lại né qua được nút “đao hoa sen” ở cửa lưới của Lưới chuông bắt sẻ, được tính là vượt qua được năm khảm rưỡi. Hai người này được xem là “Hắc Bạch song thành” trong nghề khảm tử, được khảm tử gia đời sau coi là đỉnh cao không dễ vượt qua.
Mà lúc này, có tới hơn mười nút chết liên tục, việc liều mạng xông qua gần như là không thể. Vì người thiết kế khảm diện đã suy xét tới tính liên tục của khảm nút, lực sát thương của nút lẫy phía sau sẽ nhắm vào những chỗ sơ hở có thể lợi dụng của nút lẫy phía trước nó.
– Phật sống, những khảm nút này ngài có thể tránh được không? – Lỗ Nhất Khí hy vọng có thể nghe được lời khẳng định từ Phật sống.
– Khảm nút nào? – Phật sống có vẻ ngơ ngác.
– Chính là những cạm bẫy, ám khí trên bức bích hoạ kia! – Lỗ Nhất Khí e rằng Phật sống không hiểu ý nghĩa của từ khảm nút.
– Hả? Trên vách kia có ám khí? – Thì ra Phật sống hoàn toàn mù tịt về khảm nút.
Luồng sát khí sắc lạnh như dao cắt đã băng qua tháp trắng. Lỗ Nhất Khí đã nhận ra, làn khí tướng tương tự như thế này từng xuất hiện ở Nam Lĩnh, Viêm Hoá Lôi nói đó là sát thủ với tên gọi người đao mười sáu lưỡi.
Ở đoạn cuối hành lang vòng quanh tháp, thi khí cuồn cuộn, ma khí lan tràn. Hẳn là Hạ Táo Hoa và Dưỡng Quỷ Tỳ đang phải vật lộn quyết liệt với một cao thủ rất đáng gờm. Nhìn vào làn thi khí và ma khí, biết rằng bọn họ đã phải phát huy công lực tới cực điểm.
Phía Chu Chân Mệnh vẫn không có động tĩnh gì. Hắn đang chờ đợi cơ hội thích hợp nhất, hiệu quả nhất.
Khảm nút đã lên sẵn chốt lẫy của Báo Cơ nương nương đều dùng bùa chú ánh sáng “bóng theo hình” để khởi động. Lúc này, dù hai người Lỗ Nhất Khí di chuyển sang phía nào, chỉ cần thân hình dịch chuyển, khiến cho ánh sáng thay đổi, bùa chú sẽ lập tức khởi động. Bùa chú khởi động, sẽ sinh ra lực vô hình, như nảy, rung, lắc, kéo theo chốt lẫy hoạt động.
Không có viện trợ. Phật sống không thể trợ giúp. Đối thủ đã ép sát đến nơi. Chỉ có thể dựa vào bản thân. Không! Cần phải dựa vào sự liên thủ giữa mình và Phật sống. Lỗ Nhất Khí đang cấp tập quét mắt quan sát, trí não xoay chuyển như bay.
Những thứ cần nhìn đều đã nhìn thấy, những thứ cần nhớ đều đã nhớ kỹ, những thứ cần tính toán cũng đã tính toán xong. Biện pháp phá giải đã hình thành trong đầu. Bước tiếp theo chính là cần thực hiện một cách chính xác và chuẩn xác.
– Tôi nói “đi” thì đi, nói “lên” thì nhảy thẳng lên, nói “nhảy” thì nhảy về phía trước, nói “dừng” thì dừng lại, nói “phục” thì chúi người xuống! – Lỗ Nhất Khí nói với Phật sống với nét mặt hết sức nghiêm trọng. Chỉ có thống nhất các khẩu lệnh với Phật sống, mới có thể xông lên phía trước đúng với yêu cầu và mục đích đã định.
Phật sống chỉ khẽ gật đầu, song ánh mắt và nét mặt tràn đầy vẻ kiên định và tin tưởng.
Tín hiệu và hành động đã thống nhất, một vấn đề then chốt nữa chính là phải kiểm soát chính xác vị trí và cự ly hành động. Trong khảm diện với nhiều nút lẫy bố trí liên tiếp, chỉ cần bước chệch nửa bàn chân cũng sẽ mất mạng ngay lập tức. Bởi vậy, cần phải có một phương pháp xác định vị trí cự ly mà Lỗ Nhất Khí và Phật sống đều thông thạo.
Phương pháp xác định vị trí, cự ly thường dùng nhất là phương vị Bát quái. Song Phật sống chuyên nghiên cứu về Phật học Mật Tông Tây Tạng, nên không hiểu gì về lý số Đạo gia của Trung Nguyên. Lỗ Nhất Khí chợt nhớ tới một điển tích của Phật giáo Mật Tông có tên là “Tạng Phật thất luân thích thân”. Trong sách có nói rằng, trong cơ thể con người có bảy luân xa, trong đó có một luân xa nằm ở bên ngoài cơ thể, gọi là luân xa Phạn huyệt. Sáu luân xa còn lại nằm bên trong cơ thể, lần lượt là luân xa đỉnh đầu, luân xa trán, luân xa họng, luân xa tim, luân xa rốn và luân xa hải để. Bảy luân xa được bắt đầu từ luân xa Phạn huyệt bên ngoài cơ thể, khoảng cách giữa các luân xa dài ngắn khác nhau. Có lẽ Phật sống sẽ thông thạo phương pháp xác định vị trí, cự ly kiểu này.
– Bước đi căn cứ theo cự ly giữa bảy luân xa của tượng Phật ngồi chín trượng, trước khi bước đi hãy nghe tôi nói rõ vị trí! – Lỗ Nhất Khí muốn tiến hành xác định vị trí dựa theo cự ly giữa bảy luân xa của pho tượng Phật ngồi cao chín trượng.
Phật sống lại dứt khoát gật đầu. Cách xác định cự ly này đối với ông ta dễ như trở bàn tay.
Lỗ Nhất Khí cảm hấy hơi khó khăn khi rút khẩu pạc-hoọc ra. Bàn tay phải đã đứt cụt, chỉ có thể dùng tay trái bóp cò, song vừa rồi đầu gậy của lão mù đã xuyên thủng bả vai trái của cậu.
Cánh tay trái không thể nhấc lên được nữa, bởi vậy chỉ có thể gập khuỷu tay lại để nâng khẩu pạc-hoọc lên ngang tầm thắt lưng.
– “Pằng!”
Phát súng đầu tiên chỉ là tìm ra điểm định vị. Có được điểm định vị, mới có thể tìm được cảm giác chính xác.
Thở khẽ hít sâu, tụ khí ngưng thần, để thân tâm đều thuận theo tự nhiên. Trong cảm giác của Lỗ Nhất Khí đã không còn cái tôi nữa, xác thịt như đã hoà tan vào trong không khí. Trong khoảnh khắc đó, khí thế của cậu bừng bừng tuôn chảy, như mây toả ngang trời, như nước tràn dưới suối, rực rỡ như ánh nắng phía trời đông. Khí tướng vừa bừng lên, đám cao thủ phía Chu gia thảy đều bàng hoàng sửng sốt. Ngay cả Chu Chân Mệnh đã từng nhìn thấy khí tướng của Lỗ Nhất Khí cũng phải kinh ngạc trong lòng. Mới vài ngày không gặp, nguồn năng lượng tiềm ẩn trong khí tướng của gã thanh niên kia đã lớn mạnh gấp mấy lần, bừng lên một cảm giác choáng ngợp không thể chống cự.
Vị trí của tất cả các chốt lẫy dây bật và hình thức hoạt động của chúng được rà soát lại một lượt trong trí não Lỗ Nhất Khí. Tất cả chúng đã hình thành nên một bức tranh trong ý thức của cậu. Trong cảm giác, bức tranh đó đang được kéo lại gần, rất gần, gần tới mức cậu chỉ cần đưa tay ra là chạm tới.
– Đi! Luân xa tim! – Lỗ Nhất Khí thốt lên khe khẽ.
Lời còn chưa dứt, thân hình Phật sống đã lập tức di chuyển, dẫn theo cậu lao thẳng tới vị trí luân xa tim của pho tượng Phật ngồi cao chín trượng.
Phật sống và Lỗ Nhất Khí vừa di chuyển, chốt lẫy phía bên kia lập tức khởi động. Trước hết là nút Kẹp lông nhím phía trước mặt, song lẫy của nó chỉ bung một nửa rồi mắc kẹp, bởi vì khi vừa bật ra chữ “đi”, Lỗ Nhất Khí đã nổ súng. Viên đạn găm trúng chốt chính của Kẹp lông nhím, khiến tấm chống của chốt chính mắc kẹt vào cần răng, nên nút không thể tiếp tục vận hành.
Phát súng thứ hai bắn trúng dây lẫy treo của Mâu xuyên tim chín chín vào một ẩn trong khe đá. Súng nổ lẫy đứt, dây lẫy của toàn bộ nút khảm đều được nhả hoàn toàn, không một cây mâu xuyên tim nào bay ra.
– Dừng! – Lỗ Nhất Khí lại kêu lớn. Tiếng kêu vừa bật ra khỏi miệng, Lỗ Nhất Khí lại giương súng bắn trúng chốt gạt của Cắt chữ điền. Chốt lẫy của nút này hoạt động theo cách gạt nghiêng sang một bên, từ góc độ và vị trí của Lỗ Nhất Khí, không có cách nào khiến chốt lẫy nhả dây xả lực, nên Lỗ Nhất Khí đã bắn vào chốt gạt, như vậy có thể khiến nút lẫy hoạt động trước. Lỗ Nhất Khí yêu cầu Phật sống dừng lại, chính là muốn lợi dụng khoảng thời gian chênh lệch để né tránh khung cắt hình chữ điền bắn ra đầu tiên.
– Nhảy! Luân xa hải để! – Lỗ Nhất Khí lại hô lên.
Phật sống nghe tiếng mà động, thân hình nhảy vọt đi theo trình tự bắn của khung cắt chữ điền. Khi các khung cắt phóng ra hết, họ cũng vừa tới nơi.
Song vừa tới nơi, thì nút tiếp theo là “vòng ráng mây” được xếp chồng lên nút này vừa hay lại hoạt động. Chớp mắt, vô số vòng thép dẹt với phần lưỡi mài sắc lẹm ào ào phóng ra như mây toả. Mà lần này, hai người họ đang ở chính giữa phạm vi của nút lẫy, không có chỗ né tránh.
– Phục! – Lỗ Nhất Khí nằm sấp xuống tránh, khẩu súng trong tay cũng nhả đạn liên hồi.
Đạn tới tấp bay thẳng tới những vòng thép sắc lẹm, song số đạn trong ổ súng lại ít ỏi hơn rất nhiều so với đám vòng thép đang ào ào lao tới. Mặt khác nếu bắn hết đạn, những nút lẫy tiếp theo sẽ không thể đi qua. Nên Lỗ Nhất Khí chỉ bắn năm phát đạn, mỗi phát đều được bắn theo góc độ vô cùng xảo diệu, vòng bay bị bắn trúng lập tức đổi hướng đâm vào vòng thép liền kề, vòng thép này lại va phải vòng thép khác. Bởi vậy, tuy chỉ có năm phát đạn, song số vòng bay bị bắn đi lại nhiều hơn gấp bốn năm lần. Bởi vậy trong đám vòng tuôn ra ào ạt như mây đã xuất hiện một lỗ hổng, vừa đủ cho Phật sống và Lỗ Nhất Khí cúi lom khom mà băng qua.
Đứng ngoài nhìn vào, có cảm giác như Phật sống và Lỗ Nhất Khí đang biểu diễn một màn kịch múa rối hay kịch đèn chiếu, còn tiếng súng, tiếng chốt bật lẫy bung chính là dàn nhạc đệm cho họ. Động tác của bọn họ trong rất kỳ quặc, lúc đi, lúc dừng, lúc thụp xuống, lúc nhảy lên… Yêu cầu duy nhất là bọn họ cần thực hiện những động tác này một cách liên tục, nhất quán từ đầu tới cuối, cho đến tận vị trí không còn khảm nút nữa mới thôi. Bởi lẽ chỉ cần hơi chậm trễ, hoặc lỡ nhịp mất một thời cơ, thì cái giá phải trả sẽ là hai tính mạng, hai tính mạng cực kỳ đáng giá, không gì có thể thay thế.
Báo Cơ nương nương kinh ngạc đến sững sờ. Đao Thập Lục sửng sốt đến chết lặng. Chu Chân Mệnh đang ẩn nấp cũng vội vã chạy nhào tới. Không phải hắn muốn chớp thời cơ tấn công Lỗ Nhất Khí, mà là không muốn bỏ lỡ màn trình diễn ngoạn mục không tiền khoáng hậu này. Chu Chân Mệnh không giống những người khác, trong lòng hắn phần nhiều là khâm phục và tán thưởng. Khi hai người bọn họ lao tới ba nút lẫy cuối cùng, hắn thậm chí còn âm thầm cổ vũ trong lòng, thực tâm hy vọng Lỗ Nhất Khí có thể thuận lợi vượt qua, hy vọng cậu có thể sáng lập nên kỳ tích. Người ta nói quả thực không sai, “đối thủ chân chính mới là tri kỷ chân chính”.
Tổng cộng mười một khảm nút, tuy trong phép phá giải có khi dùng mánh khoé khôn khéo làm cho nút lẫy vận hành trước, tuy quá trình phá giải được hoàn thành bởi hai người, song đích xác là bọn họ đã vượt qua. Không biết kỳ tích lần này của họ có được tính là vượt qua kỷ lục mà “Hắc Bạch song thành” đã lập nên hay không.
Sau khi đã băng qua trùng khảm, Phật sống không nghĩ ngợi gì thêm, chỉ ổn định lại hơi thở và nhịp tim trong chốc lát, rồi lập tức tiến về phía bậc đá Thiên Thê. Khi đã tới dưới chân bậc thang, bước chân Phật sống đột nhiên chậm lại:
– Quái lạ thật, đám linh thú của Báo Cơ nương nương sao một con cũng không thấy?
Đám linh thú mà Phật sống vừa nhắc tới là tam thú ngao mà Chu gia đã phải đổ ra biết bao tâm lực suốt mấy trăm năm mới lai tạo thành công. Theo khảo chứng, đây có lẽ chính là loài giảo, một giống quái thú từng được nhắc tới trong “Sơn hải kinh”. Trong “Sơn hải kinh – Tây thứ tam kinh” có viết: “Ngọc Sơn… có loài thú, hình dáng giống chó, có đốm như báo, có sừng như trâu, gọi là giảo. Tiếng như chó sủa, nếu gặp được thì vùng đó được mùa lớn”.
Đám linh thú vô cùng ghê gớm đã không canh giữ bên dưới Thiên Thê, vì bọn chúng đang phải đối phó với một người phá khảm rất mực lợi hại, đó là Mạc Thiên Quy. Khi đụng đầu với đám linh thú, Mạc Thiên Quy đã bị thương, bởi vậy chưa kịp ra tay đã bị chúng dồn vào trong hốc tường phía sau một mỏm đá nhô ra.
Trước đó, khi đang chênh vênh trên cuộn vải kẹp trúc, Mạc Thiên Quy đã chuẩn bị sẵn sàng để mạo hiểm đu sang hành lang vòng quanh tháp. Song vừa chuẩn bị tung người lao đi, thì Đao Thập Lục đã tới. Gã Đao đầu đã chọn phương pháp đơn giản nhất để truy kích Mạc Thiên Quy, đó là cắt đứt cuộn vải kẹp trúc dưới chân lão.
Mạc Thiên Quy thình lình cảm thấy đao khí ập đến sau lưng, cơ bắp dọc sống lưng bất giác co thắt lại, gai ốc nổi rùng rùng. Song lúc này đã không thể quay lại ứng phó, chi bằng cứ dứt khoát làm theo kế hoạch cũ, tung người lao đi.
Biện pháp tuy chính xác, song động tác đã hơi chậm. Mà không, có lẽ do đao của Đao Thập Lục quá nhanh. Đao Thập Lục người chính là đao, đao cũng là người. Suy nghĩ vừa loé lên, đao cũng đã tới. Lưỡi đao còn chưa chạm đến, thế đao đã rạch đứt toác cuộn vải kẹp trúc.
Cuộn vải kẹp trúc đứt phăng, khiến cú tung mình nhảy vọt lên của Mạc Thiên Quy chỉ mượn được một nửa kình lực. Dưới chân thình lình hụt hẫng khiến Mạc Thiên Quy bất giác rú lên một tiếng hãi hùng, vội vàng giật mạnh cánh tay. Tuy rằng mượn sức kéo của sợi dây gai trong tay vẫn có thể giúp cơ thể bay về phía trước, song do sức bật chỉ còn một nửa, bởi vậy góc độ lao chếch xuống dưới cũng lớn hơn. Hơn nữa, khi tác động lực vào cột trụ hành lang, đã động chạm vào chốt lẫy, trên cây cột trụ từ trên xuống dưới lập tức bắn ra bốn tầng dùi hoa sen. Tất cả những điều này đã khiến cho điểm hạ chân cuối cùng của Mạc Thiên Quy vẫn nằm trong phạm vi của bãi Vân thú mây trời chín sắc.
Điểm tiếp đất có ván lật. Chỉ hơi giẫm nhẹ, tấm ván lập tức lật nghiêng sang bên, từ phía dưới đâm vọt lên một cây trụ trời bắn ngược. Trụ trời bắn ngược là cây trụ đá hình vuông đỉnh nhọn, cao hơn hai trượng tám, to khoảng cánh cửa bốn ô. Nút lẫy này cực nặng, tốc độ đâm lên cũng không nhanh. Bởi vì tác dụng tấn công của loại nút lẫy này chỉ là thứ yếu, còn tác dụng chủ yếu của nó là sau khi tất cả các trụ trời đều đã khởi động sẽ tạo thành một bức tường chắn, ép người vượt khảm đi vào đường chết.
Sở dĩ Mạc Thiên Quy dám mạo hiểm tại nơi này, vì lão đã có phương pháp đối phó với trụ trời bắn ngược. Khi một chân vừa giẫm xoay ván lật, chân kia lập tức giậm mạnh lên mép hầm bên kia, lấy đà nhảy vọt lên hết cỡ. Hai cây trụ trời bắn ngược lao vụt lên, đuổi theo Mạc Thiên Quy. Do đều là thế vọt lên, hơn nữa Mạc Thiên Quy đã dự đoán được vị trí của đỉnh nhọn trên cây cột trụ, nên lão chỉ bị mặt bên của đỉnh nhọn va phải, đẩy bắn đi. Nhờ vào lực đạo này, lão lập tức điều chỉnh thân hình tiếp tục lao về phía trước.
Khiến Mạc Thiên Quy bị thương chính là vài mũi tên được bắn ra từ tháp trắng lọng vàng.
Hai khảm diện liền nhau, lại có rìa khảm giao nhau, nên dùng nút cuối cùng của khảm phía trước để kích hoạt khảm diện phía sau, đây chính là kỹ pháp thường dùng của khảm tử gia. Khi Mạc Thiên Quy bị cây cột trụ trời bắn ngược đẩy văng đi, thì hai cột trụ đã kích hoạt nút Mưa tên bắn của khảm diện tiếp theo. Mạc Thiên Quy còn chưa kịp đáp xuống đất, đã bị ba mũi tên đuôi trâu bắn trúng.
Vị trí tiếp đất lại ở bên trong khảm diện tháp trắng. Chân Mạc Thiên Quy vừa chạm đất, dưới đất lập tức vọt lên hai gọng kìm tấm móc kẹp chặt lấy đùi trái và cổ chân phải của Mạc Thiên Quy. Gọng kìm tấm móc có hình dạng giống như bẫy kẹp thú, miệng kẹp sắc lẹm, lực kẹp cực mạnh, được nối với phiến đá chôn dưới đất bằng sợi xích sắt. Mạc Thiên Quy bị ám khí kẹp trúng, phần đùi lập tức toạc da nát thịt, xương chày nơi cổ chân bị kẹp gãy rời.
Mạc Thiên Quy quả nhiên xứng danh thủ lĩnh của Mặc gia, tuy bị thương trầm trọng song không hề nao núng. Lão đưa tay rút soạt thanh kiếm sau lưng, một chớt sáng xanh trầm vụt qua, cắt đứt phăng đầu kìm, rồi bất chấp trên người còn găm mấy mũi tên, lão Mạc lăn tròn trên đất, thẳng tới bên cạnh lan can của hành lang vòng quanh tháp. Trong lúc lăn, thân tên đều bị đè gãy, còn đầu mũi tên càng cắm sâu thêm vào da thịt. Có điều cú lăn vẫn là kịp thời. Trong nháy mắt, hai gọng kìm tấm móc đã bị phủ kín bởi vô số mũi tên và phi tiêu lá phong.
Dưới móng hành lang chính là rìa khảm của hành lang quanh tháp và tháp trắng lọng vàng, nên đây cũng là vị trí an toàn. Song dù an toàn tới đâu cũng không thể nấn ná lâu. Vấn đề cấp thiết lúc này đã không còn là tiếp cứu cho Lỗ Nhất Khí, mà là phải bảo vệ tính mạng của bản thân. Kẻ sắc bén như đao ở sau lưng đang giải khảm mà tới, trong khi lão lại bị thương nghiêm trọng, quả thực không đủ khả năng để đối đầu với cao thủ tầm cỡ này.
Mạc Thiên Quy điểm vài huyệt đạo để cầm bớt máu. Sau đó chống kiếm, loạng choạng bước đi, men theo móng hành lang chạy ra khỏi phạm vi của khảm diện tháp trắng lọng vàng. Lão biết, lúc này không thể tiếp tục đi về phía tây. Với bộ dạng hiện giờ, lão đã không thể trợ giúp Lỗ Nhất Khí được nữa, mà ngược lại còn gây thêm rắc rối cho cậu. Vậy lão nên đi về phía đông, hay ở lại đây đợi quân chi viện tới?
Chính vào lúc này, đột nhiên có âm thanh quái lạ vọng đến từ hai bên. Mạc Thiên Quy lông tóc dựng ngược, lưng rịn mồ hôi. Không có đao khí, sát khí, chỉ có âm thanh lạ và mùi dã thú.
Lỗ Nhất Khí không nói gì, chỉ ngoái đầu liếc nhìn Phật sống. Sắc mặt Phật sống hết sức đăm chiêu. Đúng vậy, phía trước có Báo Cơ cản đường, phía sau có Chu Chân Mệnh âm thầm theo dõi, bây giờ lại thình lình mọc ra một luồng sát khí sắc bén rợn người. Trong tình cảnh thế này, Phật sống không những phải tự bảo vệ mình, mà còn phải che chắn cho Lỗ Nhất Khí vừa mới bị thương, dù có Phật Tổ hay thần tiên ở đây, cũng khó tránh khỏi lo lắng.
– Con đường duy nhất chỉ có thể là xông qua chỗ Báo Cơ nương nương, lên Thiên Thê trước khi quân chi viện tới kịp! – Lỗ Nhất Khí lẩm bẩm như tự nhủ với bản thân.
Phật sống đã tin lời Lỗ Nhất Khí. Trong mắt ông ta, Lỗ Nhất Khí là một cao thủ tuyệt đỉnh tinh thông Phật lý, dùng tâm ngự địch, có cậu sát cánh bên ông ta, thì việc xông qua cửa ải của Báo Cơ nương nương hẳn cũng là việc dễ dàng.
Thế là Phật sống xốc Lỗ Nhất Khí lên, đi thẳng về phía trước. Nhìn thấy Phật sống dứt khoát lao lên, Báo Cơ nương nương quát lên như sấm:
– Phật gia, nếu nhất quyết xông lên, chớ trách tôi vô tình!
Lời vừa dứt, trên vách đá bỗng vang lên một tràng những tiếng “lắc rắc”. Lỗ Nhất Khí thoạt nghe đã biết là tiếng chốt lẫy kéo căng. Bức bích hoạ rất rộng, phạm vi của nó bao trùm phần lớn đoạn đường từ hành lang bên ngoài tháp trắng đến phía dưới đám bậc thang đá của dãy núi Thiên Thế. Bởi vậy, phạm vi sát thương của khảm diện này cũng vô cùng rộng lớn. Chỉ cần đặt chân lên con đường phía trước bức bích hoạ, chắc chắn bọn họ sẽ hết đường.
Sau khi phát ra một tràng những âm thanh quái dị, bức bích hoạ sắc màu rực rỡ đã xuất hiện một vài biến hoá rất vi tế, mỗi một biến hoá đều tương đương với sự tồn tại của một loại nút giết hoặc nút vây.
Lỗ Nhất Khí chú ý tới từng mảy may biến hoá. Nguyên lý của “Cơ xảo tập” và “Ban kinh” đã dung hội quán thông trong trí não, tầm hiểu biết về khảm nút của cậu cũng đã đạt đến cảnh giới thượng thừa. Nhìn vào những biến hoá, Lỗ Nhất Khí có thể khẳng định có cả thảy trên mười lăm loại nút lẫy trên tấm bích hoạ. Trong mảng bích hoạ ngay trước mặt cậu có ba loại là Lưới quăng tám chân, Gông khớp nhanh hai hình và Kẹp lông nhím. Sang phía tây lần lượt là các nút Vòng ráng mây, Cắt chữ điền, Mâu xuyên tim chín chín vào một, Chụp máu theo gió…; sang phía đông lần lượt là các nút Cóc trời phun vàng, Toà chạm đất, Bút mộng sinh hoa… Còn có hai chỗ Lỗ Nhất Khí phát hiện ra chốt lẫy, song không biết được là loại nút gì, bởi lẽ chỉ có một đầu ống thò ra, đoán rằng không phải là nước độc, nước ăn mòn, cũng là loại khói hun, sương độc.
Hai người Lỗ Nhất Khí không cần phải suy xét tới đám nút lẫy phía đông, bởi vì bậc đá Thiên Thê nằm ở phía tây nơi họ đang đứng. Số nút ở đoạn này lại nhiều hơn hẳn phía đông, khoảng trên dưới mười loại.
Trong nghề khảm tử từ cổ chí kim, không ai có thể liên tục vượt qua nhiều cơ quan cạm bẫy đến như vậy. Theo ghi chép trong sách vở, người từng liên tục vượt qua được nhiều khảm nút nhất chính là kỳ nhân khảm tử thời Đường Mặc Phi Yên, đây là một kỳ nữ trong Mặc môn, cả đời chuyên nghiên cứu về nguyên lý khảm nút. Khi bà sáu mươi ba tuổi, một mình xông vào luỹ Thính Thiên của An Lộc Sơn, liên tiếp vượt qua sáu khảm trong sảnh Bố Chiến ở tầng thứ hai của luỹ, nhưng cuối cùng vẫn phải bỏ mạng trong khảm Cửa sập hình búa chém mười lần. Còn một người nữa là Cẩm Mao Thử Bạch Ngọc Đường thời Tống, trước khi rơi vào khảm diện “lưới chuông bắt sẻ” ở lầu Tiêu Dao rồi bị mưa tên bắn chết, ông đã liên tiếp vượt qua năm khảm, sau đó lại né qua được nút “đao hoa sen” ở cửa lưới của Lưới chuông bắt sẻ, được tính là vượt qua được năm khảm rưỡi. Hai người này được xem là “Hắc Bạch song thành” trong nghề khảm tử, được khảm tử gia đời sau coi là đỉnh cao không dễ vượt qua.
Mà lúc này, có tới hơn mười nút chết liên tục, việc liều mạng xông qua gần như là không thể. Vì người thiết kế khảm diện đã suy xét tới tính liên tục của khảm nút, lực sát thương của nút lẫy phía sau sẽ nhắm vào những chỗ sơ hở có thể lợi dụng của nút lẫy phía trước nó.
– Phật sống, những khảm nút này ngài có thể tránh được không? – Lỗ Nhất Khí hy vọng có thể nghe được lời khẳng định từ Phật sống.
– Khảm nút nào? – Phật sống có vẻ ngơ ngác.
– Chính là những cạm bẫy, ám khí trên bức bích hoạ kia! – Lỗ Nhất Khí e rằng Phật sống không hiểu ý nghĩa của từ khảm nút.
– Hả? Trên vách kia có ám khí? – Thì ra Phật sống hoàn toàn mù tịt về khảm nút.
Luồng sát khí sắc lạnh như dao cắt đã băng qua tháp trắng. Lỗ Nhất Khí đã nhận ra, làn khí tướng tương tự như thế này từng xuất hiện ở Nam Lĩnh, Viêm Hoá Lôi nói đó là sát thủ với tên gọi người đao mười sáu lưỡi.
Ở đoạn cuối hành lang vòng quanh tháp, thi khí cuồn cuộn, ma khí lan tràn. Hẳn là Hạ Táo Hoa và Dưỡng Quỷ Tỳ đang phải vật lộn quyết liệt với một cao thủ rất đáng gờm. Nhìn vào làn thi khí và ma khí, biết rằng bọn họ đã phải phát huy công lực tới cực điểm.
Phía Chu Chân Mệnh vẫn không có động tĩnh gì. Hắn đang chờ đợi cơ hội thích hợp nhất, hiệu quả nhất.
Khảm nút đã lên sẵn chốt lẫy của Báo Cơ nương nương đều dùng bùa chú ánh sáng “bóng theo hình” để khởi động. Lúc này, dù hai người Lỗ Nhất Khí di chuyển sang phía nào, chỉ cần thân hình dịch chuyển, khiến cho ánh sáng thay đổi, bùa chú sẽ lập tức khởi động. Bùa chú khởi động, sẽ sinh ra lực vô hình, như nảy, rung, lắc, kéo theo chốt lẫy hoạt động.
Không có viện trợ. Phật sống không thể trợ giúp. Đối thủ đã ép sát đến nơi. Chỉ có thể dựa vào bản thân. Không! Cần phải dựa vào sự liên thủ giữa mình và Phật sống. Lỗ Nhất Khí đang cấp tập quét mắt quan sát, trí não xoay chuyển như bay.
Những thứ cần nhìn đều đã nhìn thấy, những thứ cần nhớ đều đã nhớ kỹ, những thứ cần tính toán cũng đã tính toán xong. Biện pháp phá giải đã hình thành trong đầu. Bước tiếp theo chính là cần thực hiện một cách chính xác và chuẩn xác.
– Tôi nói “đi” thì đi, nói “lên” thì nhảy thẳng lên, nói “nhảy” thì nhảy về phía trước, nói “dừng” thì dừng lại, nói “phục” thì chúi người xuống! – Lỗ Nhất Khí nói với Phật sống với nét mặt hết sức nghiêm trọng. Chỉ có thống nhất các khẩu lệnh với Phật sống, mới có thể xông lên phía trước đúng với yêu cầu và mục đích đã định.
Phật sống chỉ khẽ gật đầu, song ánh mắt và nét mặt tràn đầy vẻ kiên định và tin tưởng.
Tín hiệu và hành động đã thống nhất, một vấn đề then chốt nữa chính là phải kiểm soát chính xác vị trí và cự ly hành động. Trong khảm diện với nhiều nút lẫy bố trí liên tiếp, chỉ cần bước chệch nửa bàn chân cũng sẽ mất mạng ngay lập tức. Bởi vậy, cần phải có một phương pháp xác định vị trí cự ly mà Lỗ Nhất Khí và Phật sống đều thông thạo.
Phương pháp xác định vị trí, cự ly thường dùng nhất là phương vị Bát quái. Song Phật sống chuyên nghiên cứu về Phật học Mật Tông Tây Tạng, nên không hiểu gì về lý số Đạo gia của Trung Nguyên. Lỗ Nhất Khí chợt nhớ tới một điển tích của Phật giáo Mật Tông có tên là “Tạng Phật thất luân thích thân”. Trong sách có nói rằng, trong cơ thể con người có bảy luân xa, trong đó có một luân xa nằm ở bên ngoài cơ thể, gọi là luân xa Phạn huyệt. Sáu luân xa còn lại nằm bên trong cơ thể, lần lượt là luân xa đỉnh đầu, luân xa trán, luân xa họng, luân xa tim, luân xa rốn và luân xa hải để. Bảy luân xa được bắt đầu từ luân xa Phạn huyệt bên ngoài cơ thể, khoảng cách giữa các luân xa dài ngắn khác nhau. Có lẽ Phật sống sẽ thông thạo phương pháp xác định vị trí, cự ly kiểu này.
– Bước đi căn cứ theo cự ly giữa bảy luân xa của tượng Phật ngồi chín trượng, trước khi bước đi hãy nghe tôi nói rõ vị trí! – Lỗ Nhất Khí muốn tiến hành xác định vị trí dựa theo cự ly giữa bảy luân xa của pho tượng Phật ngồi cao chín trượng.
Phật sống lại dứt khoát gật đầu. Cách xác định cự ly này đối với ông ta dễ như trở bàn tay.
Lỗ Nhất Khí cảm hấy hơi khó khăn khi rút khẩu pạc-hoọc ra. Bàn tay phải đã đứt cụt, chỉ có thể dùng tay trái bóp cò, song vừa rồi đầu gậy của lão mù đã xuyên thủng bả vai trái của cậu.
Cánh tay trái không thể nhấc lên được nữa, bởi vậy chỉ có thể gập khuỷu tay lại để nâng khẩu pạc-hoọc lên ngang tầm thắt lưng.
– “Pằng!”
Phát súng đầu tiên chỉ là tìm ra điểm định vị. Có được điểm định vị, mới có thể tìm được cảm giác chính xác.
Thở khẽ hít sâu, tụ khí ngưng thần, để thân tâm đều thuận theo tự nhiên. Trong cảm giác của Lỗ Nhất Khí đã không còn cái tôi nữa, xác thịt như đã hoà tan vào trong không khí. Trong khoảnh khắc đó, khí thế của cậu bừng bừng tuôn chảy, như mây toả ngang trời, như nước tràn dưới suối, rực rỡ như ánh nắng phía trời đông. Khí tướng vừa bừng lên, đám cao thủ phía Chu gia thảy đều bàng hoàng sửng sốt. Ngay cả Chu Chân Mệnh đã từng nhìn thấy khí tướng của Lỗ Nhất Khí cũng phải kinh ngạc trong lòng. Mới vài ngày không gặp, nguồn năng lượng tiềm ẩn trong khí tướng của gã thanh niên kia đã lớn mạnh gấp mấy lần, bừng lên một cảm giác choáng ngợp không thể chống cự.
Vị trí của tất cả các chốt lẫy dây bật và hình thức hoạt động của chúng được rà soát lại một lượt trong trí não Lỗ Nhất Khí. Tất cả chúng đã hình thành nên một bức tranh trong ý thức của cậu. Trong cảm giác, bức tranh đó đang được kéo lại gần, rất gần, gần tới mức cậu chỉ cần đưa tay ra là chạm tới.
– Đi! Luân xa tim! – Lỗ Nhất Khí thốt lên khe khẽ.
Lời còn chưa dứt, thân hình Phật sống đã lập tức di chuyển, dẫn theo cậu lao thẳng tới vị trí luân xa tim của pho tượng Phật ngồi cao chín trượng.
Phật sống và Lỗ Nhất Khí vừa di chuyển, chốt lẫy phía bên kia lập tức khởi động. Trước hết là nút Kẹp lông nhím phía trước mặt, song lẫy của nó chỉ bung một nửa rồi mắc kẹp, bởi vì khi vừa bật ra chữ “đi”, Lỗ Nhất Khí đã nổ súng. Viên đạn găm trúng chốt chính của Kẹp lông nhím, khiến tấm chống của chốt chính mắc kẹt vào cần răng, nên nút không thể tiếp tục vận hành.
Phát súng thứ hai bắn trúng dây lẫy treo của Mâu xuyên tim chín chín vào một ẩn trong khe đá. Súng nổ lẫy đứt, dây lẫy của toàn bộ nút khảm đều được nhả hoàn toàn, không một cây mâu xuyên tim nào bay ra.
– Dừng! – Lỗ Nhất Khí lại kêu lớn. Tiếng kêu vừa bật ra khỏi miệng, Lỗ Nhất Khí lại giương súng bắn trúng chốt gạt của Cắt chữ điền. Chốt lẫy của nút này hoạt động theo cách gạt nghiêng sang một bên, từ góc độ và vị trí của Lỗ Nhất Khí, không có cách nào khiến chốt lẫy nhả dây xả lực, nên Lỗ Nhất Khí đã bắn vào chốt gạt, như vậy có thể khiến nút lẫy hoạt động trước. Lỗ Nhất Khí yêu cầu Phật sống dừng lại, chính là muốn lợi dụng khoảng thời gian chênh lệch để né tránh khung cắt hình chữ điền bắn ra đầu tiên.
– Nhảy! Luân xa hải để! – Lỗ Nhất Khí lại hô lên.
Phật sống nghe tiếng mà động, thân hình nhảy vọt đi theo trình tự bắn của khung cắt chữ điền. Khi các khung cắt phóng ra hết, họ cũng vừa tới nơi.
Song vừa tới nơi, thì nút tiếp theo là “vòng ráng mây” được xếp chồng lên nút này vừa hay lại hoạt động. Chớp mắt, vô số vòng thép dẹt với phần lưỡi mài sắc lẹm ào ào phóng ra như mây toả. Mà lần này, hai người họ đang ở chính giữa phạm vi của nút lẫy, không có chỗ né tránh.
– Phục! – Lỗ Nhất Khí nằm sấp xuống tránh, khẩu súng trong tay cũng nhả đạn liên hồi.
Đạn tới tấp bay thẳng tới những vòng thép sắc lẹm, song số đạn trong ổ súng lại ít ỏi hơn rất nhiều so với đám vòng thép đang ào ào lao tới. Mặt khác nếu bắn hết đạn, những nút lẫy tiếp theo sẽ không thể đi qua. Nên Lỗ Nhất Khí chỉ bắn năm phát đạn, mỗi phát đều được bắn theo góc độ vô cùng xảo diệu, vòng bay bị bắn trúng lập tức đổi hướng đâm vào vòng thép liền kề, vòng thép này lại va phải vòng thép khác. Bởi vậy, tuy chỉ có năm phát đạn, song số vòng bay bị bắn đi lại nhiều hơn gấp bốn năm lần. Bởi vậy trong đám vòng tuôn ra ào ạt như mây đã xuất hiện một lỗ hổng, vừa đủ cho Phật sống và Lỗ Nhất Khí cúi lom khom mà băng qua.
Đứng ngoài nhìn vào, có cảm giác như Phật sống và Lỗ Nhất Khí đang biểu diễn một màn kịch múa rối hay kịch đèn chiếu, còn tiếng súng, tiếng chốt bật lẫy bung chính là dàn nhạc đệm cho họ. Động tác của bọn họ trong rất kỳ quặc, lúc đi, lúc dừng, lúc thụp xuống, lúc nhảy lên… Yêu cầu duy nhất là bọn họ cần thực hiện những động tác này một cách liên tục, nhất quán từ đầu tới cuối, cho đến tận vị trí không còn khảm nút nữa mới thôi. Bởi lẽ chỉ cần hơi chậm trễ, hoặc lỡ nhịp mất một thời cơ, thì cái giá phải trả sẽ là hai tính mạng, hai tính mạng cực kỳ đáng giá, không gì có thể thay thế.
Báo Cơ nương nương kinh ngạc đến sững sờ. Đao Thập Lục sửng sốt đến chết lặng. Chu Chân Mệnh đang ẩn nấp cũng vội vã chạy nhào tới. Không phải hắn muốn chớp thời cơ tấn công Lỗ Nhất Khí, mà là không muốn bỏ lỡ màn trình diễn ngoạn mục không tiền khoáng hậu này. Chu Chân Mệnh không giống những người khác, trong lòng hắn phần nhiều là khâm phục và tán thưởng. Khi hai người bọn họ lao tới ba nút lẫy cuối cùng, hắn thậm chí còn âm thầm cổ vũ trong lòng, thực tâm hy vọng Lỗ Nhất Khí có thể thuận lợi vượt qua, hy vọng cậu có thể sáng lập nên kỳ tích. Người ta nói quả thực không sai, “đối thủ chân chính mới là tri kỷ chân chính”.
Tổng cộng mười một khảm nút, tuy trong phép phá giải có khi dùng mánh khoé khôn khéo làm cho nút lẫy vận hành trước, tuy quá trình phá giải được hoàn thành bởi hai người, song đích xác là bọn họ đã vượt qua. Không biết kỳ tích lần này của họ có được tính là vượt qua kỷ lục mà “Hắc Bạch song thành” đã lập nên hay không.
Sau khi đã băng qua trùng khảm, Phật sống không nghĩ ngợi gì thêm, chỉ ổn định lại hơi thở và nhịp tim trong chốc lát, rồi lập tức tiến về phía bậc đá Thiên Thê. Khi đã tới dưới chân bậc thang, bước chân Phật sống đột nhiên chậm lại:
– Quái lạ thật, đám linh thú của Báo Cơ nương nương sao một con cũng không thấy?
Đám linh thú mà Phật sống vừa nhắc tới là tam thú ngao mà Chu gia đã phải đổ ra biết bao tâm lực suốt mấy trăm năm mới lai tạo thành công. Theo khảo chứng, đây có lẽ chính là loài giảo, một giống quái thú từng được nhắc tới trong “Sơn hải kinh”. Trong “Sơn hải kinh – Tây thứ tam kinh” có viết: “Ngọc Sơn… có loài thú, hình dáng giống chó, có đốm như báo, có sừng như trâu, gọi là giảo. Tiếng như chó sủa, nếu gặp được thì vùng đó được mùa lớn”.
Đám linh thú vô cùng ghê gớm đã không canh giữ bên dưới Thiên Thê, vì bọn chúng đang phải đối phó với một người phá khảm rất mực lợi hại, đó là Mạc Thiên Quy. Khi đụng đầu với đám linh thú, Mạc Thiên Quy đã bị thương, bởi vậy chưa kịp ra tay đã bị chúng dồn vào trong hốc tường phía sau một mỏm đá nhô ra.
Trước đó, khi đang chênh vênh trên cuộn vải kẹp trúc, Mạc Thiên Quy đã chuẩn bị sẵn sàng để mạo hiểm đu sang hành lang vòng quanh tháp. Song vừa chuẩn bị tung người lao đi, thì Đao Thập Lục đã tới. Gã Đao đầu đã chọn phương pháp đơn giản nhất để truy kích Mạc Thiên Quy, đó là cắt đứt cuộn vải kẹp trúc dưới chân lão.
Mạc Thiên Quy thình lình cảm thấy đao khí ập đến sau lưng, cơ bắp dọc sống lưng bất giác co thắt lại, gai ốc nổi rùng rùng. Song lúc này đã không thể quay lại ứng phó, chi bằng cứ dứt khoát làm theo kế hoạch cũ, tung người lao đi.
Biện pháp tuy chính xác, song động tác đã hơi chậm. Mà không, có lẽ do đao của Đao Thập Lục quá nhanh. Đao Thập Lục người chính là đao, đao cũng là người. Suy nghĩ vừa loé lên, đao cũng đã tới. Lưỡi đao còn chưa chạm đến, thế đao đã rạch đứt toác cuộn vải kẹp trúc.
Cuộn vải kẹp trúc đứt phăng, khiến cú tung mình nhảy vọt lên của Mạc Thiên Quy chỉ mượn được một nửa kình lực. Dưới chân thình lình hụt hẫng khiến Mạc Thiên Quy bất giác rú lên một tiếng hãi hùng, vội vàng giật mạnh cánh tay. Tuy rằng mượn sức kéo của sợi dây gai trong tay vẫn có thể giúp cơ thể bay về phía trước, song do sức bật chỉ còn một nửa, bởi vậy góc độ lao chếch xuống dưới cũng lớn hơn. Hơn nữa, khi tác động lực vào cột trụ hành lang, đã động chạm vào chốt lẫy, trên cây cột trụ từ trên xuống dưới lập tức bắn ra bốn tầng dùi hoa sen. Tất cả những điều này đã khiến cho điểm hạ chân cuối cùng của Mạc Thiên Quy vẫn nằm trong phạm vi của bãi Vân thú mây trời chín sắc.
Điểm tiếp đất có ván lật. Chỉ hơi giẫm nhẹ, tấm ván lập tức lật nghiêng sang bên, từ phía dưới đâm vọt lên một cây trụ trời bắn ngược. Trụ trời bắn ngược là cây trụ đá hình vuông đỉnh nhọn, cao hơn hai trượng tám, to khoảng cánh cửa bốn ô. Nút lẫy này cực nặng, tốc độ đâm lên cũng không nhanh. Bởi vì tác dụng tấn công của loại nút lẫy này chỉ là thứ yếu, còn tác dụng chủ yếu của nó là sau khi tất cả các trụ trời đều đã khởi động sẽ tạo thành một bức tường chắn, ép người vượt khảm đi vào đường chết.
Sở dĩ Mạc Thiên Quy dám mạo hiểm tại nơi này, vì lão đã có phương pháp đối phó với trụ trời bắn ngược. Khi một chân vừa giẫm xoay ván lật, chân kia lập tức giậm mạnh lên mép hầm bên kia, lấy đà nhảy vọt lên hết cỡ. Hai cây trụ trời bắn ngược lao vụt lên, đuổi theo Mạc Thiên Quy. Do đều là thế vọt lên, hơn nữa Mạc Thiên Quy đã dự đoán được vị trí của đỉnh nhọn trên cây cột trụ, nên lão chỉ bị mặt bên của đỉnh nhọn va phải, đẩy bắn đi. Nhờ vào lực đạo này, lão lập tức điều chỉnh thân hình tiếp tục lao về phía trước.
Khiến Mạc Thiên Quy bị thương chính là vài mũi tên được bắn ra từ tháp trắng lọng vàng.
Hai khảm diện liền nhau, lại có rìa khảm giao nhau, nên dùng nút cuối cùng của khảm phía trước để kích hoạt khảm diện phía sau, đây chính là kỹ pháp thường dùng của khảm tử gia. Khi Mạc Thiên Quy bị cây cột trụ trời bắn ngược đẩy văng đi, thì hai cột trụ đã kích hoạt nút Mưa tên bắn của khảm diện tiếp theo. Mạc Thiên Quy còn chưa kịp đáp xuống đất, đã bị ba mũi tên đuôi trâu bắn trúng.
Vị trí tiếp đất lại ở bên trong khảm diện tháp trắng. Chân Mạc Thiên Quy vừa chạm đất, dưới đất lập tức vọt lên hai gọng kìm tấm móc kẹp chặt lấy đùi trái và cổ chân phải của Mạc Thiên Quy. Gọng kìm tấm móc có hình dạng giống như bẫy kẹp thú, miệng kẹp sắc lẹm, lực kẹp cực mạnh, được nối với phiến đá chôn dưới đất bằng sợi xích sắt. Mạc Thiên Quy bị ám khí kẹp trúng, phần đùi lập tức toạc da nát thịt, xương chày nơi cổ chân bị kẹp gãy rời.
Mạc Thiên Quy quả nhiên xứng danh thủ lĩnh của Mặc gia, tuy bị thương trầm trọng song không hề nao núng. Lão đưa tay rút soạt thanh kiếm sau lưng, một chớt sáng xanh trầm vụt qua, cắt đứt phăng đầu kìm, rồi bất chấp trên người còn găm mấy mũi tên, lão Mạc lăn tròn trên đất, thẳng tới bên cạnh lan can của hành lang vòng quanh tháp. Trong lúc lăn, thân tên đều bị đè gãy, còn đầu mũi tên càng cắm sâu thêm vào da thịt. Có điều cú lăn vẫn là kịp thời. Trong nháy mắt, hai gọng kìm tấm móc đã bị phủ kín bởi vô số mũi tên và phi tiêu lá phong.
Dưới móng hành lang chính là rìa khảm của hành lang quanh tháp và tháp trắng lọng vàng, nên đây cũng là vị trí an toàn. Song dù an toàn tới đâu cũng không thể nấn ná lâu. Vấn đề cấp thiết lúc này đã không còn là tiếp cứu cho Lỗ Nhất Khí, mà là phải bảo vệ tính mạng của bản thân. Kẻ sắc bén như đao ở sau lưng đang giải khảm mà tới, trong khi lão lại bị thương nghiêm trọng, quả thực không đủ khả năng để đối đầu với cao thủ tầm cỡ này.
Mạc Thiên Quy điểm vài huyệt đạo để cầm bớt máu. Sau đó chống kiếm, loạng choạng bước đi, men theo móng hành lang chạy ra khỏi phạm vi của khảm diện tháp trắng lọng vàng. Lão biết, lúc này không thể tiếp tục đi về phía tây. Với bộ dạng hiện giờ, lão đã không thể trợ giúp Lỗ Nhất Khí được nữa, mà ngược lại còn gây thêm rắc rối cho cậu. Vậy lão nên đi về phía đông, hay ở lại đây đợi quân chi viện tới?
Chính vào lúc này, đột nhiên có âm thanh quái lạ vọng đến từ hai bên. Mạc Thiên Quy lông tóc dựng ngược, lưng rịn mồ hôi. Không có đao khí, sát khí, chỉ có âm thanh lạ và mùi dã thú.