Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm. Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản

Lời Nguyền Lỗ Ban

Quyển 4 – Chương 11: Ép hiện hình

Tác giả: Viên Thái Cực
Chọn tập

Vậy thì đám thuyền đắm và xác chết ở đó đúng là bị ma lực của hung huyệt hút vào ư? Sao trông chúng cứ như vừa mới gặp nạn thế nhỉ? Thật quái lạ hết sức! – Thuỷ Băng Hoa xen ngang một câu.

-Bởi vì xung quanh hung huyệt có trường khí cực âm, cực hàn bao phủ. – Lỗ Nhất Khí trả lời.

-Vậy thuyền của chúng ta làm sao lại thoát khỏi lực hút của hung huyệt? Hơn nữa, sau khi áp sát hung huyệt, trạng thái của chúng ta lại khá hơn rất nhiều? – Bộ Bán Thốn gượng ngồi dậy hỏi.

-Điều này thì tôi cũng không biết… – Lỗ Nhất Khí cũng cảm thấy băn khoăn.

-Tôi biết! – Lão mù ngồi cạnh cười khẽ một tiếng rồi tiếp lời – Bởi lẽ trên thuyền của chúng ta có khí huyết tiên thiên của tiên thiên đồng tử trấn giữ. Nếu không có tiên thiên đồng tử, ngay từ khi gặp ảo ảnh thuyền, chúng ta đã bị đâm tan xác rồi!

Tiên thiên đồng tử? Lại chuyện viển vông gì nữa? Mọi người đều cho rằng lão mù đang ăn ốc nói mò.

Lão mù đã nghe ra thái độ coi thường phì ra từ miệng mũi Bộ Bán Thốn.

-Thật đấy! – Lão mù có vẻ hơi bực.

-Chú Hạ, chú hãy nói xem ai là tiên thiên đồng tử? – Thuỷ Băng Hoa hỏi.

-Chị không biết à? Quái thật! Sao chị lại không biết nhỉ? – Vẻ mặt lão mù đầy sửng sốt.

-Làm sao mà tôi biết được? – Thuỷ Băng Hoa vặc lại.

-Là chị chứ còn ai!

-Làm sao lại là tôi được?

-Bày trò gì thế hả lão Hạ?

-Một người đàn bà sao có thể là tiên thiên đồng tử?

-Đừng ồn, hãy nghe tôi nói! Mọi người có biết thế nào gọi là tiên thiên đồng tử không? – Thấy không ai nói gì, lão mù có phần đắc ý, nói tiếp – Đương nhiên chị ta không phải là tiên thiên đồng tử, nhưng chị ta có tiên thiên đồng tử!

-Này lão Hạ, ý lão muốn nói là cô ta đang mang thai, lại còn là con trai ư? – Bộ Bán Thốn chợt nhớ tới một sự việc kỳ lạ xảy ra trước đó – Thảo nào ở bên ngoài bãi đá quỷ Bách Biến, khi thuyền ma sắp đâm vào mạn thuyền, cả hai gã đàn ông to xác đều không đẩy nổi con thuyền ra xa, mà cô em đây vừa ra khỏi khoang thuyền, bọn chúng đã vội vàng tháo chạy. Là vì ma quỷ sợ thiên huyết của bào thai, sẽ khiến chúng vĩnh viễn không thể siêu sinh.

Bùa Phún dương! – Giờ thì Lỗ Nhất Khí cũng đã hiểu ra, Thuỷ Băng Hoa đã vô tình dùng dòng linh huyết tiên thiên mang dương khí của tiên thiên đồng tử vạch thành đồ hình bùa Phún dương trên mũi thuyền sắt, nhờ vậy mới hoá giải được lực hút âm sát cực độ từ hung huyệt. Nếu không có sự trùng hợp ngẫu nhiên này, bọn họ đã sớm vùi thân nơi đáy biển. Sau đó, Lỗ Nhất Khí mới nhận thức được một sự việc hệ trọng khác: cậu chính là cha của tiên thiên đồng tử! Thảo nào khi ở bãi đá quỷ Bách Biến, trong ánh mắt oán hận của Thuỷ Băng Hoa lại nổi lên sắc máu, và cậu đã cảm giác thấy sự tồn tại của mình trong đó.

-Không chỉ là bùa Phún dương, còn có mấy lá bùa chữ “Vũ” mà cậu lén đưa cho chị ta mang dán. Nếu không có những lá bùa do đích thân tiên thiên đồng tử dán, chắc hẳn chúng ta đã bị ảo ảnh thuyền đâm vỡ vụn! – Lão mù nói xong, bèn quay sang Thuỷ Băng Hoa hỏi lại – Đúng là chị không biết gì thật ư?

Thuỷ Băng Hoa quả thực không biết. Cô ta bẩm sinh đã là thạch nữ, chưa hề thấy kinh kỳ hàng tháng giống như con gái bình thường, bởi vậy sau khi mang thai cũng chẳng thấy có gì khác trước.

Ký ức của Lỗ Nhất Khí đang mau chóng xoay ngược. Cậu dường như lại nhìn thấy khuôn mặt ai oán đầy nước mắt của Dưỡng Quỷ Tỳ trên con thuyền ma hôm đó. Lúc này, cậu mới hiểu nỗi ai oán của cô là do đâu. Một cảm giác xót thương, day dứt bỗng nghẹn ứ nơi cổ họng. Quay đầu lại nhìn Thuỷ Băng Hoa, cậu thấy cô cũng đang nhìn mình với ánh mắt hân hoan xen lẫn ngượng ngùng, thì niềm xúc động, an hoà lại dâng đầy trong lồng ngực. Hai luồng cảm giác đan xen khiến trí não cậu bỗng chốc rối bời.

Bộ Bán Thốn đặt tay lên vai lão mù, nói:

-Lão Hạ, hãy dìu tôi ra bên ngoài hít thở một chút!

Gò má lão mù giật lên, lộ ra một nụ cười cổ quái, sau đó đứng dậy dịu Bộ Bán Thốn bước về phía bậc tam cấp. Vừa đặt chân lên bậc thang, cả hai bỗng đồng thời quay người ngoảnh nhìn Lỗ Nhất Khí. Bộ Bán Thốn hạ giọng thật thấp hỏi:

-Cậu cả, nơi chúng ta đang tới liệu có bảo bối không?

Câu hỏi của hắn đã kéo Lỗ Nhất Khí thoát khỏi mớ suy nghĩ rối bời. Song cậu lờ mờ cảm giác rằng, hình như không chỉ có ba người trước mặt đang chờ đợi câu trả lời, mà còn có một ai khác cũng đang nín thở rình lấy từng lời thốt ra từ miệng cậu.

Lỗ Nhất Khí ngửa mặt, duỗi thẳng cần cổ, khẽ vuốt nhẹ cổ tay đứt cụt, sau đó mới bình thản nói rành mạch từng tiếng một:

-Có! Chắc chắn là có!

Song không một ai hiểu nổi ánh mắt của cậu lúc này.

Ở phía nam Nhật Bản, phía đông bắc Đài Loan có một hải vực hình tam giác mênh mông vắng lặng. Hải vực này có rất nhiều tên gọi, trong đó, cái tên dễ hiểu và phổ biến nhất là “tam giác Rồng ma quỷ”. Trong hải vực kinh hoàng này, từng xảy ra không biết bao nhiêu hiện tượng lạ lùng và tai nạn thảm khốc, cũng không biết đã vùi chôn bao nhiêu xác thuyền và xác người.

Có rất nhiều giả thuyết khác nhau về sự hình thành của tam giác Rồng, trong đó có một giả thuyết liên quan đến góc lệch từ. Đây là một hiện tượng tự nhiên do cực từ nam bắc của địa cầu không trùng khớp với cực nam bắc địa lý. Giả thuyết này hoàn toàn phù hợp với việc con thuyền mũi sắt của Lỗ Nhất Khí bị lực hấp dẫn hút chặt lấy, đồng thời hiện tượng “ảo ảnh thuyền” cũng có thể là kết quả do hiện tượng từ gây ra. Một giả thuyết nữa là thuyết dòng biển nóng, cho rằng dòng biển nóng sẽ dẫn đến sương mù và vòi rồng, khiến thuyền mất phương hướng, va phải đá ngầm, hoặc trực tiếp bị vòi rồng lật úp, giống như hiện tượng tường sương mù mà đám Lỗ Nhất Khí đã gặp phải. Ngoài ra, còn có một giả thuyết nữa là thuyết động đất sóng thần, cho rằng ở vùng biển sâu phía tây của tam giác Rồng là nơi lớp vỏ trái đất mỏng và yếu nhất, nguồn năng lượng khổng lồ của nham thạch có thể dội lên mặt biển bất cứ lúc nào, mà không hề có một dấu hiệu gì báo trước, song cũng sẽ tiêu biến trong chớp mắt. Khi có động đất xảy ra tại các khối địa tầng dưới lòng đại dương, sóng siêu âm truyền tới tầng trên cùng của mặt biển sẽ hình thành sóng thần. Đó chính là nguyên do gây ra hiện tượng ánh sáng dưới đáy biển, tiếng hát ma quái, bùn biển nổi lên và cuối cùng là cơn sóng lừng khủng khiếp mà đám Lỗ Nhất Khí đã phải đương đầu.

Nhưng trong quan niệm của người phía Lỗ gia, theo thuyết Bát bảo định cõi phàm, nơi đó chính là một hung huyệt, một hung huyệt chưa được Địa bảo trấn áp.

Con thuyền mũi sắt thay đổi hướng đi, tác dụng lớn nhất chính là đã cắt đuôi được đám chiến thuyền đeo bám. Trừ phi đối phương có phép tiên tri, nếu không, chỉ dựa theo điều kiện kỹ thuật lúc bấy giờ, muốn tìm ra một con thuyền đánh cá không hề to lớn trên đại dương mênh mông là hoàn toàn không thể. Thế nhưng trong đêm tối mịt mờ, thình lình một tiếng chim ưng rít lên chói lói khiến tất cả mọi người giật mình choàng tỉnh khỏi cơn mơ màng.

Lão mù nhảy dựng lên:

-Chim ưng săn mỏ hoa Trường Bạch!

Tại sao chim ưng săn lại xuất hiện trên mặt biển? Chỉ có một khả năng duy nhất, chiến thuyền của đối thủ đã bám sát không xa. Tại sao đối thủ lại có thể đuổi kịp con thuyền? Cũng chỉ có một khả năng, trên thuyền mũi sắt có người cố tình lưu lại dấu vết suốt dọc đường đi.

-Tới rồi! Đúng là đã tới rồi… – Lão mù đứng ngây ra tại chỗ mà lẩm bẩm.

Lỗ Nhất Khí không ngồi dậy, mà vẫn nằm im lặng, chăm chú lắng nghe tiếng gào rít của chim ưng, và cả những âm thanh khác nữa. Lão mù chắc hẳn cũng đã nghe ra những âm thanh đó, dưới ánh đèn chập chờn mờ tỏ trong khoang thuyền, cơ bắp trên khuôn mặt lão đang phải chịu đựng những cơn co giật rất khó phát giác.

-Âm thanh đó còn cách bao xa? – Lỗ Nhất Khí đột nhiên lên tiếng hỏi.

-Không xa! Có thể nhìn thấy được! – Sa Khẩu đáp.

Sa Khẩu và lão Xoa đưa mắt nhìn nhau, rồi cùng chạy thục mạng ra ngoài khoang thuyền. Thuỷ Băng Hoa cũng bò dậy, sấp ngửa chạy theo bọn họ. Trong khoang thuyền chỉ còn lại lão mù với sắc mặt liên tục biến đổi và Lỗ Nhất Khí đang nằm im bất động.

Ra tới ngoài khoang thuyền, họ không hề nhìn thấy chiến thuyền của đối phương, ngay cả Âu Tử vẫn luôn đứng trên đài quan sát cũng chẳng trông thấy gì. Vì xung quanh họ là màn đêm đen đặc như hồ.

Cuối cùng, Lỗ Nhất Khí cũng đủng đỉnh ra khỏi cửa khoang thuyền, song cậu chẳng buồn nhìn ngó xung quanh, chỉ đứng ở cửa khoang thuyền nói một câu với Bộ Bán Thốn đang đứng lái thuyền:

-Cứ theo kế hoạch cũ, không cần thay đổi! – Nói đoạn, cậu lại quay trở vào khoang thuyền.

Thuỷ Băng Hoa bám theo Lỗ Nhất Khí vào trong, hỏi nhỏ:

-Chắc chắn là không có chuyện gì chứ?

-Không! Tôi chỉ dám chắc trước mắt không có gì đáng ngại! – Lỗ Nhất Khí nắm chặt bàn tay Thuỷ Băng Hoa – Còn nữa, tôi quyết không để chuyện gì xảy ra với chị!

Thuỷ Băng Hoa không nói gì nữa, chỉ nhẹ nhàng ngả đầu dựa vào vai Lỗ Nhất Khí.

Hành trình trên biển vốn dĩ đơn điệu nhạt nhẽo, lại thêm mỗi người trên thuyền đều mang trong lòng một tâm sự kín đáo, nên càng khiến cho không khí nặng nề, thời gian dằng dặc. Thuyền của đối phương vẫn chưa hề lộ diện, song mọi người đều cảm thấy họ đã ở rất gần. Suốt mấy ngày qua, thi thoảng lại nghe thấy tiếng chim ưng rít xen lẫn trong tiếng gió ù ù vẳng lại.

Không khí trên con thuyền mũi sắt đã có sự biến đổi ngấm ngầm. Do tất cả đều là những tay giang hồ lão luyện, nên đều suy đoán được rằng sở dĩ đối thủ có thể bám sát theo sau, chắc chắn là có liên quan tới một người nào đó trên thuyền, nên ai nấy đều ngấm ngầm cảnh giác, đề phòng lẫn nhau.

Đêm nay, đến phiên lão Xoa thế chân giữ bánh lái. Bộ Bán Thốn kín đáo tới bên Lỗ Nhất Khí, ghé sát vào tai cậu thì thầm:

-Ban ngày tôi đã lén kiểm tra mấy món đồ của lão Xoa, số lượng vẫn còn nguyên vẹn! – Trên đường tới hung huyệt, Bộ Bán Thốn cả ngày ở trên bệ lái, lão Xoa lúi húi mày mò gì bên dưới, hắn đều thấy cả. Tuy không nhìn kỹ xem lão làm những món gì, song số lượng bao nhiêu, hắn nhớ rất rõ. Mấy món còi nổi mõ gỗ, còi nước chảy đều là những thứ rất thích hợp để thả xuống nước đánh dấu đường đi. Bởi vậy, hôm nay Bộ Bán Thốn đã lén lút kiểm đếm mọi món đồ lề, ngoài những thứ đã thả xuống quanh hung huyệt, số lượng còn lại không thiếu lấy một cái. Điều này chứng tỏ không phải lão Xoa thả vật dẫn đường.

Lỗ Nhất Khí không nói câu gì, chỉ lẳng lặng ngắm nghía chiếc bình sứ cướp được về từ hung huyệt. Sau nhiều lần quan sát kỹ lưỡng, cậu đã khẳng định đây không phải là sứ Quân Châu, mà là hàng giả từ lò sứ dân gian tại Huy Châu.

Hôm sau, khi trời vừa tảng sáng, Lỗ Nhất Khí chui ra khỏi khoang thuyền đầu tiên, hít căng lồng ngực luồng không khí trong lành trên biển. Lão Xoa đang đứng trên bệ lái, nhìn thấy cậu đi ra có một mình, bèn tiến lại gần thì thào:

-Tôi thấy Âu Tử có vẻ bất thường, một đêm mò lên đi tiểu đến sáu, bảy lượt.

Lỗ Nhất Khí đưa mắt nhìn đài quan sát, lại ngoảnh đầu nhìn về mặt biển mênh mông bất tận phía sau, vẫn không nói một lời.

Tới nửa trưa, Sa Khẩu nấu một mâm cá giáp vẩy trắng thật lớn. Lúc này lương thực mang theo sắp cạn, bởi vậy phần lớn phải nhờ vào việc đánh bắt dọc đường để bổ sung. Song hôm nay Lỗ Nhất Khí không hề thấy ai đi đánh cá, vậy số cá này từ đâu mà có?

-Là Sa Khẩu câu được từ nắp đậy bên cạnh guồng đạp! – Thuỷ Băng Hoa nói với Lỗ Nhất Khí.

Nắp đậy bên cạnh guồng đạp, đây là vị trí rất ít người chú ý tới.

Sau nhiều ngày lênh đênh trên biển, Thuỷ Băng Hoa và lão mù đều đã thích ứng với sinh hoạt trên thuyền. Có điều Thuỷ Băng Hoa vẫn thường chạy ra mạn thuyền nôn oẹ, đây cũng là phản ứng thường thấy ở phụ nữ mang thai. Nhưng mỗi khi nhìn thấy chất nôn của cô ta rơi xuống mặt biển trong xanh, Lỗ Nhất Khí bất giác chau mày nhíu trán.

Lão mù hầu như cả ngày trời ngồi lì trên cọc buộc chão ở đầu thuyền, trong miệng ư ử như ngâm nga câu gì đó, song chẳng ai nghe rõ lời.

Còn Bộ Bán Thốn những ngày qua hầu như chẳng mấy tận tuỵ với chức trách lái thuyền, thường giao bánh lái cho người khác, hoặc là dùng dây chão để cố định. Song trên đường đi hắn lại đích thân quăng mấy mẻ lưới, tuy thu hoạch không thật khả quan, song vẫn có thể giúp mọi người no bụng vài bữa. Lỗ Nhất Khí lấy làm lạ khi thấy lưới đánh cá của hắn có màu đỏ sẫm, khác hẳn với ngư cụ của những người khác. Sa Khẩu mách với Lỗ Nhất Khí, đây là tấm lưới mới, trước khi nhúng nước lần đầu đã được ngâm qua tiết lợn, như vậy mới sử dụng được lâu bền.

Tuy nhìn đâu cũng thấy khả nghi, song đều không phải là cách đánh dấu đường. Có lẽ chẳng là ai cả…

Phía sau con thuyền mũi sắt, cách một đoạn không xa, có hai cỗ chiến thuyền cổ kiểu cách đời Minh đang bám sát. Chúng luôn giữ một khoảng cách thích hợp với con thuyền mũi sắt, khiến cả hai bên đều không nhìn thấy đối phương. Song hễ con thuyền mũi sắt thay đổi hướng đi, hai cỗ chiến thuyền cũng điều chỉnh theo y hệt, đeo bám theo sát hành trình của con thuyền mũi sắt.

Trên đỉnh cột buồm của một cỗ chiến thuyền có treo hai chiếc sáo trúc cỡ lớn, liên tục phát ra những âm thanh rền rĩ như ma rú, như sói tru. Phía trước mũi thuyền đặt một bàn cúng, trên mặt bàn bày la liệt những lư hương, giá nến, bùa chú và ba loại thịt cúng. Trong ánh nến phập phù và khói hương nghi ngút, một lão già áo đen đầu tóc xoã xượi, mắt đỏ như máu, quầng mắt tím đen đang nhảy múa một điệu vũ ma quái, trong miệng không ngớt ê a.

Lão áo đen vừa nhảy nhót vừa bưng một đĩa tàn hương từ trên bàn cúng lên, rồi di chuyển đến phía trước bàn cúng, rắc tàn hương xuống sàn thuyền. Đám tàn hương lập tức tạo thành một đồ hình kỳ quái. Lão áo đen ngừng múa may, trợn trừng cặp mắt đỏ bầm, thận trọng xem xét bức đồ hình.

Một người chực sẵn bên cạnh múc lên một thùng nước biển. Lão áo đen thả đĩa tàn hương xuống, thọc cả hai tay vào thùng, vốc lên hai vốc nước biển, vảy về đám tàn hương trên sàn thuyền. Liền sau đó, lão dạng rộng hai chân ngồi rạp xuống, đầu vươn về phía đám tàn hương, cần cổ lắc giật trông rất quái dị, giống như đang tìm kiếm, cũng giống như đang hít ngửi thứ gì. Một hồi lâu sau, lão mới từ từ đứng dậy, cần cổ vẫn lúc lắc không ngừng, hai tay vươn thẳng lên không rồi lại thu về, vuốt xuống qua hai mắt và gò má. Sau đó mắt nhìn trân trối lên trời, cánh tay chậm rãi vươn về một hướng, bất động như một pho tượng. Những tiếng ê a trong họng nhỏ dần, sau cùng bị tiếng sáo trúc ồn ào nuốt chửng.

Chiến thuyền chuyển hướng, đi theo hướng chỉ của cánh tay đang duỗi thẳng đơ của lão. Ngay trước lúc đó, con thuyền mũi sắt đang đi phía trước cũng vừa bẻ lái theo đúng hướng này…

Lỗ Nhất Khí càng ngày càng cảm thấy thắc thỏm bất an, cảm giác như thể bị vật gì trói chặt. Cậu lo lắng rằng tất cả mọi chuyện cho tới giờ phút này đều do đối thủ sắp xếp từ trước. Sở dĩ nguy hiểm vẫn chưa xuất hiện, bởi vì cậu vẫn còn giá trị lợi dụng. Đối thủ đang im lặng quan sát hành động tiếp theo của cậu, chờ đợi cậu tìm ra thứ bọn chúng muốn tìm.

Phải thoát khỏi tình trạng này! Lỗ Nhất Khí cảm thấy mình cần thiết phải hành động.

Đứng trước mũi thuyền, nhìn đăm đăm vào tầng tầng khói ráng xám đỏ đan xen ở cuối trời tây, một kế hoạch dần dần thành hình trong trí não Lỗ Nhất Khí. Chỉ có phá giải được một điểm này, mới có thể khơi thông được cục thế hỗn độn trước mắt.

Một nét cười hiện trên khéo miệng Lỗ Nhất Khí, chỉ có điều mang theo mấy phần lạnh lẽo.

Trong đêm nay, tới lượt Âu Tử giữ bánh lái. Khi mọi người đều đã ngủ say, Lỗ Nhất Khí lặng lẽ chui ra khỏi khoang thuyền, leo lên bệ lái.

Âu Tử không nói gì, chỉ hơi ngạc nhiên nhìn Lỗ Nhất Khí. Mới đầu gã còn ngỡ Lỗ Nhất Khí lại lên cơn mộng du, nhưng khi nhìn vào đôi mắt sáng ngời trong trẻo, nghe thấy lời nói bình tĩnh quyết đoán của cậu, gã biết mình đã lầm.

Lỗ Nhất Khí nói với Âu Tử:

-Vào canh hai đêm nay, hãy kín đáo cho thuyền rẽ xuống phía nam, cố gắng đừng để người khác phát giác. Còn nữa, chuyện này tuyệt đối không được nói với bất kỳ ai, ai hỏi cũng mặc, chỉ cần giữ đúng hướng đi mà tôi đã dặn!

Giọng nói tuy điềm nhiên rất mực, song đối với Âu Tử, đó khác nào một mệnh lệnh quan trọng, nhất thiết phải chấp hành không được phép xảy ra sai sót.

Lúc này đã quá canh ba, Lỗ Nhất Khí vẫn hai mắt chong chong. Cậu không hề ngủ, cậu đang chờ đợi. Trong khoang thuyền tối đen như mực, Lỗ Nhất Khí không thể nhìn thấy bất cứ thứ gì. Bên tai ngoài tiếng sóng vỗ mạn thuyền, cậu cũng chẳng nghe thấy âm thanh nào khác. Thứ duy nhất cậu có thể cảm giác thấy, chính là nhiệt độ trong khoang thuyền trước sau đã biến đổi hai lần. Cậu chắc chắn rằng đó là khi cửa khoang thuyền bị ai đó lén lút mở ra, khiến khí lạnh trên biển luồn vào bên trong.

Có người đã lén lút ra vào khoang thuyền. Là ai?

Rạng sáng hôm sau, khi Bộ Bán Thốn đi lên đổi lái cho Âu Tử, thì phát hiện ra gã đã chết!

Âu Tử ngồi trên đòn ngang của bánh lái, xoay lưng lại phía mũi thuyền, bị ai đó đâm thấu tim từ phía sau lưng. Sa Khẩu, lão mù cùng kiểm tra vết thương của Âu Tử, đều cho rằng vết thương có lẽ do thứ vũ khí mũi tròn sắc nhọn một nhánh tạo ra. Nếu ở trên thuyền nhiều khả năng nhất chính là lăng xoa một nhánh.

Bộ Bán Thốn vừa nghe nói vậy, lập tức tung mình nhảy xuống bệ lái, tháo tung bó vải gai bọc đám mâu, xoa, phi lao, đinh ba ra để kiểm tra. Những người khác đều xúm cả lại cùng xem, trên bệ lái lúc này chỉ còn một mình Lỗ Nhất Khí tiếp tục xem xét kỹ lưỡng vết thương của Âu Tử.

Bộ Bán Thốn không phát hiện ra điểm gì đáng ngờ từ số lượng và hình thù của đám vũ khí. Mọi người đều quay đầu lại nhìn Lỗ Nhất Khí đang đứng trên bệ lái, chờ đợi cậu đưa ra quyết định. Ánh mắt Lỗ Nhất Khí quét một lượt qua tất cả các khuôn mặt, sau đó bình thản nói:

-Trước hết hãy lo hậu sự cho Âu Tử đã!

Nói xong, cậu bước thẳng xuống khỏi bệ lái, lầm lũi đi về phía khoang thuyền. Vào lúc cậu cúi thấp đầu chuẩn bị bước vào bên trong, lại đột nhiên dừng bước ngẩng đầu lên hỏi:

-Hướng thuyền đã thay đổi rồi phải không?

Bộ Bán Thốn ngửa đầu nhìn mặt trời, vuốt vuốt mớ tóc bị gió biển thổi tung, trả lời chắc như đinh đóng cột.

-Không phải, vẫn như tối qua, cậu cứ yên tâm!

Lỗ Nhất Khí không hỏi gì thêm nữa, cúi đầu bước vào trong khoang.

Một bầu im lặng nặng nề bao trùm khắp boong thuyền, thế nhưng câu hỏi của Lỗ Nhất Khí đã khiến cho có kẻ trong lòng nổi sóng.

Trong hai ngày tiếp theo, không khí trên thuyền càng trở nên căng thẳng gấp bội. Mỗi người đều cảm nhận rõ mối nguy hiểm đang kề cận bên mình, chẳng ai dám trao đổi gì với người khác nữa.

Bộ Bán Thốn lại tới gặp Lỗ Nhất Khí:

-Âu Tử có lẽ đã phát hiện ra điều gì đó nên mới bị diệt khẩu. Thứ giết chết hắn là vũ khí thuộc loại mâu lao xoa kích, lực đâm thấu suốt lồng ngực trước sau. Trên thuyền người giỏi sử dụng mâu lao xoa kích chỉ có tôi và lão Xoa, đáng tiếc là ngay cả tôi cũng chẳng có cách nào để chứng minh bản thân trong sạch.

Lúc này, Lỗ Nhất Khí đang nhìn chăm chú vào chiếc bình sứ để trong một góc. Chiếc bình sứ mang lại cho cậu một cảm giác hết sức quái lạ, tuy nó chỉ là đồ giả, song lại có hơi thở bình ổn sâu dài giống hệt như hàng thật, nhưng trong hơi thở của nó rõ ràng chứa đựng nhiều hàm nghĩa hơn thế. Cậu luôn cảm thấy hình như đã tiếp xúc với loại bình tương tự ở một nơi nào, chỉ có điều khi đó không mấy lưu tâm.

Mãi sau, Lỗ Nhất Khí mới lên tiếng:

-Tuy Âu Tử có tài nhìn xa, song căn cứ vào tâm tính của anh ta, e rằng khó lòng phát hiện ra được bí mật gì. Tôi cảm thấy có lẽ anh ta đã làm điều gì khiến ai đó phật ý. Còn về hung thủ giết người, tôi nghĩ bất kỳ ai trên thuyền cũng có chỗ khả nghi.

Dừng lại một lát, cậu lại nói thêm một câu hàm hồ:

-Khó nói tốt xấu, song lưới đã thu lại chút ít, chỉ là cá chưa chịu lộ lưng!

-Bởi vì xung quanh hung huyệt có trường khí cực âm, cực hàn bao phủ. – Lỗ Nhất Khí trả lời.

-Vậy thuyền của chúng ta làm sao lại thoát khỏi lực hút của hung huyệt? Hơn nữa, sau khi áp sát hung huyệt, trạng thái của chúng ta lại khá hơn rất nhiều? – Bộ Bán Thốn gượng ngồi dậy hỏi.

-Điều này thì tôi cũng không biết… – Lỗ Nhất Khí cũng cảm thấy băn khoăn.

-Tôi biết! – Lão mù ngồi cạnh cười khẽ một tiếng rồi tiếp lời – Bởi lẽ trên thuyền của chúng ta có khí huyết tiên thiên của tiên thiên đồng tử trấn giữ. Nếu không có tiên thiên đồng tử, ngay từ khi gặp ảo ảnh thuyền, chúng ta đã bị đâm tan xác rồi!

Tiên thiên đồng tử? Lại chuyện viển vông gì nữa? Mọi người đều cho rằng lão mù đang ăn ốc nói mò.

Lão mù đã nghe ra thái độ coi thường phì ra từ miệng mũi Bộ Bán Thốn.

-Thật đấy! – Lão mù có vẻ hơi bực.

-Chú Hạ, chú hãy nói xem ai là tiên thiên đồng tử? – Thuỷ Băng Hoa hỏi.

-Chị không biết à? Quái thật! Sao chị lại không biết nhỉ? – Vẻ mặt lão mù đầy sửng sốt.

-Làm sao mà tôi biết được? – Thuỷ Băng Hoa vặc lại.

-Là chị chứ còn ai!

-Làm sao lại là tôi được?

-Bày trò gì thế hả lão Hạ?

-Một người đàn bà sao có thể là tiên thiên đồng tử?

-Đừng ồn, hãy nghe tôi nói! Mọi người có biết thế nào gọi là tiên thiên đồng tử không? – Thấy không ai nói gì, lão mù có phần đắc ý, nói tiếp – Đương nhiên chị ta không phải là tiên thiên đồng tử, nhưng chị ta có tiên thiên đồng tử!

-Này lão Hạ, ý lão muốn nói là cô ta đang mang thai, lại còn là con trai ư? – Bộ Bán Thốn chợt nhớ tới một sự việc kỳ lạ xảy ra trước đó – Thảo nào ở bên ngoài bãi đá quỷ Bách Biến, khi thuyền ma sắp đâm vào mạn thuyền, cả hai gã đàn ông to xác đều không đẩy nổi con thuyền ra xa, mà cô em đây vừa ra khỏi khoang thuyền, bọn chúng đã vội vàng tháo chạy. Là vì ma quỷ sợ thiên huyết của bào thai, sẽ khiến chúng vĩnh viễn không thể siêu sinh.

Bùa Phún dương! – Giờ thì Lỗ Nhất Khí cũng đã hiểu ra, Thuỷ Băng Hoa đã vô tình dùng dòng linh huyết tiên thiên mang dương khí của tiên thiên đồng tử vạch thành đồ hình bùa Phún dương trên mũi thuyền sắt, nhờ vậy mới hoá giải được lực hút âm sát cực độ từ hung huyệt. Nếu không có sự trùng hợp ngẫu nhiên này, bọn họ đã sớm vùi thân nơi đáy biển. Sau đó, Lỗ Nhất Khí mới nhận thức được một sự việc hệ trọng khác: cậu chính là cha của tiên thiên đồng tử! Thảo nào khi ở bãi đá quỷ Bách Biến, trong ánh mắt oán hận của Thuỷ Băng Hoa lại nổi lên sắc máu, và cậu đã cảm giác thấy sự tồn tại của mình trong đó.

-Không chỉ là bùa Phún dương, còn có mấy lá bùa chữ “Vũ” mà cậu lén đưa cho chị ta mang dán. Nếu không có những lá bùa do đích thân tiên thiên đồng tử dán, chắc hẳn chúng ta đã bị ảo ảnh thuyền đâm vỡ vụn! – Lão mù nói xong, bèn quay sang Thuỷ Băng Hoa hỏi lại – Đúng là chị không biết gì thật ư?

Thuỷ Băng Hoa quả thực không biết. Cô ta bẩm sinh đã là thạch nữ, chưa hề thấy kinh kỳ hàng tháng giống như con gái bình thường, bởi vậy sau khi mang thai cũng chẳng thấy có gì khác trước.

Ký ức của Lỗ Nhất Khí đang mau chóng xoay ngược. Cậu dường như lại nhìn thấy khuôn mặt ai oán đầy nước mắt của Dưỡng Quỷ Tỳ trên con thuyền ma hôm đó. Lúc này, cậu mới hiểu nỗi ai oán của cô là do đâu. Một cảm giác xót thương, day dứt bỗng nghẹn ứ nơi cổ họng. Quay đầu lại nhìn Thuỷ Băng Hoa, cậu thấy cô cũng đang nhìn mình với ánh mắt hân hoan xen lẫn ngượng ngùng, thì niềm xúc động, an hoà lại dâng đầy trong lồng ngực. Hai luồng cảm giác đan xen khiến trí não cậu bỗng chốc rối bời.

Bộ Bán Thốn đặt tay lên vai lão mù, nói:

-Lão Hạ, hãy dìu tôi ra bên ngoài hít thở một chút!

Gò má lão mù giật lên, lộ ra một nụ cười cổ quái, sau đó đứng dậy dịu Bộ Bán Thốn bước về phía bậc tam cấp. Vừa đặt chân lên bậc thang, cả hai bỗng đồng thời quay người ngoảnh nhìn Lỗ Nhất Khí. Bộ Bán Thốn hạ giọng thật thấp hỏi:

-Cậu cả, nơi chúng ta đang tới liệu có bảo bối không?

Câu hỏi của hắn đã kéo Lỗ Nhất Khí thoát khỏi mớ suy nghĩ rối bời. Song cậu lờ mờ cảm giác rằng, hình như không chỉ có ba người trước mặt đang chờ đợi câu trả lời, mà còn có một ai khác cũng đang nín thở rình lấy từng lời thốt ra từ miệng cậu.

Lỗ Nhất Khí ngửa mặt, duỗi thẳng cần cổ, khẽ vuốt nhẹ cổ tay đứt cụt, sau đó mới bình thản nói rành mạch từng tiếng một:

-Có! Chắc chắn là có!

Song không một ai hiểu nổi ánh mắt của cậu lúc này.

Ở phía nam Nhật Bản, phía đông bắc Đài Loan có một hải vực hình tam giác mênh mông vắng lặng. Hải vực này có rất nhiều tên gọi, trong đó, cái tên dễ hiểu và phổ biến nhất là “tam giác Rồng ma quỷ”. Trong hải vực kinh hoàng này, từng xảy ra không biết bao nhiêu hiện tượng lạ lùng và tai nạn thảm khốc, cũng không biết đã vùi chôn bao nhiêu xác thuyền và xác người.

Có rất nhiều giả thuyết khác nhau về sự hình thành của tam giác Rồng, trong đó có một giả thuyết liên quan đến góc lệch từ. Đây là một hiện tượng tự nhiên do cực từ nam bắc của địa cầu không trùng khớp với cực nam bắc địa lý. Giả thuyết này hoàn toàn phù hợp với việc con thuyền mũi sắt của Lỗ Nhất Khí bị lực hấp dẫn hút chặt lấy, đồng thời hiện tượng “ảo ảnh thuyền” cũng có thể là kết quả do hiện tượng từ gây ra. Một giả thuyết nữa là thuyết dòng biển nóng, cho rằng dòng biển nóng sẽ dẫn đến sương mù và vòi rồng, khiến thuyền mất phương hướng, va phải đá ngầm, hoặc trực tiếp bị vòi rồng lật úp, giống như hiện tượng tường sương mù mà đám Lỗ Nhất Khí đã gặp phải. Ngoài ra, còn có một giả thuyết nữa là thuyết động đất sóng thần, cho rằng ở vùng biển sâu phía tây của tam giác Rồng là nơi lớp vỏ trái đất mỏng và yếu nhất, nguồn năng lượng khổng lồ của nham thạch có thể dội lên mặt biển bất cứ lúc nào, mà không hề có một dấu hiệu gì báo trước, song cũng sẽ tiêu biến trong chớp mắt. Khi có động đất xảy ra tại các khối địa tầng dưới lòng đại dương, sóng siêu âm truyền tới tầng trên cùng của mặt biển sẽ hình thành sóng thần. Đó chính là nguyên do gây ra hiện tượng ánh sáng dưới đáy biển, tiếng hát ma quái, bùn biển nổi lên và cuối cùng là cơn sóng lừng khủng khiếp mà đám Lỗ Nhất Khí đã phải đương đầu.

Nhưng trong quan niệm của người phía Lỗ gia, theo thuyết Bát bảo định cõi phàm, nơi đó chính là một hung huyệt, một hung huyệt chưa được Địa bảo trấn áp.

Con thuyền mũi sắt thay đổi hướng đi, tác dụng lớn nhất chính là đã cắt đuôi được đám chiến thuyền đeo bám. Trừ phi đối phương có phép tiên tri, nếu không, chỉ dựa theo điều kiện kỹ thuật lúc bấy giờ, muốn tìm ra một con thuyền đánh cá không hề to lớn trên đại dương mênh mông là hoàn toàn không thể. Thế nhưng trong đêm tối mịt mờ, thình lình một tiếng chim ưng rít lên chói lói khiến tất cả mọi người giật mình choàng tỉnh khỏi cơn mơ màng.

Lão mù nhảy dựng lên:

-Chim ưng săn mỏ hoa Trường Bạch!

Tại sao chim ưng săn lại xuất hiện trên mặt biển? Chỉ có một khả năng duy nhất, chiến thuyền của đối thủ đã bám sát không xa. Tại sao đối thủ lại có thể đuổi kịp con thuyền? Cũng chỉ có một khả năng, trên thuyền mũi sắt có người cố tình lưu lại dấu vết suốt dọc đường đi.

-Tới rồi! Đúng là đã tới rồi… – Lão mù đứng ngây ra tại chỗ mà lẩm bẩm.

Lỗ Nhất Khí không ngồi dậy, mà vẫn nằm im lặng, chăm chú lắng nghe tiếng gào rít của chim ưng, và cả những âm thanh khác nữa. Lão mù chắc hẳn cũng đã nghe ra những âm thanh đó, dưới ánh đèn chập chờn mờ tỏ trong khoang thuyền, cơ bắp trên khuôn mặt lão đang phải chịu đựng những cơn co giật rất khó phát giác.

-Âm thanh đó còn cách bao xa? – Lỗ Nhất Khí đột nhiên lên tiếng hỏi.

-Không xa! Có thể nhìn thấy được! – Sa Khẩu đáp.

Sa Khẩu và lão Xoa đưa mắt nhìn nhau, rồi cùng chạy thục mạng ra ngoài khoang thuyền. Thuỷ Băng Hoa cũng bò dậy, sấp ngửa chạy theo bọn họ. Trong khoang thuyền chỉ còn lại lão mù với sắc mặt liên tục biến đổi và Lỗ Nhất Khí đang nằm im bất động.

Ra tới ngoài khoang thuyền, họ không hề nhìn thấy chiến thuyền của đối phương, ngay cả Âu Tử vẫn luôn đứng trên đài quan sát cũng chẳng trông thấy gì. Vì xung quanh họ là màn đêm đen đặc như hồ.

Cuối cùng, Lỗ Nhất Khí cũng đủng đỉnh ra khỏi cửa khoang thuyền, song cậu chẳng buồn nhìn ngó xung quanh, chỉ đứng ở cửa khoang thuyền nói một câu với Bộ Bán Thốn đang đứng lái thuyền:

-Cứ theo kế hoạch cũ, không cần thay đổi! – Nói đoạn, cậu lại quay trở vào khoang thuyền.

Thuỷ Băng Hoa bám theo Lỗ Nhất Khí vào trong, hỏi nhỏ:

-Chắc chắn là không có chuyện gì chứ?

-Không! Tôi chỉ dám chắc trước mắt không có gì đáng ngại! – Lỗ Nhất Khí nắm chặt bàn tay Thuỷ Băng Hoa – Còn nữa, tôi quyết không để chuyện gì xảy ra với chị!

Thuỷ Băng Hoa không nói gì nữa, chỉ nhẹ nhàng ngả đầu dựa vào vai Lỗ Nhất Khí.

Hành trình trên biển vốn dĩ đơn điệu nhạt nhẽo, lại thêm mỗi người trên thuyền đều mang trong lòng một tâm sự kín đáo, nên càng khiến cho không khí nặng nề, thời gian dằng dặc. Thuyền của đối phương vẫn chưa hề lộ diện, song mọi người đều cảm thấy họ đã ở rất gần. Suốt mấy ngày qua, thi thoảng lại nghe thấy tiếng chim ưng rít xen lẫn trong tiếng gió ù ù vẳng lại.

Không khí trên con thuyền mũi sắt đã có sự biến đổi ngấm ngầm. Do tất cả đều là những tay giang hồ lão luyện, nên đều suy đoán được rằng sở dĩ đối thủ có thể bám sát theo sau, chắc chắn là có liên quan tới một người nào đó trên thuyền, nên ai nấy đều ngấm ngầm cảnh giác, đề phòng lẫn nhau.

Đêm nay, đến phiên lão Xoa thế chân giữ bánh lái. Bộ Bán Thốn kín đáo tới bên Lỗ Nhất Khí, ghé sát vào tai cậu thì thầm:

-Ban ngày tôi đã lén kiểm tra mấy món đồ của lão Xoa, số lượng vẫn còn nguyên vẹn! – Trên đường tới hung huyệt, Bộ Bán Thốn cả ngày ở trên bệ lái, lão Xoa lúi húi mày mò gì bên dưới, hắn đều thấy cả. Tuy không nhìn kỹ xem lão làm những món gì, song số lượng bao nhiêu, hắn nhớ rất rõ. Mấy món còi nổi mõ gỗ, còi nước chảy đều là những thứ rất thích hợp để thả xuống nước đánh dấu đường đi. Bởi vậy, hôm nay Bộ Bán Thốn đã lén lút kiểm đếm mọi món đồ lề, ngoài những thứ đã thả xuống quanh hung huyệt, số lượng còn lại không thiếu lấy một cái. Điều này chứng tỏ không phải lão Xoa thả vật dẫn đường.

Lỗ Nhất Khí không nói câu gì, chỉ lẳng lặng ngắm nghía chiếc bình sứ cướp được về từ hung huyệt. Sau nhiều lần quan sát kỹ lưỡng, cậu đã khẳng định đây không phải là sứ Quân Châu, mà là hàng giả từ lò sứ dân gian tại Huy Châu.

Hôm sau, khi trời vừa tảng sáng, Lỗ Nhất Khí chui ra khỏi khoang thuyền đầu tiên, hít căng lồng ngực luồng không khí trong lành trên biển. Lão Xoa đang đứng trên bệ lái, nhìn thấy cậu đi ra có một mình, bèn tiến lại gần thì thào:

-Tôi thấy Âu Tử có vẻ bất thường, một đêm mò lên đi tiểu đến sáu, bảy lượt.

Lỗ Nhất Khí đưa mắt nhìn đài quan sát, lại ngoảnh đầu nhìn về mặt biển mênh mông bất tận phía sau, vẫn không nói một lời.

Tới nửa trưa, Sa Khẩu nấu một mâm cá giáp vẩy trắng thật lớn. Lúc này lương thực mang theo sắp cạn, bởi vậy phần lớn phải nhờ vào việc đánh bắt dọc đường để bổ sung. Song hôm nay Lỗ Nhất Khí không hề thấy ai đi đánh cá, vậy số cá này từ đâu mà có?

-Là Sa Khẩu câu được từ nắp đậy bên cạnh guồng đạp! – Thuỷ Băng Hoa nói với Lỗ Nhất Khí.

Nắp đậy bên cạnh guồng đạp, đây là vị trí rất ít người chú ý tới.

Sau nhiều ngày lênh đênh trên biển, Thuỷ Băng Hoa và lão mù đều đã thích ứng với sinh hoạt trên thuyền. Có điều Thuỷ Băng Hoa vẫn thường chạy ra mạn thuyền nôn oẹ, đây cũng là phản ứng thường thấy ở phụ nữ mang thai. Nhưng mỗi khi nhìn thấy chất nôn của cô ta rơi xuống mặt biển trong xanh, Lỗ Nhất Khí bất giác chau mày nhíu trán.

Lão mù hầu như cả ngày trời ngồi lì trên cọc buộc chão ở đầu thuyền, trong miệng ư ử như ngâm nga câu gì đó, song chẳng ai nghe rõ lời.

Còn Bộ Bán Thốn những ngày qua hầu như chẳng mấy tận tuỵ với chức trách lái thuyền, thường giao bánh lái cho người khác, hoặc là dùng dây chão để cố định. Song trên đường đi hắn lại đích thân quăng mấy mẻ lưới, tuy thu hoạch không thật khả quan, song vẫn có thể giúp mọi người no bụng vài bữa. Lỗ Nhất Khí lấy làm lạ khi thấy lưới đánh cá của hắn có màu đỏ sẫm, khác hẳn với ngư cụ của những người khác. Sa Khẩu mách với Lỗ Nhất Khí, đây là tấm lưới mới, trước khi nhúng nước lần đầu đã được ngâm qua tiết lợn, như vậy mới sử dụng được lâu bền.

Tuy nhìn đâu cũng thấy khả nghi, song đều không phải là cách đánh dấu đường. Có lẽ chẳng là ai cả…

Phía sau con thuyền mũi sắt, cách một đoạn không xa, có hai cỗ chiến thuyền cổ kiểu cách đời Minh đang bám sát. Chúng luôn giữ một khoảng cách thích hợp với con thuyền mũi sắt, khiến cả hai bên đều không nhìn thấy đối phương. Song hễ con thuyền mũi sắt thay đổi hướng đi, hai cỗ chiến thuyền cũng điều chỉnh theo y hệt, đeo bám theo sát hành trình của con thuyền mũi sắt.

Trên đỉnh cột buồm của một cỗ chiến thuyền có treo hai chiếc sáo trúc cỡ lớn, liên tục phát ra những âm thanh rền rĩ như ma rú, như sói tru. Phía trước mũi thuyền đặt một bàn cúng, trên mặt bàn bày la liệt những lư hương, giá nến, bùa chú và ba loại thịt cúng. Trong ánh nến phập phù và khói hương nghi ngút, một lão già áo đen đầu tóc xoã xượi, mắt đỏ như máu, quầng mắt tím đen đang nhảy múa một điệu vũ ma quái, trong miệng không ngớt ê a.

Lão áo đen vừa nhảy nhót vừa bưng một đĩa tàn hương từ trên bàn cúng lên, rồi di chuyển đến phía trước bàn cúng, rắc tàn hương xuống sàn thuyền. Đám tàn hương lập tức tạo thành một đồ hình kỳ quái. Lão áo đen ngừng múa may, trợn trừng cặp mắt đỏ bầm, thận trọng xem xét bức đồ hình.

Một người chực sẵn bên cạnh múc lên một thùng nước biển. Lão áo đen thả đĩa tàn hương xuống, thọc cả hai tay vào thùng, vốc lên hai vốc nước biển, vảy về đám tàn hương trên sàn thuyền. Liền sau đó, lão dạng rộng hai chân ngồi rạp xuống, đầu vươn về phía đám tàn hương, cần cổ lắc giật trông rất quái dị, giống như đang tìm kiếm, cũng giống như đang hít ngửi thứ gì. Một hồi lâu sau, lão mới từ từ đứng dậy, cần cổ vẫn lúc lắc không ngừng, hai tay vươn thẳng lên không rồi lại thu về, vuốt xuống qua hai mắt và gò má. Sau đó mắt nhìn trân trối lên trời, cánh tay chậm rãi vươn về một hướng, bất động như một pho tượng. Những tiếng ê a trong họng nhỏ dần, sau cùng bị tiếng sáo trúc ồn ào nuốt chửng.

Chiến thuyền chuyển hướng, đi theo hướng chỉ của cánh tay đang duỗi thẳng đơ của lão. Ngay trước lúc đó, con thuyền mũi sắt đang đi phía trước cũng vừa bẻ lái theo đúng hướng này…

Lỗ Nhất Khí càng ngày càng cảm thấy thắc thỏm bất an, cảm giác như thể bị vật gì trói chặt. Cậu lo lắng rằng tất cả mọi chuyện cho tới giờ phút này đều do đối thủ sắp xếp từ trước. Sở dĩ nguy hiểm vẫn chưa xuất hiện, bởi vì cậu vẫn còn giá trị lợi dụng. Đối thủ đang im lặng quan sát hành động tiếp theo của cậu, chờ đợi cậu tìm ra thứ bọn chúng muốn tìm.

Phải thoát khỏi tình trạng này! Lỗ Nhất Khí cảm thấy mình cần thiết phải hành động.

Đứng trước mũi thuyền, nhìn đăm đăm vào tầng tầng khói ráng xám đỏ đan xen ở cuối trời tây, một kế hoạch dần dần thành hình trong trí não Lỗ Nhất Khí. Chỉ có phá giải được một điểm này, mới có thể khơi thông được cục thế hỗn độn trước mắt.

Một nét cười hiện trên khéo miệng Lỗ Nhất Khí, chỉ có điều mang theo mấy phần lạnh lẽo.

Trong đêm nay, tới lượt Âu Tử giữ bánh lái. Khi mọi người đều đã ngủ say, Lỗ Nhất Khí lặng lẽ chui ra khỏi khoang thuyền, leo lên bệ lái.

Âu Tử không nói gì, chỉ hơi ngạc nhiên nhìn Lỗ Nhất Khí. Mới đầu gã còn ngỡ Lỗ Nhất Khí lại lên cơn mộng du, nhưng khi nhìn vào đôi mắt sáng ngời trong trẻo, nghe thấy lời nói bình tĩnh quyết đoán của cậu, gã biết mình đã lầm.

Lỗ Nhất Khí nói với Âu Tử:

-Vào canh hai đêm nay, hãy kín đáo cho thuyền rẽ xuống phía nam, cố gắng đừng để người khác phát giác. Còn nữa, chuyện này tuyệt đối không được nói với bất kỳ ai, ai hỏi cũng mặc, chỉ cần giữ đúng hướng đi mà tôi đã dặn!

Giọng nói tuy điềm nhiên rất mực, song đối với Âu Tử, đó khác nào một mệnh lệnh quan trọng, nhất thiết phải chấp hành không được phép xảy ra sai sót.

Lúc này đã quá canh ba, Lỗ Nhất Khí vẫn hai mắt chong chong. Cậu không hề ngủ, cậu đang chờ đợi. Trong khoang thuyền tối đen như mực, Lỗ Nhất Khí không thể nhìn thấy bất cứ thứ gì. Bên tai ngoài tiếng sóng vỗ mạn thuyền, cậu cũng chẳng nghe thấy âm thanh nào khác. Thứ duy nhất cậu có thể cảm giác thấy, chính là nhiệt độ trong khoang thuyền trước sau đã biến đổi hai lần. Cậu chắc chắn rằng đó là khi cửa khoang thuyền bị ai đó lén lút mở ra, khiến khí lạnh trên biển luồn vào bên trong.

Có người đã lén lút ra vào khoang thuyền. Là ai?

Rạng sáng hôm sau, khi Bộ Bán Thốn đi lên đổi lái cho Âu Tử, thì phát hiện ra gã đã chết!

Âu Tử ngồi trên đòn ngang của bánh lái, xoay lưng lại phía mũi thuyền, bị ai đó đâm thấu tim từ phía sau lưng. Sa Khẩu, lão mù cùng kiểm tra vết thương của Âu Tử, đều cho rằng vết thương có lẽ do thứ vũ khí mũi tròn sắc nhọn một nhánh tạo ra. Nếu ở trên thuyền nhiều khả năng nhất chính là lăng xoa một nhánh.

Bộ Bán Thốn vừa nghe nói vậy, lập tức tung mình nhảy xuống bệ lái, tháo tung bó vải gai bọc đám mâu, xoa, phi lao, đinh ba ra để kiểm tra. Những người khác đều xúm cả lại cùng xem, trên bệ lái lúc này chỉ còn một mình Lỗ Nhất Khí tiếp tục xem xét kỹ lưỡng vết thương của Âu Tử.

Bộ Bán Thốn không phát hiện ra điểm gì đáng ngờ từ số lượng và hình thù của đám vũ khí. Mọi người đều quay đầu lại nhìn Lỗ Nhất Khí đang đứng trên bệ lái, chờ đợi cậu đưa ra quyết định. Ánh mắt Lỗ Nhất Khí quét một lượt qua tất cả các khuôn mặt, sau đó bình thản nói:

-Trước hết hãy lo hậu sự cho Âu Tử đã!

Nói xong, cậu bước thẳng xuống khỏi bệ lái, lầm lũi đi về phía khoang thuyền. Vào lúc cậu cúi thấp đầu chuẩn bị bước vào bên trong, lại đột nhiên dừng bước ngẩng đầu lên hỏi:

-Hướng thuyền đã thay đổi rồi phải không?

Bộ Bán Thốn ngửa đầu nhìn mặt trời, vuốt vuốt mớ tóc bị gió biển thổi tung, trả lời chắc như đinh đóng cột.

-Không phải, vẫn như tối qua, cậu cứ yên tâm!

Lỗ Nhất Khí không hỏi gì thêm nữa, cúi đầu bước vào trong khoang.

Một bầu im lặng nặng nề bao trùm khắp boong thuyền, thế nhưng câu hỏi của Lỗ Nhất Khí đã khiến cho có kẻ trong lòng nổi sóng.

Trong hai ngày tiếp theo, không khí trên thuyền càng trở nên căng thẳng gấp bội. Mỗi người đều cảm nhận rõ mối nguy hiểm đang kề cận bên mình, chẳng ai dám trao đổi gì với người khác nữa.

Bộ Bán Thốn lại tới gặp Lỗ Nhất Khí:

-Âu Tử có lẽ đã phát hiện ra điều gì đó nên mới bị diệt khẩu. Thứ giết chết hắn là vũ khí thuộc loại mâu lao xoa kích, lực đâm thấu suốt lồng ngực trước sau. Trên thuyền người giỏi sử dụng mâu lao xoa kích chỉ có tôi và lão Xoa, đáng tiếc là ngay cả tôi cũng chẳng có cách nào để chứng minh bản thân trong sạch.

Lúc này, Lỗ Nhất Khí đang nhìn chăm chú vào chiếc bình sứ để trong một góc. Chiếc bình sứ mang lại cho cậu một cảm giác hết sức quái lạ, tuy nó chỉ là đồ giả, song lại có hơi thở bình ổn sâu dài giống hệt như hàng thật, nhưng trong hơi thở của nó rõ ràng chứa đựng nhiều hàm nghĩa hơn thế. Cậu luôn cảm thấy hình như đã tiếp xúc với loại bình tương tự ở một nơi nào, chỉ có điều khi đó không mấy lưu tâm.

Mãi sau, Lỗ Nhất Khí mới lên tiếng:

-Tuy Âu Tử có tài nhìn xa, song căn cứ vào tâm tính của anh ta, e rằng khó lòng phát hiện ra được bí mật gì. Tôi cảm thấy có lẽ anh ta đã làm điều gì khiến ai đó phật ý. Còn về hung thủ giết người, tôi nghĩ bất kỳ ai trên thuyền cũng có chỗ khả nghi.

Dừng lại một lát, cậu lại nói thêm một câu hàm hồ:

-Khó nói tốt xấu, song lưới đã thu lại chút ít, chỉ là cá chưa chịu lộ lưng!

Chọn tập
Bình luận