Tại một cánh đồng hoang xa xôi, vào ban đêm, bóng tối cô đặc lại thành một bóng dáng mờ ảo rất lớn. Nó cô đặc cho tới khi hiện hình thành một vật thể khổng lồ toàn màu đen trong bóng đêm như mực trên cánh đồng hoang nọ. Tuy vóc dáng chưa thật rõ song nó đã đứng trên bốn chân và trong đôi mắt của cái đầu bù xù khổng lồ rực lên ánh lửa xanh. Nó nghếch mõm đánh hơi một lúc lâu. Chợt nó có vẻ đã đánh hơi được cái mùi đang tìm kiếm, vì từ họng nó hắt ra một tiếng kêu căm phẫn trầm và đắc thắng.
Rồi nó phóng băng băng không một tiếng động trong đêm tối không một ánh sao.
Tháp đồng hồ điểm mười một giờ. Đã đến giờ ra chơi. Từ hành lang vẳng lên tiếng trẻ la ó chạy ào ra sân trường.
Bastian – vẫn ngồi xếp bằng trên lớp nệm dùng tập thể dục – cảm thấy chân tê chồn. Nó có phải người da đỏ[6] đâu. Nó đứng lên lấy từ trong cặp bánh mì và quả táo – để ăn lúc ra chơi – rồi đi đi lại lại một chút trong kho cho chân đỡ tê.
[6] Có lẽ người da đỏ quen ngồi xếp bằng (như ta vẫn hay thấy trong phim “cao bồi” Mỹ) chăng?
Rồi nó leo lên ngồi vắt vẻo trên con ngựa gỗ, tưởng tượng mình là Atréju phi nước đại trong đêm trên lưng con Artax. Nó ôm cổ ngựa.
– Họ! Nó kêu. Phi, Artax, họ! Họ!
Nó hết hồn. La to thế thì thật là quá thiếu thận trọng. Lỡ có ai nghe thấy thì sao? Nó chờ một lúc, lắng nghe. Song chỉ có những tiếng la trên sân trường vọng lên thôi.
Nó thấy hơi xấu hổ, trèo khỏi ngựa gỗ vì thấy mình cứ như một đứa con nít!
Bastian mở gói bánh mì, chùi táo vào quần thật kỹ, nhưng chưa cắn đã vội ngừng lại.
– Không được, nó nói to với chính mình, mình phải chia thức ăn dự trữ cẩn thận. Ai biết được mình phải sống với chỗ thức ăn này bao lâu nữa.
Nó miễn cưỡng gói bánh mì lại nhét vào cặp cùng với trái táo, rồi thở dài ngồi xuống nệm, với tay cầm quyển sách.
III. Bà cố Morla
Cairon – lão Người-ngựa đen lại ngả người nằm xuống những tấm da mềm sau khi nghe tiếng vó ngựa của Atréju đã nhỏ dần. Lão đã gắng sức đến mệt lả. Hôm sau, những người đàn bà tìm thấy lão trong lều của Atréju đều lấy làm lo cho sinh mạng của lão. Vài hôm sau nữa, khi những người đi săn kéo nhau về trại, lão vẫn chẳng đỡ hơn mấy, nhưng vẫn đủ sức giải thích cho họ biết vì sao Atréju đã cưỡi ngựa ra đi và sẽ không sớm trở về. Ai cũng thương Atréju nên từ hôm đó trở đi mọi người đều nghiêm nghị và thảy đều lo âu nghĩ đến gã. Nhưng, tuy không hiểu mấy, họ vẫn tự hào về việc Nữ-thiếu-hoàng đã chọn gã để trao nhiệm vụ thực hiện cuộc đại tìm kiếm.
Xin nói thêm: lão Cairon không quay trở về Tháp Ngà nữa. Lão không chết, cũng không ở lại Biển Cỏ với Người-da-xanh. Số phận sẽ đưa lão vào một con đường hoàn toàn khác hẳn, không ngờ nổi. Nhưng đó là một chuyện khác và sẽ kể trong một lần khác.
Atréju phi ngựa tới chân Núi Bạc ngay trong đêm hôm ấy. Khi gã dừng bước nghỉ chân thì trời đã gần sáng. Con Artax gặm chút ít cỏ, uống nước nơi một dòng suối trong vắt từ núi chảy ra, còn Atréju cuộn mình trong tấm áo choàng đỏ ngủ vài tiếng đồng hồ. Rồi khi mặt trời mọc thì cả hai đã lại rong ruổi.
Ngày đầu tiên Atréju vượt Núi Bạc. Người và ngựa rành mọi ngóc ngách vùng này nên đi tới rất nhanh. Khi đói, gã ăn một miếng thịt trâu khô và hai cái bánh nhỏ làm bằng hạt cỏ cất trong túi gài nơi yên ngựa – thật ra là mấy món của lần đi săn mới rồi.
– À há! Bastian nói. Thỉnh thoảng người ta cũng phải ăn chút gì chứ.
Nó lấy bánh mì ra khỏi cặp, mở giấy gói, thận trọng bẻ làm hai, bọc một phần nhét vào cặp, phần kia ăn.
Giờ chơi hết rồi, Bastian ngẫm nghĩ xem giờ này lớp nó đang làm gì. À, phải rồi, môn Địa lý với bà Karge. Học trò phải kể tên các sông chính, sông phụ, các thành phố và số dân, khoáng sản và các ngành kỹ nghệ. Bastian nhún vai đọc tiếp.
Khi mặt trời lặn thì rặng Núi Bạc đã ở sau lưng, người ngựa lại dừng chân nghỉ. Tối hôm ấy Atréju mơ thấy những con trâu đỏ màu huyết dụ. Gã thấy chúng từ xa kéo qua Biển Cỏ và gã tìm cách cưỡi ngựa tới gần. Nhưng vô ích. Chúng luôn giữ nguyên khoảng cách, bất kể gã thúc ngựa thế nào đi nữa.
Ngày thứ hai cả hai đi qua vùng đất của những Cây-ca-hát. Mỗi cây có một dáng riêng, lá khác, vỏ khác; sở dĩ vùng đất này có tên gọi như thế vì người ta có thể nghe được cây cối phát triển như một khúc nhạc nhẹ ngân lên gần xa, rồi hòa thành một toàn thể mạnh mẽ mà cả vương quốc Tưởng Tượng không có gì đẹp bằng. Đi qua vùng đất này không phải không nguy hiểm vì đã từng có kẻ ngồi miết như bị mê hoặc và quên hết mọi thứ. Chính Atréju cũng cảm nhận mãnh lực của những giai điệu tuyệt vời này, nhưng gã không để bị mê hoặc mà bỏ dở chuyến đi.
Tối hôm đó gã lại mơ thấy lũ trâu đỏ màu huyết dụ. Lần này gã đi bộ, còn chúng kéo thành một bầy lớn ngang qua mặt gã. Nhưng chúng ở ngoài tầm cung, nên khi định trườn tới gần gã mới nhận thấy hai chân như bị gắn cứng vào đất, không động đậy được. Gã gắng sức kéo chân ra, thế là liền thức giấc. Tuy chưa bình minh nhưng gã đã lên đường ngay.
Ngày thứ ba gã thấy những Tháp thủy tinh của Eribo mà dân vùng này dùng để thu và tích chứa ánh sao. Từ ánh sao họ làm ra những vật trang trí tuyệt đẹp mà dân các vùng khác trong vương quốc Tưởng Tượng không biết công dụng của chúng.
Gã gặp vài người dân vùng này. Họ thấp bé, trông tựa hồ được thổi từ thủy tinh. Họ thân ái chu cấp cho gã đồ ăn thức uống, nhưng khi gã hỏi họ có biết gì về tật bệnh của Nữ-thiếu-hoàng không thì họ âu sầu câm nín tỏ vẻ bất lực. Tối hôm ấy Atréju lại mơ thấy bầy trâu đỏ màu huyết dụ kéo qua trước mặt. Gã thấy một con trâu đực rất lớn, dáng đồ sộ tách khỏi đàn từ từ tiến về phía gã, không có vẻ gì sợ hãi hay tức giận. Như mọi người săn bắn chính hiệu, Atréju cũng có biệt tài thấy ngay phải bắn trúng chỗ nào để hạ nó. Con trâu đỏ màu huyết dụ lại còn đứng chìa chỗ đó ra chẳng khác một tấm bia. Atréju lắp tên, hết sức căng cây cung cứng… nhưng không bắn nổi. Mấy ngón tay gã như dính liền với dây cung, không buông ra được.
Những đêm sau gã đều mơ thấy tương tự như thế. Gã tiến lại gần con trâu đỏ màu huyết dụ, gần thêm mãi – nhân tiện nói thêm đó chính là con trâu gã đã định hạ trong lần đi săn mới đây[1], gã nhận ra qua một bớt trắng trên trán nó – nhưng không hiểu sao gã không bắn mũi tên chí tử đi được.
[1] Nguyên văn “đã định hạ trên thực tế”, người dịch sửa lại cho rõ nghĩa.
Ban ngày gã phi ngựa đi tới, đi tới mãi mà không biết đi đâu, không gặp ai có thể chỉ đường giúp gã. Mọi sinh linh đều kính nể tấm bùa vàng gã đeo, nhưng không ai trả lời được điều gã hỏi.
Một lần gã nhận ra từ xa con đường lửa của thành phố Brousch, nơi sinh sống của những sinh linh có thân thể bằng lửa, nhưng gã thấy không nên vào đây. Gã cho ngựa chạy qua cao nguyên mênh mông của người Sassafranier, họ sinh ra khi già và chết khi thành trẻ sơ sinh. Gã tới ngôi đền có một cây cột lớn bằng nguyệt thạch lơ lửng trong không khí trong rừng già ở Muamath, hỏi han các thầy tu sống ở đây. Nhưng gã cũng lại phải tiếp tục ra đi mà không biết gì hơn.
Đến nay gã đã chạy xà quần gần một tuần lễ. Tối ngày thứ bảy gã trải qua hai chuyện hoàn toàn khác nhau làm thay đổi hẳn hoàn cảnh bên ngoài và trong nội tâm gã.
Những biến cố đáng sợ trên mọi miền của vương quốc Tưởng Tượng mà lão Cairon kể tuy có gây ấn tượng thật đấy song cho tới nay đối với gã vẫn chỉ là thông báo. Nhưng sang ngày thứ bảy thì gã sẽ được thấy tận mắt.
Lúc ấy khoảng giữa trưa, khi gã cưỡi ngựa qua một cánh rừng rậm rạp tối om gồm những cây cực lớn nhiều chạc. Đó chính là rừng Haulewald, nơi trước đây không lâu bốn gã đưa tin đã gặp nhau. Tại đây, Atréju biết, có những con tinh. Theo người ta nói thì đó là những gã, những ả khổng lồ trông như những thân cây nhiều chạc. Nếu chúng đứng bất động theo thói quen thì ai cũng nghĩ đó là cây thật và sẽ điềm nhiên đi ngang qua, chẳng mảy may nghi ngờ. Chỉ khi chúng cử động thì mới thấy tay chúng giống cành cây và chân chúng cong vòng như rễ cây. Tuy chúng cực khỏe nhưng vô hại, thỉnh thoảng chúng mới đùa ghẹo khách lạc đường thôi.
Vừa phát hiện ra một đồng cỏ có dòng suối nhỏ Atréju liền xuống ngựa cho Artax uống nước, gặm cỏ; chợt nghe trong lùm cây sau lưng có tiếng rơi ầm ầm răng rắc rất lớn, gã liền quay lại.
Từ trong rừng ba con tinh tiến về phía gã. Nhìn chúng mà lạnh xương sống. Con thứ nhất không có chân và bụng dưới nên phải đi bằng hai bàn tay. Con thứ hai có một lỗ thủng cực to ở ngực, có thể nhìn xuyên qua được. Con thứ ba nhảy lò cò trên cái chân phải duy nhất, vì mất nửa thân trái, như thể bị xẻ làm đôi ngay chính giữa.
Khi thấy tấm bùa trên ngực Atréju chúng gật đầu với nhau rồi từ từ bước lại gần gã.
– Đừng sợ! Con tinh đi bằng tay nói như tiếng cây ken két. Hình dáng bọn ta dĩ nhiên không đẹp đẽ gì, nhưng trong khu này của rừng Haulewald không còn ai ngoài bọn ta có thể cảnh báo cậu. Vì thế mà bọn ta tới đây.
– Cảnh báo chuyện gì chứ? Atréju hỏi.
– Bọn ta đã nghe nói về cậu, con tinh có lỗ hổng ở ngực hổn hển, về lý do chuyến đi của cậu. Nhưng cậu không đi tiếp nữa được đâu, đi tiếp là đời cậu sẽ tiêu.
– Nếu không cậu cũng sẽ bị như bọn ta thôi, con tinh còn một nửa thở dài, nhìn bọn ta đây! Cậu có muốn thế này không?
– Chuyện gì đã xảy ra vậy? Atréju hỏi dò.
– Sự hủy diệt lan rộng ra, con tinh thứ nhất rên rỉ, lớn thêm, lớn thêm, mỗi ngày một nhiều hơn – nếu có thể nói rằng Hư Không nhiều hơn được. Mọi loài khác đã kịp thời chạy trốn khỏi rừng Haulewald, nhưng bọn ta không muốn rời bỏ quê hương. Thế là nó đột kích bất ngờ khi bọn ta đang ngủ và đã biến bọn ta thành ra như cậu thấy bây giờ.
– Đau lắm không? Atréju hỏi.
– Không, con tinh thứ hai có lỗ thủng ở ngực đáp, không cảm thấy gì hết. Chỉ thấy mất chút gì đó thôi. Đã bị một lần rồi thì mỗi ngày lại mất thêm một ít. Chẳng bao lâu bọn ta sẽ hoàn toàn không còn nữa.
– Đâu là chỗ đã bắt đầu trong rừng này? Atréju muốn biết.
– Cậu muốn thấy à? Con tinh thứ ba còn nửa thân hình nhìn hai người bạn cùng cảnh ngộ ra ý hỏi. Thấy hai con kia gật nó liền nói tiếp:
– Bọn ta sẽ đưa cậu tới thật gần đủ để cậu có thể thấy được, nhưng cậu phải hứa là không lại gần hơn nữa, kẻo bị nó hút không cưỡng lại nổi đâu.
– Được, Atréju nói, tôi hứa.
Ba con tinh quay mình đi về phía bìa rừng. Atréju nắm cương dắt con Artax đi theo. Họ đi lung tung một hồi giữa những cây khổng lồ, rồi dừng lại trước một thân cây cực lớn, đến năm người lớn ôm không kín.
– Leo được càng cao càng tốt, con tinh không chân nói, rồi ngó về hướng mặt trời mọc. Ở đấy cậu sẽ thấy nó – hay nói đúng hơn không thấy nó.
Atréju bám mấu và chỗ lồi trên thân cây đu người lên, tới được những cành dưới cùng. Gã đu lên những cành kế tiếp, lên cao nữa, cao nữa cho đến khi không còn nhìn thấy bên dưới. Gã leo tiếp, thân cây nhỏ hơn, nhánh cũng nhiều hơn nên leo dễ hơn. Cuối cùng khi lên tới ngọn cây, đưa mắt về hướng mặt trời mọc, gã nhìn thấy cảnh sau đây:
Ngọn những cây khác gần đấy vẫn xanh, còn lá những cây tiếp sau có vẻ đã mất màu, thành xám xịt. Xa hơn tí nữa cảnh tượng có vẻ trong suốt rất kỳ lạ, lờ mờ, hay nói đúng hơn, càng lúc càng trở nên hư ảo. Phía sau nữa không có gì cả, tuyệt đối không. Không một chỗ trơ trụi, không tối, cũng không sáng, nó khiến mắt chịu không nổi, khiến người nhìn có cảm giác như bị quáng. Không mắt nào nhìn nổi vào Hư Không hoàn toàn. Atréju đưa tay che ngang mắt, tí nữa rơi khỏi cành. Rồi gã bám thật chắc, ráng sức tuột nhanh xuống. Gã đã thấy đủ. Mãi bấy giờ gã mới hiểu hết sự kinh hoàng đang lan tràn trên vương quốc Tưởng Tượng.
Khi Atréju xuống tới gốc cây thì ba con tinh đã biến mất. Gã liền nhảy lên lưng con ngựa nhỏ bé cắm cổ phi nước đại xa khỏi cái Hư Không đang từ từ lan rộng, không gì ngăn chặn lại nổi này. Mãi tối mịt, khi đã bỏ xa cánh rừng Haulewald lại phía sau gã mới ngừng để nghỉ.
Đêm hôm ấy lại thêm một biến cố thứ hai chờ đợi Atréju, làm cuộc đại tìm kiếm của gã có một hướng mới.
Số là gã mơ – rõ ràng hơn những lần trước nhiều – thấy con trâu đỏ màu huyết dụ to lớn mà gã muốn hạ. Lần này gã không cung tên, chỉ tay không đứng trước nó. Gã thấy mình quá ư nhỏ bé còn bộ mặt con vật choán hết cả bầu trời. Và gã nghe nó nói với gã. Gã không hiểu hết, nhưng đại khái nó nói như sau:
– Nếu lần đó cậu giết ta thì hôm nay cậu là một nhà săn bắn chính hiệu rồi. Nhưng cậu đã không giết ta nên bây giờ ta có thể giúp cậu, Atréju ạ. Nghe này! Ở vương quốc Tưởng Tượng có một sinh linh già hơn mọi sinh linh khác. Xa lắm, tuốt trên mạn Bắc, có những Đầm-lầy-phiền-muộn. Chính giữa những đầm lầy này sừng sững ngọn Núi Sừng. Bà cố Morla sống ở đó. Cậu hãy đi tìm bà cô Morla!
Rồi Atréju tỉnh dậy.
Tháp đồng hồ điểm mười hai tiếng. Lúc này đám bạn học của Bastian sắp đi xuống phòng thể dục để học giờ cuối. Có lẽ hôm nay đám bạn nó chơi trò “ném đối phương”[2] với quả bóng tập thể dục to và nặng mà lần nào Bastian cũng làm trật lất, khiến cả hai đội bóng đều không muốn thu nhận nó. Đôi khi chúng phải chơi với quả bóng nhỏ hơn nhưng rắn như đá của môn bóng chày; bị ném trúng thì đau khủng khiếp. Mà đối phương cứ nhằm Bastian ném thật lực vì nó là một cái đích quá dễ dàng. Cũng có thể hôm nay là môn leo dây, giờ Thể dục Bastian ghét cay ghét đắng. Thông thường hầu hết đám bạn nó leo tới nơi rồi còn nó vẫn lủng lẳng ở đầu dây như một bao bột, không leo nổi nửa mét, đỏ mặt tía tai khiến cả lớp khoái chí cười khúc khích. Còn ông Menge, thầy dạy Thể dục, không ngớt đem Bastian ra làm trò đùa trên sự đau khổ của nó.
[2]Tạm dịch “Voelkerball”: trò chơi gồm hai đội bóng tìm cách ném trúng đối thủ.
Bastian sẵn sàng làm đủ mọi chuyện để được như Atréju. Lúc ấy nó sẽ ọi người biết tay.
Nó thở thật dài.
Atréju phi ngựa lên hướng Bắc, cứ nhắm hướng Bắc mà đi. Gã chỉ dừng lại khi thật cần ình và ngựa ngủ cũng như tìm thức ăn thức uống. Gã đi cả ngày lẫn đêm, dù nắng cháy mưa sa hay dông bão. Gã không quan sát gì nữa và cũng chẳng hỏi han thêm một ai.
Càng về phía Bắc càng tối hơn. Trời chạng vạng một màu xám chì ngày này qua ngày khác. Ban đêm ánh sáng Bắc Cực lung linh trên khung trời.
Một buổi sáng kia thời gian như lắng đọng trong bầu trời u ám tranh tối tranh sáng. Cuối cùng, từ một ngọn đồi, gã phát hiện ra những Đầm-lầy-phiền-muộn. Ở đấy những đám sương mù lảng vảng kéo qua, đó đây nhô lên vài cánh rừng nhỏ với các thân cây đâm ngược xuống dưới thành năm nhánh hay nhiều hơn, nhánh nào cũng cong vẹo khiến đám cây trông như những con cua khổng lồ nhiều càng trong vũng nước đen. Rễ nổi từ khắp đám lá nâu thòng xuống tua tủa như những vòi mực tuộc bất động. Thật khó xác định giữa những ao hồ ấy chỗ nào đất cứng, chỗ nào chỉ là một lớp rong.
Artax phì phò vì kinh hoàng.
– Cậu chủ ơi, mình phải tới chỗ đó à?
– Ừ, Atréju đáp, mình phải tìm cho ra Núi Sừng ở giữa các đầm lầy này.
Gã thúc Artax đi tới. Artax đưa chân dò dẫm từng bước xem đất cứng hay không, nên cả hai tiến tới rất chậm. Cuối cùng Atréju xuống ngựa, nắm cương dắt Artax đi. Đôi lần ngựa bị lún chân nhưng lần nào cũng rút ra được. Nhưng càng vào sâu trong vùng Đầm-lầy-phiền-muộn thì càng khó đi. Artax chán nản lê chân tới trước.
– Artax, Atréju hỏi, bạn sao thế?
– Tôi không biết nữa, cậu chủ à, con vật đáp, tôi nghĩ ta nên quay lại thôi. Đi nữa vô ích. Ta chạy tìm cái mà cậu chỉ mơ thấy thôi. Nhưng sẽ không tìm được gì đâu. Có khi mọi chuyện trễ tràng rồi cũng nên. Chưa biết chừng Nữ-thiếu-hoàng đã băng hà rồi và mọi chuyện ta làm là vô nghĩa. Quay lại thôi, cậu chủ ơi.
– Artax, mình chưa từng nghe bạn nói thế bao giờ, Atréju ngạc nhiên nói, bạn sao thế? Bệnh à?
– Có lẽ, Artax đáp, cứ bước thêm một bước là nỗi phiền muộn trong tim tôi lại lớn thêm. Cậu chủ ơi, tôi chẳng còn hy vọng gì nữa. Tôi cảm thấy mình nặng quá, nặng quá. Chắc tôi không đi nổi nữa đâu.
– Nhưng ta phải đi tiếp! Atréju la lớn. Đi, Artax!
Gã kéo dây cương nhưng Artax cứ đứng yên tại chỗ. Nó đã lún tới bụng rồi. Và nó không có ý định cố thoát ra khỏi tình cảnh này.
– Artax! Atréju kêu lên. Bạn không được buông xuôi! Nào, ra nào, kẻo bạn sẽ chìm nghỉm mất thôi!
– Cậu chủ ơi, để mặc tôi! Con ngựa đáp. Tôi không ra nổi đâu. Cậu hãy đi tiếp một mình đi! Đừng lo cho tôi nữa! Tôi không chịu nổi sự phiền muộn này nữa rồi. Tôi muốn chết.