– Không hôm nay thì mai thôi, con khỉ đáp, hoặc trong vòng một tuần lễ. Trước sau gì cậu cũng sẽ sớm có mặt ở đây thôi.
– Nghĩa là Atréju đã cứu tôi.
– Cái đó thì tôi không rõ, con khỉ thú thật.
– Nếu gã lấy được AURYN của tôi thì chuyện gì sẽ xảy ra?
Con khỉ lại khúc khích cười.
– Có thể nói rằng… cậu cũng sẽ tới đây thôi.
– Sao thế?
– Vì cậu cần phải có AURYN để tìm đường về thế giới của cậu. Nhưng nói thật tình, tôi không tin cậu sẽ tìm được đường về.
Con khĩ vỗ tay, nhấc chiếc mão tiến sĩ, nhe răng cười.
– Argax, làm ơn cho tôi biết tôi phải làm gì bây giờ?
– Tìm cho ra một điều ước đưa cậu về với thế giới của cậu.
Bastian lại lặng thing hồi lâu rồi mới hỏi:
– Argax, bạn có thể cho biết tôi còn được cả thảy bao nhiêu điều ước?
– Không nhiều đâu. Theo tôi thì tối đa là ba hay bốn thôi. Mà như thế thì cậu khó lòng thoát được. Bây giờ cậu mới nghĩ tới thì khá trễ rồi, mà đường về thật không dễ tìm. Cậu phải vượt qua biển sương mù. Thế là mất một điều ước rồi. Còn gì sau đó thì tôi không rõ. Không ai trong vương quốc Tưởng Tượng biết đường tới thế giới của cậu cho những người như cậu. May ra thì cậu tìm được Minroud của Yor, niềm hy vọng cuối cùng cho những người như câu; tuy tôi e rằng – cứ tạm cho là như thế – quá xa đối với câu. Thế là lần này cậu còn phải thoát khỏi Cố đô đấy nhé.
– Cảm ơn, Argax! Bastian nói.
Con khỉ xám nhe răng cười.
– Tạm biệt Bastian Balthasar Bux!
Rồi thoắt một cái nó biến vào trong một trong những ngôi nhà kỳ cục kia, mang theo khăn xếp của Bastian.
Bastian còn đứng bất động một lúc lâu. Những điều vừa được nghe đã khiến nó hoang mang đến rụng rời, không biết phải làm gì. Mọi ý đồ nó ấp ủ đến này bỗng chốc tan tành. Nó cảm thấy như mọi sự trong thâm tâm đảo lộn hết cả, giống như những kim tự tháp chổng ngược đầu kia. Điều nó hy vọng biến thành tai họa cho nó, còn điều nó căm ghét lại là sự cứu vớt.
Trước mắt nó chỉ còn thấy một điều: phải thoát khỏi cái thành phố điên rồ này! Và không bao giờ quay lại nữa!
Bastian len lỏi qua những tòa nhà chằng chịt vô nghĩa lý này. Nó nhận thấy ngay rằng vào dễ hơn ra nhiều. Nó luôn thấy đã đi trật hướng, thành ra cứ đâm bổ vào trung tâm thành phố. Mất cả buổi trưa nó mới ra được bức tường đất. Rồi nó chạy ra ngoài cánh đồng hoang, chạy miết đến tối mịt, tối đen như đêm trước, thì phải ngừng. Nó kiệt sức buông người dưới một bụi đỗ tùng, ngủ như chết. Trong giấc ngủ, ký ức của nó về tài tưởng tượng ra chuyện của nó trước đây biến mất.
Suốt đêm nó chỉ thấy trong mơ một hình ảnh không biến đi, cũng không thay đổi: Atréju, với vết thương trên ngực ứa máu, đứng bất động nhìn nó không nói một lời.
Tiếng sấm động khiến Bastian giật mình nhỏm dậy. Quanh nó là bóng đêm, nhưng hết thảy những đám mây tích tụ từ bao ngày nay như lồng lộn điên cuồng. Chớp giật liên hồi, sấm nổ ầm ầm khiến mặt đất rung chuyển, bão tố gầm thét trên cánh đồng hoang khiến đám cây đỗ tùng rạp xuống tận mặt đất. Mưa đổ ào ào như những tấm màn xám phất phơ bay.
Sét đánh vào một cây đỗ tùng ngay trước mặt nó, xẻ nát một thân cây xù xì, những cành con bốc cháy tức khắc. Gió thổi những đốm lửa tung tóe trên cánh đồng hoang, nhưng gặp mưa nên tắt ngúm ngay.
Bastian khuỵu xuống trước sấm sét ầm ầm. Nó đào đất bằng cả hai tay. Khi cái hố đã đủ sâu, nó tháo thanh Sikánda đang đeo bên hông, đặt xuống đó.
– “Vĩnh biệt Sikánda!” Nó khẽ nói trong tiếng dông bão gầm thét, “mong rằng sẽ không bao giờ còn có ai rút ngươi ra để gây tai họa cho bạn của mình, và sẽ không ai tìm được ngươi ở đây, trước khi chuyện ta và ngươi gây ra chưa đi vào quên lãng.”
Rồi Bastian lấp đất lên, phủ thêm rêu và cành cây con để không ai phát hiện ra.
Cho đến nay thanh Sikánda vẫn còn nằm nguyên đó. Còn lâu lắm mới có một một người đến đây, được đụng vào nó không gặp hiểm nguy. Nhưng đó là chuyện khác, sẽ kể vào một dịp khác.
Rồi Bastian bỏ đi trong đêm tối bão bùng.
Mãi gần sáng mới ngớt dông bão, gió cũng dịu đi, mưa chỉ còn nhỏ giọt từ những thân cây. Không gian yên ắng.
Tối hôm đó bắt đầu một cuộc hành trình dài và đơn độc của Bastian. Nó không muốn quay về với những người bạn đồng hành và chiến hữu nữa; nó cũng không muốn quay về với Xayíde. Giờ đây nó muốn tìm đường về với thế giới loài người, nhưng không biết tìm thế nào và ở đâu. Biết có ở nơi nào đó một cái cổng, một cái rãnh hay một đường biên giới đưa nó qua thế giới kia hay không?
Nó phải ước được như thế, nó biết mà. Nhưng Bastian không có quyền lực gì trên điều đó. Nó cảm thấy như một người thợ lặn mò tìm dưới đáy biển sâu một chiếc tàu bị đắm, chưa tìm được gì mà cứ mãi bị nổi lên.
Bastian cũng biết nó chỉ còn có vài điều ước nữa thôi, nên để ý từng li từng tí không dùng bừa đến AURYN. Nó chỉ được hy sinh chút ký ức còn sót nếu nhờ thế mà về gần được với thế giới của nó, và cũng chỉ khi nào thật cần thiết thôi.
Nhưng người ta đâu thể nào tùy tiện lôi ra hay đè nén ước muốn được. Chúng là những ý định trỗi lên từ thâm tâm của ta, dù tốt hay xấu. Và chúng xuất hiện mà ta không ngờ tới.
Một điều ước mới chớm nảy sinh rồi dần dần hình thành rõ rệt mà Bastian không hay biết.
Nỗi cô đơn của bao ngày đêm ròng rã một mình lê bước đã khiến nó ước gì được thuộc vào một đoàn thể, được thu vào một nhóm, không phải với tư cách chủ nhân hay người chiến thắng hay một kẻ đặc biệt nào đó, mà chỉ là một trong nhiều người, thậm chí là một kẻ nhỏ mọn hay tầm thường nhất cũng được, miễn là thuộc vào đoàn thể đó.
Thế rồi một ngày nọ Bastian đi tới một bãi biển kia. Thoạt tiên nó nghĩ như thế. Đó là một bãi biển toàn đá tảng dốc đứng. Trước mắt nó, biển trải rộng ra từ những con sóng trắng xóa đông cứng. Mãi sau nó mới nhận ra rằng những con sóng kia không thật bất động, chúng xê dịch rất chậm chạp, tạo ra thủy triều và những con nước xoáy, nhưng khó nhận thấy như sự chuyển động của chiếc kim giờ.
Đó chính là biển sương mù!
Bastian đi dọc theo bờ biển dốc đứng. Trời ấm, ẩm ướt và không có một chút gió. Lúc ấy vẫn còn là sáng sớm, nắng chiếu trên lớp sương mù trắng như tuyết tới tận chân trời.
Bastian đi tới đi lui suốt mấy giờ đồng hồ như thế; tới gần trưa nó gặp một thị trấn nhà sàn trên biển sương, cách đất liền khá xa. Một chiếc cầu treo dài bềnh bồng nối thành phố này với một mũi của bờ đá. Nó chao qua đảo lại khi Bastian bước trên đó.
Nhà cửa tương đối nhỏ. Cửa ra vào, cửa sổ, cầu thang như được làm cho trẻ con. Mà quả thật, những người qua lại trên đường phố chỉ lớn như trẻ con, tuy họ toàn là những người đàn ông lớn tuổi râu ria rậm rạp hoặc đàn bà tóc búi cao. Đặc biệt là họ rất giống nhau khiến không phân biệt nổi. Mặt họ màu nâu thẫm như đất ướt, trông hiền lành và trầm lặng. Thấy Bastian họ chỉ gật đầu chứ không chào hỏi. Họ có vẻ rất ít nói, họa hoằn lắm mới nghe được một tiếng gọi trên đường phố hay ngõ hẻm, dù sinh hoạt ở đây rất nhộn nhịp. Cũng không hề thấy ai đi một mình, bao giờ họ cũng đi từng nhóm lớn hay nhỏ, khoác hoặc nắm tay nhau.
Nhìn kỹ Bastian mới thấy nhà cửa của họ đều được đan lát cùng một kiểu, nhà này thô hơn, nhà nọ khéo hơn, thậm chí mặt đường cũng đan lát luôn. Sau hết nó thấy ngay đến cả y phục của họ: quần, váy, áo khoác, mũ cũng đều đan lát như thế cả, dĩ nhiên rất khéo và đầy thẩm mỹ. Xem ra ở đây người ta làm gì cũng đều với một chất liệu giống nhau.
Đây đó Bastian có dịp liếc nhìn vào những nơi làm việc khác nhau của các thợ thủ công; ai nấy mải miết với những món hàng đan lát: giày dép, cốc vại, đèn, ly tách, dù đi mưa… thảy thảy đều bện. Mà không ai làm việc riêng một mình, vì tất cả những món này chỉ có thể do hợp tác mới thành được. Thật thú vị được thấy họ khéo léo tiếp tay nhau đến mức nào, việc người này luôn bổ sung cho việc của người kia. Thường thì họ vừa làm vừa ngân nga những giai điệu đơn giản không lời.
Thành phố không lớn lắm nên Bastian nhanh chóng ra tới vành đai. Cảnh tượng nó nhìn thấy tỏ rõ đây là một thành phố của những người đi biển, vì có đến hàng trăm tàu thuyền đủ loại, đủ cỡ. Nhưng quả là một thành phố hơi khác thường của những người đi biển, vì mọi tàu bè, chiếc này cạnh chiếc kia, đều móc vào những chiếc cần câu khổng lồ, lơ lửng đung đưa trên mặt biển sâu mà khối sương mù trắng dày đặc đang kéo qua. Ngoài ra các tàu bè này hình như cũng đều được đan lát cả, không buồm, không cột buồm, không mái chèo và bánh lại.
Bastian cúi người qua những thanh chắn nhìn biển sương mù. Qua bóng những chiếc cọc đỡ thành phố này được nắng chiếu trên màn sương trắng Bastian có thể đoán được những cọc ấy ức nào.
– Đêm đêm, nó nghe tiếng người nói bên cạnh, sương mù dâng cao ngang thành phố. Bấy giờ chúng tôi có thể ra khơi được. Còn ban ngày mặt trời xé toang màn sương khiến mặt biển thấp xuống. Đó là điều một khách lạ như anh muốn biết, chứ gì?
Ba người đàn ông đứng tựa vào những thanh chắn cạnh Bastian hiền lành và thân mật nhìn nó. Nó bắt chuyện với họ và được biết thành phố này tên là Yskál hay còn gọi là “thành phố Đan lát”. Cư dân ở đây gọi là người Yskálari, đại khái có nghĩa là “những người trong cộng đồng”. Ba người này làm nghề đi biển sương mù. Bastian muốn giấu tên để khỏi bị nhận ra, nên bịa rằng nó tên là Một. Ba thủy thủ kia bảo rằng họ không có tên riêng, không cần thiết. Họ đều là người Yskálari, theo họ thì thế là đủ.
Lúc ấy đúng giờ ăn cơm trưa nên họ mời Bastian đi với họ. Bastian cám ơn và nhận lời. Trong lúc cùng nhau ngồi dùng bữa tại một quán ăn gần đó, Bastian được biết mọi điều về Yskál và cư dân của thành phố này.
Biển sương mù kia, mà họ gọi là Skaidan, là một đại dương sương mù bao la ngăn đôi vương quốc Tưởng Tượng. Biển Skaidan sâu cỡ nào, cũng như khối sương mù mênh mông kia từ đâu mà ra thì chưa có ai tìm hiểu. Tất nhiên người ta vẫn hoàn toàn thở được dưới mặt biển; từ bờ, nơi sương mù tương đối mỏng, người ta vẫn có thể đi được một đoạn ngắn trên đáy biển, nhưng phải buộc dây để được kéo vào, vì sương mù này có đặc tính là trong một khoảng thời gian rất ngắn nó khiến người ta mất hết khả năng xác định phương hướng. Nhiều kẻ, hoặc ngông cuồng hoặc khinh suất, đã bỏ mạng chỉ vì một mình đi bộ qua Skaidan. Chỉ có một số ít được cứu thoát. Cách của người Yskálari là phương cách duy nhất qua được bờ bên kia của biển sương mù.
Ấy là bởi vì mọi thứ đan lát của họ – từ đó làm nên nhà cửa, mọi vật dụng, áo quần, cho đến thuyền bè – đều làm từ một loại cói mọc gần bờ, dưới mặt biển sương mù. Qua những gì vừa nói thì dễ thấy rằng việc cắt thứ cói này là chuyện mạo hiểm tới tính mạng. Thứ cói này tuy rất dẻo, thậm chí mềm nhũn trong không khí bình thường, nhưng trong sương mù lại mọc thẳng băng, vì nó nhẹ hơn sương mù nên nổi trên đó. Chính vì thế mà thuyền bè làm bằng cói cũng nổi trên làn sương. Áo quần của người Yskálari do đó đồng thời là một loại phao cấp cứu, phòng khi ngã xuống biển sương.
Nhưng đó chưa phải là điều bí mật của người Yskálari và chưa cắt nghĩa được lý do của tính tập thể độc đáo bao trùm mọi hoạt động của họ. Bastian sớm nhận thấy hình như họ không hề biết đến cái từ “tôi”, ít ra nó không hề nghe thấy họ dùng từ này, mà chỉ toàn nói “chúng tôi”. Lý do tại sao thì mãi sau này nó mới tìm ra.
Khi Bastian biết được, qua lời trò chuyện của ba thủy thủ, rằng họ sẽ đi ra khơi tối hôm ấy, nó liền hỏi họ có chịu thu nhận nó làm thằng nhỏ giúp việc trên tàu không. Họ mới cho nó biết rằng đi biển Skaidan khác nhiều đi những biển khác, vì không biết sẽ đi bao lâu và cập bến nơi nào. Bastian đáp như thế thì thật đúng ý nó và họ bằng lòng cho nó đi theo.
Khi màn đêm buông xuống thì sương mù dâng lên như chờ đợi. Gần nửa đêm thì ấp mé nền thành phố Đan lát. Bấy giờ mọi thuyền bè – trước đây lơ lửng trong không khí – bồng bềnh trên mặt sương trắng. Chiếc tàu có Bastian – một sà lan phẳng, dài khoảng ba mươi mét – được gỡ thừng cột, liền từ từ trôi ra xa trên biển sương mù trong đêm tối.
Thoạt nhìn Bastian đã tự hỏi lọai tàu này trôi đi nhờ sức đẩy nào, vì tàu không có buồm, mái chèo hay chân vịt. Buồm, người ta giải thích, chẳng ăn thua gì vì trên Skaidan hầu như luôn lặng gió, mái chèo hay chân vịt lại càng không dùng được trên sương mù. Sức đẩy thuyền là một sức khác hẳn.
Chính giữa sàn thuyền có một bệ tròn, hơi nhô cao. Bastian đã trông thấy ngay từ đầu, song ngỡ là một đài chỉ huy hay gì đó tương tự. Suốt chuyến đi thường xuyên có hai thủy thủ, có khi ba hay bốn hoặc nhiều hơn, đứng trên đó. (Trên tàu có cả thảy bốn mươi người – không kể Bastian). Những người đứng trên bệ này bá vai nhau, ngó về hướng tàu đi. Thoạt trông cứ tưởng họ đứng bất động. Nhìn kỹ mới thấy họ lắc lư rất chậm chạp và đồng bộ trong một điệu múa. Họ vừa múa vừa lặp đi lặp lại một khúc nhạc đơn giản rất du dương.
Mới đầu Bastian cho rằng hành động lạ lùng này là một nghi thức tập thể hay tập tục lạ nào đó mà nó không hiểu ý nghĩa. Mãi đến ngày thứ ba của chuyến đi nó mới hỏi một trong ba thủy thủ quen đang ngồi cạnh. Người này tỏ vẻ sửng sốt trước sự ngạc nhiên cùa Bastian, mới giải thích cho nó rằng làm như thế để dùng sức tưởng tượng cùa họ đẩy tàu đi.
Thoạt tiên Bastian chịu không hiểu nổi, liền hỏi có phải họ khởi động bằng cách nào đó những bánh xe ẩn kín đâu đấy.
– Không, người đi biển sương mù này đáp, khi cậu muốn cử động đôi chân thì chỉ cần tưởng tượng thôi cũng đủ hay cậu còn phải đạp chận trên hệ thống bánh xe nữa?
Sự khác biệt giữa cơ thể con người và con tàu chỉ ở chỗ ít nhất hai Yskálari phải nhập sức tưởng tượng của họ hoàn toàn thành một. Chỉ nhập được sức thì mới tạo ra được lực đẩy. Muốn đi nhanh hơn phải có nhiều người hợp lại. Bình thường họ làm việc mỗi ca ba người, những người kia nghỉ ngơi. Vì trông thì nhẹ nhàng và thanh nhã nhưng đó là một việc nặng nhọc, đòi hỏi tập trung ghê gớm và liên tục. Đó là cách duy nhất để họ có thể di chuyển trên Skaidan.
Thế là Bastian liền tập theo những người thủy thủ học điều bí mật của tính tập thể của họ: điệu múa và bài hát không lời.
Rồi dần dần, trong chuyến vượt biển dài đằng đẵng này nó trở thành một người của bọn họ. Thật là một cảm xúc độc đáo không diễn tả nỗi của sự quên hết ngoại cảnh và hòa điệu Bastian cảm nhận được trong lúc múa hát, khi sức tưởng tượng của nó hòa với sức tưởng tượng của những người khác thành một sức mạnh chung. Nó thật sự thấy đã được thu nhận vào tập thể của họ, gắn bó với họ. Đồng thời nó mất dần ký ức rằng trong cái thế giới của nó – từ đó nó tới đây và hiện đang tìm đường quay trở về – ai cũng có quan điểm và ý kiến riêng. Điều duy nhất nó còn nhớ mang máng là ngôi nhà của nó và bố mẹ nó.
Nhưng ở nơi sâu thẳm của trái tim nó vẫn còn một ước mơ khác đang chớm nhú, ngoài ước mơ hết bị lẻ loi.
Bastian lần đầu tiên để ý thấy những người Yskálari đạt được điều chung nhất không phải vì họ hòa đồng những cách suy nghĩ vốn dĩ hoàn toàn khác nhau, mà vì họ giống hệt nhau, thành ra họ không cần cố gắng mà vẫn cảm thấy tính tập thể. Ngược lại, họ hoàn toàn không có cơ hội để tranh cãi hay bất đồng, vì không ai trong bọn họ thấy mình là một cá nhân. Họ không phải vượt qua mâu thuẫn nào đó để có hòa đồng. Chính sự dễ dàng này đã khiến Bastian dần dần thấy là không ổn. Nó thấy tính hiền lành của họ chán ngắt, khúc nhạc muôn thuở của họ thật đơn điệu. Nó thấy thiếu gì đó, khao khát gì đó mà không thể diễn tả được.
Một ngày nọ Bastian vỡ lẽ ra điều mình khao khát ấy. Số là hôm đó mọi người thấy một con quạ-sương-mù khổng lồ bay lượn trên bầu trời cao. Các thủy thủ Yskálari hốt hoảng trốn thật lẹ dưới tấm bạt. Nhưng một người không trốn kịp và bị con quái vật kia rít lên một tiếng, sà xuống đớp tha đi mất.
Khi tai họa đã qua, những người Yskálari chui ra, tiếp tục chuyến hải hành. Họ lại nhảy múa, ca hát như chẳng có chuyện gì xảy ra. Mối hòa đồng của họ mảy may không bị xáo trộn, họ không hề buồn bã hay ngỏ lời thương xót kẻ bất hạnh nọ
– Không, một người đáp khi Bastian hỏi, chúng tôi chẳng thấy mất mát gì cả. Chúng tôi phải than vãn nỗi gì chứ?
Với họ một cá nhân không đáng kể. Và bởi vì họ chẳng có gì khác nhau, thành ra chẳng có ai là không thể thay thế được.
Nhưng Bastian lại muốn là một cá thể, là một kẻ nào đó, chứ không chỉ là một trong muôn vàn. Nó muốn được yêu thương chính bởi nó như thế. Trong cộng đồng người Yskálari này có hòa đồng, nhưng không có tình thương.
Nó hết còn muốn làm kẻ vĩ đại nhất, khỏe nhất, khôn ngoan nhất nữa. Những chuyện ấy đã qua rồi. Nó khao khát được yêu thương như nó là, dù nó tốt hay không tốt, đẹp hay xấu, khôn ngoan hay đần độn, yêu thương mọi khuyết điểm của nó, thậm chí chính vì những khuyết điểm ấy.
Mà nó là một kẻ như thế nào?
Nó không biết nữa. Nó học được nhiều thứ ở vương quốc Tưởng Tượng, thành ra bây giờ tài năng đầy người mà không tìm lại được chính mình.
Từ hôm ấy nó không tham gia múa hát với đoàn thủy thủ nữa. Nó ngồi tuốt mũi tàu nhìn Skaidan suốt nhiều ngày, thậm chí suốt nhiều đêm.
Cuối cùng đã tới bờ bên kia. Con tàu chạy biển sương mù cập bến. Bastian cám ơn các thùy thủ Yskálari rồi lên bờ.
Đây là một vùng đất đầy hoa hồng, những rừng hoa hồng đủ màu sắc. Giữa rừng hoa hồng mênh mông là một con đường mòn uốn khúc.
Bastian đi theo con đường mòn đó.