Trong lúc ngắm nhìn tấm hình nằm trên tuyết trước mặt, lòng Bastian dậy lên nỗi nhớ nhung người đàn ông này, người nó không quen biết. Đó là một mối cảm xúc như từ xa kéo đến, như con nước triều lên trên biển cả, mới đầu không nhận thấy, cho tới khi nó lại gần, lại gần, cuối cùng thành những đợt sóng mãnh liệt cao như ngôi nhà, cuốn phăng tất cả. Bastian gần như chết ngộp trong con sóng ấy, phải cố lấy hơi. Trái tim của nó còn quá nhỏ đối với nỗi nhớ lớn nhường ấy khiến nó đau nhói. Những đợt sóng triều kia đã nhấn chìm nốt chút ký ức còn lại của Bastian và nó đã quên luôn điều cuối cùng còn sót: tên nó.
Lát sau khi vào lều với ông Yor nó im lặng. Người thợ mỏ cũng không nói gì, chỉ nhìn nó thật lâu mà đôi mắt ông lại như nhìn vào quãng xa xôi và lần đầu tiên từ đó đến nay một nụ cười thoáng hiện trên gương mặt xám màu đá của ông.
Tối hôm ấy thằng bé – bây giờ không còn tên nữa – không ngủ được dù rất mệt. Nó luôn nhìn thấy bức hình kia ngay trước mắt. Nó cảm thấy như người đàn ông kia muốn nói gì đấy với nó mà không nói được, vì bị bao kín trong tảng băng. Thằng bé không tên muốn giúp ông ta, muốn làm tan tảng băng. Nó mơ – nhưng vẫn tỉnh – thấy mình ôm tảng băng, đem hơi ấm của cơ thể làm băng tan. Nhưng chỉ hoài công.
Nhưng rồi nó chợt nghe thấy điều người đàn ông kia muốn nói với nó, không phải nghe thấy bằng tai mà nghe trong sâu thẳm trái tim nó:
“Cứu bố với! Đừng bỏ rơi bố thế này! Bố không tự ra khỏi tảng băng được. Cứu bố! Chỉ mình con giải thoát bố được thôi… chỉ mình con!”
Tinh mơ hôm sau khi hai người thức dậy, thằng bé không tên nói với ông Yor:
– Hôm nay cháu không xuống mỏ Minroud với ông nữa đâu.
– Cháu muốn bỏ ta đi ư?
Thằng bé gật đầu.
– Cháu muốn đi tìm “Nước trường sinh”.
– Cháu đã tìm thấy bức hình dẫn đường cho cháu rồi à?
– Vâng.
– Cho ta xem được chứ?
Thằng bé lại gật. Hai người đi ra chỗ tấm hình trên tuyết. Thằng bé nhìn tấm hình, còn ông Yor hướng đôi mắt mù lòa vào mặt nó, như nhìn xuyên qua nó vào một chốn xa. Ông có vẻ như đang lắng nghe điều gì đó. Cuối cùng ông gật đầu.
– Cháu hãy mang nó theo, ông thì thầm, đừng để mất. Nếu cháu làm mất hay để nó bị tan vỡ thì coi như đời cháu kết thúc. Vì cháu chẳng còn gì ở vương quốc Tưởng Tượng này nữa. Cháu hiểu thế có nghĩa là gì.
Thằng bé không tên đứng cúi đầu im lặng một lúc, rồi khẽ nói:
– Cám ơn ông Yor đã dạy bảo cháu.
Hai người bắt tay nhau.
– Cháu là một thợ mỏ giỏi đấy, ông Yor thì thào, và làm việc rất chăm chỉ.
Rồi ông quay người đi về hướng đường thông xuống mỏ Minroud, trèo vào trong giỏ cho chạy xuống dưới hầm sâu, không ngó lại lần nào nữa.
Thằng bé đi đã nhiều tiếng đồng hồ liền như thế này. Chiếc lều của ông Yor đã khuất nơi chân trời sau lưng nó từ lâu lắm rồi; bốn bề quanh nó vẫn chỉ là tuyết trắng mênh mông. Nhưng nó cảm thấy được tấm hình nó đang gượng nhẹ cầm trong hai tay kéo đi đúng hướng.
Thằng bé quyết chí đi theo cái lực kéo kia, vì tin rằng cái lực ấy sẽ đưa nó tới đúng nơi đúng chôn, dù đường xa hay gần. Bây giờ chẳng còn có gì giữ chân nó được nữa. Nó muốn tìm nguồn “Nước trường sinh” và nó tin chắc sẽ tìm được.
Chợt nó nghe tuốt trên cao có tiếng ồn ào, như tiếng kêu ríu rít xa xôi từ nhiều cửa miệng. Ngước nhìn lên, nó thấy một đám mây đen to như một đàn chim. Mãi khi đàn chim kia tới gần nó mới nhận ra đó là đám mối mặt hề – đám Schlamuffen[3] – liền khiếp sợ đứng chết trân tại chỗ.
[3] Đây cũng là một từ được tác giả M. Ende đặt ra, nên không dịch được. Từ điển chỉ có động từ “muffen” nghĩa là: có mùi mốc; cằn nhằn, cau có.
“Lạy trời cao nhân từ! Thằng bé không tên thầm nghĩ. Mong rằng chúng không nhìn thấy mình! Tiếng kêu của chúng đến làm vỡ tấm hình mất thôi!”
Nhưng lũ mối đã nhìn thấy nó!
Chúng liền cười om sòm sà xuống, bu quanh kẻ lữ hành đơn độc.
– Hoan hô! Chúng ngoác những cái miệng đủ màu sắc kêu quang quác. Thế là cuối cùng đã tìm thấy đại ân nhân của chúng ta rồi!
Rồi chúng lăn trên tuyết, nhào lộn, trồng chuối, bốc tuyết ném nhau.
– Khẽ chứ! Làm ơn khẽ chứ! Thằng bé không tên tuyệt vọng thì thầm.
Đám mối kia gào lên thích thú:
– Y nói gì?
– Y bảo rằng bọn mình nói khẽ quá!
– Chưa có ai nói thế với bọn mình cả!
– Các bạn muốn gì ở tôi chứ? Thằng bé hỏi. Sao các bạn không để tôi yên?
Lũ mối chạy ào ào quanh nó, liến láu:
– Đại ân nhân ơi! Đại ân nhân ơi! Người còn nhớ đã giải thoát cho chúng tôi như thế nào không, hồi chúng tôi còn là dân Acharai đó. Hồi đó chúng tôi là những sinh linh bất hạnh nhất vương quốc Tưởng Tượng, còn bây giờ chúng tôi ngán tới tận cổ rồi. Lúc mới được ân nhân đổi đời cho thì chúng tôi khoái lắm, nhưng nay chúng tôi chán chết. Vì chúng tôi chỉ biết bay bừa thôi, chứ chẳng có phương hướng gì hết. Ngay cả chơi đùa cũng chẳng ra đâu vào đâu, vì chúng tôi không có luật chơi. Người đã giải thoát chúng tôi thành những tên hề lố lăng! Đại ân nhân ơi, người đã lừa dối chúng tôi rồi!
– Tôi cứ ngỡ đã làm đúng, thằng bé hoảng hốt thì thầm.
– Phải rồi, đúng cho ân nhân thôi! Lũ mối đồng thanh ré lên. Lúc ấy ân nhân thấy mình vĩ đại quá mà. Còn chúng tôi phải gánh chịu hậu quả bởi lòng hảo tâm của đại ân nhân đấy ạ!
– Tôi biết làm sao đây? Thằng bé hỏi. Các bạn đòi hỏi gì ở tôi?
– Chúng tôi tìm kiếm ân nhân, lũ mối nhăn nhó bộ mặt hề rít lên, chúng tôi muốn bắt kịp ân nhân trước khi ân nhân bỏ trốn. Bây giờ bắt kịp rồi thì chúng tôi sẽ không để ân nhân được yên, nếu ân nhân không chịu làm thủ lĩnh của lũ chúng tôi. Ân nhân sẽ phải làm sếp mối, làm mối trưởng, làm tướng mối của chúng tôi! Muốn làm sao thì tùy ân nhân.
– Nhưng tại sao chứ, tại sao? Thằng bé thì thầm năn nỉ.
Lũ mối hề lại lại đồng thanh rít lên đáp:
– Chúng tôi muốn ân nhân ra lệnh cho chúng tôi, chỉ huy chúng tôi, buộc chúng tôi làm gì đó, cấm chúng tôi làm gì đó! Chúng tôi muốn rằng sự hiện hữu của mình phải có mục đích gì đấy!
– Tôi không làm được! Sao các bạn không chọn lấy một người trong các bạn?
– Không được, không được, chúng tôi muốn đại ân nhân cơ! Chính ân nhân đã biến chúng tôi thành ra thế này mà!
– Không, thằng bé hổn hển. Tôi phải rời khỏi đây. Tôi phải về thế giới của tôi!
– Đại ân nhân ơi, đừng vội! Những cái miệng hề the thé. Ân nhân đừng hòng thoát khỏi tay chúng tôi. Ân nhân có khác! Định chuồn êm khỏi vương quốc Tưởng Tượng!
– Nhưng tôi không còn biết phải làm gì nữa! Thằng bé phân bua.
– Thế chúng tôi thì sao? Lũ mối đồng thanh đáp. Chúng tôi biết phải làm gì chắc?
– Đi đi, thằng bé kêu. Tôi không thể lo cho các bạn được nữa!
– Vậy thì ân nhân phải biến chúng tôi trở lại như xưa! Chúng the thé nói. Vậy thì chúng tôi muốn lại được là dân Acharai như cũ. Hồ Nước mắt đã cạn khô rồi, thành phố Amargánth đang kẹt cứng. Không có ai bện những sợi tóc bạc hảo hạng nữa. Chúng tôi muốn thành dân Acharai trở lại.
– Tôi chịu thôi! Thằng bé đáp. Tôi không còn quyền lực gì nữa ở vương quốc Tưởng Tượng.
– Vậy thì, lũ mối gào lên, chạy loạn xạ, chúng tôi phải bắt ân nhân theo!
Cả trăm bàn tay nhỏ xíu túm lấy thằng bé, ra sức nâng bổng nó lên. Thằng bé kháng cự kịch liệt khiến lũ mối văng ra tứ phía. Nhưng chúng không ngớt bướng bỉnh sấn vào như lũ ong bắp cày bị chọc phá.
Đột nhiên từ xa vẳng lại thanh âm nhẹ nhàng mà dũng mãnh, như tiếng chuông đồng ngân vang trong mớ âm thanh hỗn độn này.
Trong nháy mắt lũ mối bỏ chạy thành đàn đen sì trong bầu trời cao.
Thằng bé không tên quỳ trên tuyết. Trước mặt nó là tấm hình đã rã thành bụi. Thế là hết. Không còn gì dẫn đường nó tới nguồn “Nước trường sinh” nữa.
Ngước nhìn lên, nó mờ mờ thấy qua làn nước mắt hai hình bóng xa xa trên tuyết, một lớn một nhỏ. Nó dụi mắt rồi nhìn lần nữa.
Đó là con Phúc long Fuchur và Atréju.
XXVI. Nước trường sinh
Zùng zằng, thằng bé không tên ngập ngừng đứng lên, đi vài bước về phía Atréju, rồi đứng lại. Còn Atréju vẫn đứng yên, bình thản chăm chú nhìn nó. Vết thương trên ngực gã không chảy máu nữa[1].
[1] Sau nhiều tuần thì Atréju chắc phải lành vết thương rồi! Ở đây tác giả muốn nhấn mạnh tới điều Bastian hằng quan tâm: vết thương trên ngực Atréju.
Chúng đứng đối mặt nhau hồi lâu, không nói một lời. Không gian im ắng khiến nghe được hơi thở của nhau.
Rồi thằng bé không tên từ từ gỡ sợi dây chuyền vàng với AURYN đang đeo trên cổ. Nó vừa thận trọng cúi đặt “Bảo vật” trên mặt tuyết ngay trước Atréju, vừa nhìn một lần nữa hai con rắn, một trắng một đen, ngậm đuôi nhau thành hình bầu dục.
Nó vừa buông ra thì hào quang bằng vàng của AURYN liền chói ngời khiến nó phải nhắm nghiền mắt như vừa ngó mặt trời. Mở mắt ra, nó thấy mình đang đứng trong một đại sảnh đường mái vòm mênh mông như bầu trời, xây bằng những khối đá làm từ ánh sáng vàng ròng. Chính giữa sảnh đường lớn khôn tả này có hai con rắn to bằng cả bức tường thành đang nằm.
Atréju, Fuchur và thằng bé không tên đứng cạnh nhau bên phía con rắn đen đang ngậm đuôi con rắn trắng. Đôi mắt rắn – với đồng tử thẳng đứng – nhìn chúng chòng chọc. So với con rắn thì chúng nhỏ tí tẹo, ngay cả con Phúc long cũng chỉ như một con tằm trắng.
Hai tấm thân khổng lồ bất động của đôi rắn kia lóng lánh như một thứ kim loại khác thường, một con đen ngòm như đêm tối, con kia trắng như bạc. Sở dĩ chúng không thể gây ra tai họa bởi vì chúng ngậm chặt nhau. Nếu chúng rời nhau ra được thì sẽ tận thế. Chắc chắn như vậy.
Nhưng khi kìm giữ nhau như vậy, chúng đồng thời canh giữ nguồn “Nước trường sinh”. Vì vậy giữa thân chúng một nguồn nước phun lên ào ào mãnh liệt, những tia nước vọt lên rồi rơi xuống như nhảy nhót, khi rơi xuống liền biến thành hàng nghìn hình dạng tan đi trong nháy mắt, mắt thường không thể thấy kịp. Thứ nước sủi bọt kia bắn tung tóe như làn sương mịn với đủ sắc cầu vồng khúc xạ từ ánh sáng vàng ròng nọ, nghe như tiếng rì rào reo mừng, ca hát, cười đùa, kêu gọi với ngàn vạn niềm vui.
Thằng bé không tên nhìn tia nước như một kẻ đang chết khát… nhưng làm cách nào đến đó được? Vì đầu con rắn không nhúc nhích.
Chợt Fuchur ngẩng đầu. Đôi mắt màu hồng ngọc của nó ánh lên.
– Các cậu có hiểu nguồn nước kia nói gì không? Nó hỏi
– Không, Atréju đáp, mình không hiểu.
– Không biết sao, Fuchur thì thầm, tôi lại hiểu rất rõ. Có lẽ vì tôi là một Phúc long. Mọi ngôn ngữ của niềm vui đều gần gũi nhau cả.
– Nguồn nước nói gì? Atréju hỏi.
Fuchur chăm chú nghe, rồi nói lại từng lời nó nghe được:
– “Chúng ta là nguồn ‘Nước trường sinh’!
Các người càng uống,
thì nguồn sẽ càng thêm tuôn chảy.”
Nó lại lắng nghe một lúc rồi nói:
– Nguồn nước không ngớt kêu gọi: “Uống đi! Uống đi! Muốn làm gì, tùy ý!”
– Làm cách nào đến đó được? Atréju hỏi.
– Nguồn nước hỏi tên bọn mình, Fuchur đáp.
– Tôi tên là Atréju! Atréju kêu lên.
– Tôi tên là Fuchur! Fuchur nói.
Thằng bé không tên đứng im thin thít.
Atréju nhìn Bastian, đoạn cầm tay nó nói:
– Bạn tôi tên là Bastian Balthasar Bux.
– Nguồn nước hỏi, Fuchur thông dịch, “Tại sao cậu ấy không tự nói?”
– Bạn tôi không tự trả lời được, Atréju nói, y quên hết rồi.
Fuchur lại lắng nghe tiếng rì rầm.
– Nguồn nước bảo rằng không còn ký ức thì cậu ấy không vào được. Hai con rắn sẽ không cho cậu ấy qua.
– Tôi cất giữ hết mọi điều cho bạn tôi, Atréju kêu lên, mọi điều y đã kể về mình và thế giới của y. Tôi đảm bảo cho y.
Fuchur lại lắng nghe.
– Nguồn nước hỏi cậu lấy tư cách gì để bảo đảm.
– Với tư cách là bạn y, Atréju nói.
Fuchur lại lắng nghe một lúc nữa.
– Không chắc nguồn nước đã chịu đâu. Nó thì thầm với Atréju. Bây giờ nguồn nước đang nói về vết thương của cậu đấy. Nguồn nước muốn biết vì sao cậu bị thương.
– Tại vì tôi và bạn tôi cứ ngỡ chỉ riêng mình đúng thôi[2], Atréju nói, nhưng hóa ra cả hai chúng tôi đều đã nhầm. Nay Bastian đã tự ý trả lại ANRYN rồi.
[2] Nguyên văn: “Cả hai chúng tôi đều có lý”, nhưng dịch như vậy e không rõ ý.
Fuchur lắng nghe rồi gật đầu.