Phần lớn quãng đời thơ ấu của tôi chẳng đẹp đẽ gì, nhưng tôi chưa bao giờ thành món hàng đấu giá tình dục để những người giám hộ có tiền chơi ma túy. Tuy nhiên, người ta lẽ ra có thể nói nhiều điều tốt đẹp hơn về quá khứ của mình.
Cách duy nhất giúp tôi sống sót trong cái thế giới chết tiệt ấy là tưởng tượng ra những thế giới tốt đẹp hơn, vì vậy tôi cố đọc tất cả những gì mình vớ được. Những năm niên thiếu, tôi dành nhiều thời gian trong thư viện đến nỗi các cô thủ thư phải đem những phần bánh sandwich đặc biệt cho tôi. Tôi có bao kỷ niệm ngọt ngào về những người phụ nữ này, những người sẵn sàng giới thiệu sách rồi ngồi nói chuyện hàng giờ với tôi về những gì tôi học được.
Phải rất lâu tôi mới khám phá ra nỗi khát khao dành cho các chất kích thích rồi sẽ ám ảnh tôi suốt thời thanh niên, một thứ bản năng tự nhiên đã buộc phải hình thành sẵn trong tôi. Niềm đam mê đầu tiên và lâu dài nhất của tôi luôn là sự say sưa học hỏi tất cả những vấn đề khơi gợi trí tò mò trong tôi.
Tuy nhiên tôi không đến trường thường xuyên, không phải vì tôi coi việc học hành là mục tiêu thấp kém. Ngược lại là khác: vấn đề của tôi là trường học luôn gây trở ngại cho việc nghiên cứu những đề tài hấp dẫn hơn. Các môn học được trù tính để giảng dạy những thông tin thiết thực nhưng vì thấu hiểu vấn đề cốt lõi quá nhanh nên tôi chẳng thấy hứng thú gì với chúng nữa. Tôi luôn bị sao nhãng bởi những vấn đề bí ẩn xuất hiện ở phần ghi chú trong sách giáo khoa hay một lời nhận xét ngoài lề của giáo viên. Ví dụ: nếu giáo viên hình học của tôi đề cập đến việc Galileo giảng bài về cấu trúc vật lý của Địa ngục, tôi sẽ chẳng còn hứng tập trung lắng nghe khi thầy quay lại giảng về các cạnh của hình bình hành. Tôi sẽ bỏ vài tiết học tiếp theo để lên thư viện, đọc tất cả những gì có thể về Galileo, rồi khi quay trở lại trường tôi sẽ trượt bài kiểm tra toán kế tiếp vì nó chả có câu hỏi nào liên quan đến tòa án dị giáo cả.
Niềm say mê tự học vẫn còn nguyên vẹn, thể hiện rõ trong việc miêu tả quá trình điều trị bỏng của tôi. Chủ đề liên quan mật thiết đến tôi tới mức tôi không thể không gắng hết sức tìm hiểu. Sự nghiệp nghiên cứu của tôi không dừng lại ở đây: quá trình nghiên cứu về tu viện Engelthal, vì nhiều lý do rồi sẽ trở thành rất hiển nhiên, cũng chiếm rất nhiều thời gian của tôi.
Trong khi ngoài thư viện quả thật tôi đã và đang sống một cuộc đời trụy lạc, thì ở bên trong tôi luôn toàn tâm toàn ý vì tri thức như một vị thánh toàn tâm toàn ý với cuốn Kinh Thánh của mình vậy.
Các vết bỏng, theo tôi biết, cũng được phân loại theo độ sâu thương tổn của da. Bỏng bề mặt (bỏng độ một) chỉ ảnh hưởng tới lớp biểu bì, lớp ngoài cùng. Bỏng cục bộ (bỏng độ hai) ảnh hưởng tới phần biểu bì và lớp thứ hai, lớp mô mạch liên kết. Rồi đến bỏng toàn phần (bỏng độ ba), ảnh hưởng tới tất cả các lớp da và để lại sẹo vĩnh viễn.
Những ca nặng – như của tôi – thường là sự kết hợp của các vết bỏng ở nhiều mức độ khác nhau, vì chẳng có ai xoay cái xiên để đảm bảo thịt được nướng đều cả. Ví dụ, tay phải tôi hoàn toàn không bị thương tổn gì. Nó chỉ bị bỏng bề mặt và liệu pháp điều trị duy nhất là dùng loại kem thoa tay thông thường.
Những vết bỏng cục bộ của tôi tập trung chủ yếu tại khoeo chân và xung quanh vùng mông. Da tại đó nhăn lại như những tờ giấy cháy dở, và phải mất vài tháng mới lành. Giờ đây vùng da đó không hoàn hảo chút nào, nhưng mẹ kiếp, nó cũng không quá tệ. Khi ngồi xuống tôi vẫn có thể cảm nhận được mông mình.
Những vết bỏng toàn phần giống như miếng thịt nướng ông già nhà bạn để quên trên lò nướng ngoài trời lúc say rượu. Bỏng loại này phá hủy hoàn toàn; các mô không thể lành lại được. Vết sẹo có thể trắng, đen hay đỏ. Nó là một vết thương khô cứng, mãi mãi không mọc được lông vì các nang lông đã bị đốt sạch. Thật kỳ lạ là chẳng hề đau chút nào, vì các đầu dây thần kinh đã cháy hết rồi còn đâu.
Những vết bỏng ở tay, đầu, cổ, ngực, tai, mặt, chân và vùng đáy chậu đòi hỏi sự quan tâm đặc biệt. Những vùng này chiếm tỷ lệ cao nhất trong Quy tắc Số Chín. Vết bỏng hai phân rưỡi ở đầu nguy hiểm hơn nhiều so với vết bỏng hai phân rưỡi ở lưng. Bất hạnh thay, đây là nơi các vết bỏng độ ba của tôi tập trung nhiều nhất, tôi đã gieo phải đôi súc sắc mắt rắn(6).
Có vài cuộc tranh luận trong giới y học về việc liệu có bỏng độ bốn thực hay không, nhưng với tôi đây đơn thuần chỉ là một đống bác sĩ khỏe mạnh ngồi trong phòng họp tranh biện về ngữ nghĩa học. Những vết bỏng độ bốn này, nếu ta chấp nhận cái thuật ngữ khoa học ấy, ăn sâu xuống tận xương và gân. Tôi cũng phải chịu cả những vết bỏng ấy nữa; như thể việc cái sàn xe cứa hết các ngón chân trái của tôi vẫn còn chưa đủ nghiêm trọng, những vết bỏng được gọi là bỏng độ bốn này cướp mất của tôi ba ngón chân phải, một ngón rưỡi bàn tay trái. Và, Chúa ơi, còn thêm một phần cơ thể nữa.
Bạn nên nhớ là tôi đã làm rớt rượu bourbon lên quần ngay trước vụ tai nạn, một thời điểm đúng là không thể nào tệ hơn được. Hậu quả là đây, đùi tôi thấm đẫm chất dẫn cháy đến nỗi cả vùng bị bỏng nghiêm trọng. Dương vật của tôi như một cây nến trồi ra ngoài cơ thể và cùng bị thiêu chín trong lửa, để cái bấc nến cháy khô ở lại nơi từng là niềm tự hào đàn ông của tôi. Không thể cứu vãn, nó đã bị cắt bỏ ngay sau khi tôi nhập viện trong một quy trình được gọi là phẫu thuật cắt bỏ dương vật.
Khi tôi hỏi người ta đã làm gì với phần còn lại của cái ấy, cô y tá thông báo cho tôi rằng nó đã bị thải loại với tư cách là rác y tế. Như để an ủi, cô giải thích thêm là các bác sĩ vẫn để bìu và hòn của tôi được nguyên vẹn. Lấy đi tất cả thì quá đáng quá, có lẽ sẽ có người nghĩ thế, cả gốc lẫn ngọn.
Nhà Grace chết trong vụ nổ phòng pha chế đá, chín năm sau lần đầu tôi tới nhà xe lưu động của họ. Chẳng có gì ngạc nhiên: còn ý tưởng nào tồi tệ hơn việc lũ nghiện chế thuốc trong không gian kín, với nguyên liệu bao gồm cả dầu đèn, sơn pha loãng và cồn tẩy rửa?
Tôi chẳng cảm thấy hụt hẫng chút nào. Vào lễ tang của họ, tôi đến nói chuyện với các thủ thư về cuốn tiểu sử của Galileo Galilei mà tôi đang đọc dở – vì quả thực, thầy giáo hình học đã khơi gợi niềm hứng thú với các nhà khoa học trong tôi.
Mặc dù bất kỳ học sinh nào cũng có thể kể về việc Galileo bị ngược đãi dưới tay tòa án dị giáo, nhưng cuộc đời thật của ông phức tạp hơn nhiều. Ông chưa bao giờ có ý định làm con chiên “ghẻ”, và khi bị cấm rao giảng học thuyết Vũ trụ Nhật tâm, trong nhiều năm ông đã ngoan ngoãn tuân theo. Con gái Virginia của ông gia nhập tu viện nữ dưới cái tên đáng yêu, xơ Maria Celeste, trong khi cô con gái Livia cũng khoác lên mình chiếc áo tu hành dưới cái tên không kém phần thoát tục là Arcangela. Chuyện này có nét gì đó tương hợp một cách nên thơ vì – dù cho bây giờ tên ông được dùng như cách nói tắt khi đề cập tới việc khoa học bị tôn giáo đàn áp – cuộc đời Galileo đã gắn kết tôn giáo và khoa học với nhau. Người ta nói rằng khi Tommasco Caccini, một cha xứ trẻ dòng Dominic, trở thành người đầu tiên công khai chỉ trích kịch liệt việc Galileo ủng hộ học thuyết Copernic, ông ta đã kết thúc bài rao giảng của mình bằng một câu trích trong Tông đồ công vụ: Hỡi những người con đất Galilee, sao các ngươi lại đứng ngước nhìn lên Thiên đường? Tuy nhiên, điều Caccini không ngờ tới là nếu Galileo có ngước mắt nhìn lên bầu trời, thì khả năng ông đang cầu nguyện cũng cao ngang khả năng ông đang vẽ biểu đồ chuyển động của các thiên thể.
Vào năm hai tư tuổi, Galileo dự tuyển vào vị trí giảng dạy tại trường đại học với hai bài thuyết trình về cấu trúc vật chất trong Địa ngục của Dante. Hầu hết các nhà tư tưởng hiện đại coi đây là việc hết sức kỳ dị, nhưng vào thời Galileo, nghiên cứu vũ trụ theo quan điểm của Dante là một vấn đề vô cùng nóng hổi. (Chẳng phải ngẫu nhiên mà các buổi thuyết trình đều diễn ra ở học viện Firenze tại thành phố quê hương của nhà thơ.) Bài thuyết trình thành công vang dội và giúp Galileo có được chỗ đứng vững chắc với tư cách Giáo sư Toán học tại đại học Pisa.
Mãi về sau này Galileo mới nhận ra rằng quan điểm ông bảo vệ trong bài thuyết trình là không chính xác và luận điểm cho rằng cấu trúc hình nón của Địa ngục có tỷ lệ bất biến, nghĩa là nó có thể tăng về kích thước mà không mất đi tính nguyên vẹn hay sức mạnh, là không đúng. Nếu Địa ngục thực sự tồn tại bên trong Trái đất, thì cái hố khổng lồ đó sẽ khiến lớp phủ Trái đất (quyển manti) gãy vụn trừ phi thành Địa ngục dày hơn nhiều so với mức ông tranh luận ban đầu. Vì vậy Galileo bắt tay vào nghiên cứu bản chất định luật tỷ lệ và, vào cuối đời, công bố những phát hiện của ông trong cuốn sách Two New Sciences (Hai ngành khoa học mới) với những nguyên lý góp phần hình thành nên vật lý hiện đại – một bộ môn khoa học giờ được chia thành từng phân ngành nhỏ vì Galileo đã nhận ra sai lầm của mình khi áp dụng các định luật tự nhiên cho một địa điểm siêu nhiên.
Nhưng nếu Địa ngục là nơi có thực, thì tôi cũng chẳng mấy nghi ngờ việc Debi và Dwayne Michael Grace giờ này đang ở đó.
Tôi bất tỉnh trong gần bảy tuần, được bọc trong túi da người chết. Tình trạng hôn mê của tôi phát sinh từ cú sốc nhưng rồi các bác sĩ quyết định cứ để tôi bất động thế để trị liệu trong khi quá trình phục hồi diễn ra.
Tôi không cần phải có ý thức khắc phục sự suy sụp của hệ tuần hoàn, tôi cũng không cần phải quan tâm đến những thương tổn vùng thận. Tôi không biết ruột mình đã ngừng hoạt động. Tôi chẳng biết gì về những vết lở loét làm tôi nôn ra máu hay việc các y tá tất tả giữ cho tôi khỏi chết ngạt mỗi khi chuyện này xảy ra. Tôi không cần phải chau mày lo lắng về nguy cơ viêm nhiễm sau mỗi ca phẫu thuật cấp cứu hay ghép da. Tôi cũng chẳng được thông báo gì về việc các nang tóc đã cháy ra tro hay tuyến mồ hôi bị phá hủy. Tôi không biết gì khi họ hút bồ hóng ra khỏi phổi – quy trình trị liệu, tiện đây nói luôn, được gọi là biện pháp vệ sinh phổi.
Dây thanh quản của tôi thương tổn nặng nề do hít quá nhiều khói, và thủ thuật mở khí quản đã được thực hiện để thanh quản có thể tự liền mà không phải lắp một cái ống đè lên gây khó chịu. Chẳng làm được gì hơn. Một phần khác của cơ thể tôi cũng ít được quan tâm trong giai đoạn đầu là cái chân phải, bị gãy nát. Các bác sĩ phải chờ cho tình trạng của tôi ổn định rồi mới bắt đầu phẫu thuật nối lại phần xương đùi giập gãy và đầu gối nát tươm. Giữ lại mạng sống cho tôi quan trọng hơn là giữ một giọng nói êm tai và dáng đi không quặt quẹo.
Trong suốt thời gian hôn mê, teo cơ là điều không thể tránh khỏi. Thiếu vận động và mất đi phần lớn da trên người, cơ thể tôi tiến hành việc ăn chính nó. Nó tiêu thụ chất đạm bên trong, tiêu hao một lượng lớn năng lượng chỉ để giữ nhiệt độ ổn định. Tấm chắn nhiệt không cáng đáng được hết, vì thế cơ thể tôi ngưng vận chuyển máu đến các chi. Mối quan tâm của cơ thể là cơ quan trung tâm, vùng ngoại vi bị bỏ mặc, rồi tôi ngừng thải nước tiểu và bị ngộ độc. Khi cơ thể co thắt, tim tôi nở ra; không phải vì tình yêu, mà vì căng thẳng.
Tôi bị dòi bọ phủ kín, một liệu pháp vốn được áp dụng thường xuyên hơn trong quá khứ nhưng gần đây đã phổ biến trở lại trong lĩnh vực y khoa. Các con bọ ăn phần thịt chết, trở nên béo ú trên vùng da thịt thối rữa của tôi, trong khi giữ lại nguyên vẹn phần thịt lành. Các bác sĩ khâu mí mắt tôi lại để bảo vệ mắt và tất cả những gì tôi cần là một người đặt lên đó hai đồng xu tiễn biệt tôi sang thế giới bên kia. Rồi thì, tôi sẽ trở nên hoàn thiện.
Tôi có một ký ức hạnh phúc thời sống với nhà Grace: hạnh phúc, nhưng được đánh dấu bởi một sự kiện hết sức lạ lùng.
Buổi biểu diễn tàu lượn diễn ra vào một ngày nóng nực giữa tháng Tám tại sân bay gần đó. Mấy cái máy bay không làm tôi thích thú – nhưng những người nhảy dù, với chiếc dù bật mở tới tận thiên đường và dải khói đầy màu sắc kéo dài phía sau thì có! Cú rơi từ bầu trời xuống mặt đất, cú bổ nhào của thần thợ rèn Hephaestous chậm lại ngay chỉ bằng một động tác bung những mảnh vải lụa, không khác gì một phép màu. Những người nhảy dù điều khiển cái đòn bẩy kỳ diệu của họ, lượn quanh những hồng tâm lớn màu trắng in nổi trên mặt đất, luôn nhắm trúng đích, vào đúng tâm. Đó là điều đáng ngạc nhiên nhất tôi từng được chứng kiến.
Không biết từ khi nào, một người phụ nữ châu Á đã tiến lại ngay phía sau tôi. Tôi cảm thấy bà trước khi nhìn thấy bà; như thể da tôi nổi gai ốc trước sự xuất hiện của bà vậy. Khi tôi quay lại thì bà đã đứng đó, khẽ mỉm cười. Tôi vẫn còn nhỏ và không biết bà là người Trung Quốc, Nhật Bản hay Việt Nam; bà có làn da cùng đôi mắt của người châu Á và chỉ cao ngang tôi thôi, dù tôi lúc đó mới mười tuổi. Bà mặc một chiếc áo choàng đen đơn giản khiến tôi nghĩ bà hẳn phải thuộc một giáo phái nào đó. Trang phục của bà không bình thường chút nào nhưng dường như chẳng ai trong đám đông nhận ra cả, và đầu bà thì trọc lóc.
Tôi muốn hướng sự chú ý trở về với các vận động viên nhảy dù nhưng không thể. Không thể khi bà vẫn cứ hiện diện sau lưng. Vài phút trôi qua, tôi cố gắng không nhìn bà, nhưng rồi không thể kìm được nữa. Tất cả những người khác đều ngước mắt lên bầu trời còn bà thì nhìn thẳng vào tôi.
“Bà cần gì ạ?” tôi bình tĩnh hỏi; tôi chỉ cần một câu trả lời. Bà không nói gì mà chỉ tiếp tục cười với tôi.
“Bà không nói được ạ?” tôi hỏi. Bà lắc đầu, rồi đưa ra một mảnh giấy. Tôi do dự một chút trước khi cầm lấy nó.
Trên đó viết: Cháu chưa bao giờ băn khoăn vết sẹo của mình thực sự từ đâu mà có ư?
Khi tôi nhìn lại, bà đã biến mất. Trước mắt tôi chỉ có đám đông đang ngẩng hết mặt lên trời.
Tôi đọc lại mảnh giấy lần nữa, không tin nổi bà có thể biết được dị tật trên cơ thể mình. Nó ở trên ngực tôi, bị giấu sau lớp áo, và tôi chắc chắn mình chưa từng gặp người phụ nữ này bao giờ. Nhưng ngay cả khi tôi có vì lý do này khác mà lỡ quên mất cuộc hội ngộ với một người phụ nữ châu Á trọc đầu mặc áo choàng, thì cũng chẳng có cớ gì khiến tôi chỉ cho bà vết sẹo của mình.
Tôi lách qua đám đông, tìm kiếm mọi dấu vết của bà – cái áo choàng dài lướt qua những toán người, phần sau cái đầu trọc – nhưng chẳng có gì cả.
Tôi bỏ mảnh giấy vào túi áo, và từ lúc đó cho đến hết ngày còn lấy ra vài lần để chắc rằng nó có thực. Dwayne Michael Grace hẳn thấy mình rất hào phóng vì đã mua cho tôi chiếc kẹo bông ở gian hàng bánh kẹo. Rồi Debi ôm tôi, và chúng tôi gần như là một gia đình vậy. Sau buổi biểu diễn tàu lượn, chúng tôi tham dự hội thả đèn lồng giấy trên con sông gần đó, một quang cảnh tuyệt đẹp và không hề giống với tất cả những gì tôi nhìn thấy từ trước tới nay.
Khi tôi trở về nhà vào tối hôm đó, mảnh giấy đã biến mất khỏi túi áo dù tôi giữ gìn rất cẩn thận.
Tôi mơ hết giấc mơ này đến giấc mơ khác trong suốt thời gian hôn mê. Những hình ảnh lẫn lộn cứ đan xen vào nhau, cạnh tranh quyết liệt để giành chỗ đứng trên trung tâm sân khấu trong rạp xiếc.
Tôi mơ thấy một phụ nữ nông thôn đang đun nước tắm. Tôi mơ thấy máu từ tử cung mẹ tôi trào ra. Tôi mơ thấy đôi cánh tay mềm nhũn của người bà đang hấp hối, đẩy xích đu cho tôi bay cao mãi vào bầu trời xanh thăm thẳm. Tôi mơ thấy những ngôi chùa Phật giáo gần những dòng sông mát lành trong trẻo cuộn chảy. Tôi mơ thấy cô nhóc bị mẹ đem bán lấy tiền mua ma túy tổng hợp. Tôi mơ thấy cái lò nung bị biến dạng là chiếc ô tô của tôi. Tôi mơ thấy con tàu chiến của người Viking. Tôi mơ thấy cái đe của người thợ rèn. Tôi mơ thấy đôi bàn tay của người thợ điêu khắc chạm trổ những nét mạnh mẽ lên đá. Tôi mơ thấy những mũi tên bốc cháy vọt ra từ bầu trời, tôi mơ thấy những đám lửa đổ xuống như mưa. Tôi mơ thấy kính vỡ khắp nơi. Tôi mơ thấy một thiên thần hoảng loạn bị đóng băng dưới nước.
Nhưng trên tất cả, tôi mơ thấy những gargoyle(7) đang chờ được sinh ra.
Sau sự kiện ở trường bay, tôi cứ quen tay chà vào vết sẹo bẩm sinh trên ngực. Tôi chẳng bao giờ để ý là mình đang chà, nhưng người khác thì có. Dwayne ghét chuyện đó, ông ta vừa hất tay tôi ra khỏi ngực vừa nẹt tôi “dừng cái trò tự sướng ấy ngay”. Rồi ông ta lại hít thêm thuốc, khiến người khác thấy khó mà coi trọng những lời chỉ trích đó được.
Khi Dwayne và Debi chết, tôi mất luôn những người họ hàng duy nhất còn sót lại – họ ngoại, dĩ nhiên; họ nội của tôi chẳng là gì ngoài một dấu chấm hỏi. Tôi được đưa vào trại trẻ Cơ Hội Thứ Hai, điều này chỉ làm tôi thêm băn khoăn là mình đã có cơ hội đầu tiên khi nào vậy. Chính ở trại trẻ Cơ Hội Thứ Hai này tôi được theo học hầu hết các chương trình giáo dục do chính phủ tài trợ. Thời trung học tôi đến lớp khá đều đặn, dù thấy chán ngấy, và học được những kiến thức cơ bản về toán và các môn khoa học. Toàn bộ thời gian tôi dành cho thư viện hoàn toàn không hề lãng phí. Tôi đã mày mò tự học từ lâu trước khi ai đó cố dạy cho tôi thứ gì.
Với sự giúp đỡ của những đứa trẻ ở Cơ Hội Thứ Hai, tôi nhanh chóng phát hiện ra đủ loại chất kích thích để thử nghiệm. Trong khi rất ghê loại đá, tôi lại khá hứng thú với cần sa và thuốc lá hasit. Trên thực tế, tôi đã sớm nhận được sự khuyến khích từ dì chú, những người vốn không nhận ra rằng người ta vẫn có thể sống sót mà không cần hóa chất hỗ trợ nên đã cố gắng tránh cho tôi không dùng bất kỳ thứ nào nặng hơn.
Tôi cũng khám phá ra sở thích thứ ba đi kèm với thư viện và chất kích thích: sự diệu kỳ trong chuyện chăn gối. Bắt đầu bằng việc khẩu dâm mang tính chất thăm dò với thằng bạn thân mới quen, Eddie. Đây là trò các cậu trai tuổi teen hay làm: chúng thách một thằng hôn cái ấy và khi thằng kia làm rồi thì gọi nó là thằng ái. Đêm tiếp theo, chuyện tương tự diễn ra. Tôi thích quan hệ tình dục nhưng chẳng khoái gì đồng tính, vì thế tôi nhanh chóng làm chuyện đó với vài cô bé ở trại trẻ – đặc biệt là một cô tên Chastity, trinh bạch, ơn Chúa là cô ta chẳng có khái niệm gì về ý nghĩa cái tên của mình cả. Thực ra mà nói, cô ta không có khái niệm về nhiều thứ lắm. Lần đầu tiên nghe thấy cụm từ “khẩu dâm” cô còn tưởng nó liên quan gì đó đến tai(8). Quan hệ tình dục qua đường tai, bạn có thể liên tưởng thế.
Mười bảy tuổi, tôi tiếp tục thỏa mãn những tò mò giới tính của mình với một bà cố vấn trẻ vị thành niên. Được chính phủ bảo trợ không phải là không có lợi. Sarah là người phụ nữ đầy phiền muộn, nếu trên đời này thực sự tồn tại một kẻ như thế: một bà vợ ba lăm tuổi nghiện rượu với một ông chồng gian dối và phải trải qua giai đoạn đầu khủng hoảng tuổi trung niên. Tôi đem lại sự khuây khỏa và vui thú cho bà ta còn bà ta cho tôi tình dục. Cũng chẳng thiệt hại gì khi tôi trổ mã, không còn là cậu nhóc dễ thương với khuôn mặt bầu bĩnh nữa. Má tôi trở nên góc cạnh hút hồn, tóc tôi gợn sóng cuốn hút, và cơ thể tôi nở nang với cơ bắp thật quyến rũ.
Đến năm mười tám tuổi, khi không còn chịu sự quản lý của ai nữa, tôi đã thành thạo hai biệt tài. Một là hút hít, hai là quan hệ với bà cố vấn, và tôi thấy cần phải biến một trong hai biệt tài này thành cần câu cơm. Có vẻ hút hít không phải một nghề hậu hĩnh, nhưng có thể dễ dàng kiếm được năm mươi đô la nhờ chụp ảnh khỏa thân, trong thời buổi thế giới chả thiếu gì những gã đàn ông trung niên sẵn sàng trả tiền để ngắm các cậu bé đứng trần trụi trong phòng khách nhà mình. Tôi không phê phán gì chuyện đó; tôi còn bận tính xem năm mươi đô có thể mua được bao nhiêu cái bánh hamburger. Rồi chẳng mấy chốc cát sê nhảy vọt lên một trăm năm mươi đô la cho những bức ảnh chụp cảnh chăn gối và – dù sao thì vì bạn đã chụp ảnh rồi – cũng chẳng có gì khó hiểu khi thu nhập tăng gấp đôi gấp ba nhờ đóng phim video. Hơn nữa, ai lại không muốn làm ngôi sao điện ảnh chứ? Mỗi thước phim mất nhiều nhất là vài ngày; nhưng thường chỉ mất vài giờ. Đó là một khoản hậu hĩ đối với một thằng nhóc mười tám tuổi chẳng có kỹ năng gì, và đơn giản như thế đấy, sự nghiệp đóng phim khiêu dâm của tôi bắt đầu.
(1) Lễ kỷ niệm ngày Chúa Jesus bị đóng đinh trên thập tự giá, rơi vào ngày thứ Sáu trước lễ Phục sinh hằng năm (khoảng từ 20/3 đến 23/4).
(2) Nguyên văn: Charon. Nhân vật trong thần thoại Hy Lạp, người lái đò chuyên đưa linh hồn người chết qua sông.
(3)Keith Richards: ca sĩ, nhạc sĩ người Anh, thành viên sáng lập ban nhạc The Rolling Stones. Ông đã từng phải thay máu để cai nghiện ma túy.
(4) Trắc nghiệm nhân cách do nhà tâm thần học Thụy Sĩ Hermann Rorschach sáng tạo năm 1917, bằng cách sử dụng một tập hợp mười giọt mực đối xứng để tìm hiểu xem người ta nhìn thấy những gì, qua đó làm công cụ chẩn đoán các bệnh tâm thần.
(5) Methamphetamine, một loại ma túy tổng hợp. Trên thị trường, chất ma túy này có thể được bán dưới dạng bột hoặc viên nhộng. Người chơi methamphetamine có thể hít, hút, tiêm hoặc nuốt. Khi vào cơ thể, chất này sẽ làm tăng huyết áp, gây tổn thương não, làm thay đổi tính tình.
(6) Trong trò Craps (một trò chơi sử dụng súc sắc), “mắt rắn” là từ lóng chỉ việc gieo cùng lúc ra hai con nhót. Dấu chấm duy nhất trên hai con súc sắc làm người ta liên tưởng đến cặp mắt nhỏ tí của con rắn, và vì là số nhỏ nhất, đồng nghĩa với khả năng thua cao nên người ta thường gắn nó với điềm gở.
(7) Loài sinh vật bay trong truyền thuyết có cánh dơi, tai của loài gặm nhấm, móng vuốt nhọn hoắt và hàm răng sắc bén. Từ gargoyle thường được dùng để chỉ những bức tượng đá nối với một ống máng được thiết kế để tiêu thoát nước khỏi mái nhà, nhưng nó chủ yếu được dùng với mục đích nghệ thuật và nhằm xua đuổi ma quỷ ra ngoài nhà.
(8) Trong tiếng Anh, từ oral (miệng) phát âm giống với aural (tai).