Điều đáng sợ nhất là tôi nhận ra mình không thể bảo vệ con chúng ta khỏi nguy hiểm nữa. Điều này làm tinh thần tôi hoàn toàn suy sụp. Tôi nhắm mắt lại, bởi vì đây là việc người ta luôn làm khi đang ở dưới nước và sắp chết. Thân thể tôi cứ thế rơi xuống, và mọi nỗi sợ của tôi đã đồng loạt biến mất. Khoảnh khắc khi ta chấp nhận từ bỏ mọi thứ thật đẹp đến nao lòng. Theo cách này thì sẽ dễ dàng hơn, tôi nghĩ vậy và cảm thấy được an ủi một chút, trong những giây cuối cùng trước khi tất cả mọi thứ đều chìm vào bóng tối.
Chuyện xảy ra tiếp theo – tôi có thể nói cho anh nghe, nhưng tôi không thể giải thích được. Không thể giải thích được một cách chuẩn xác, không phải theo cách anh có thể hiểu được. Bẩm sinh, tôi đã được ban cho khả năng ngôn ngữ đặc biệt và tôi đã hoàn thiện nó trong suốt bảy trăm năm, nhưng những từ ngữ có thể dùng để miêu tả chuyện xảy ra ngày hôm đó thì lại không hề tồn tại. Không tồn tại trong tiếng Anh, không tồn tại trong bất kỳ ngôn ngữ nào tôi biết.
Khi tôi tỉnh lại, không có vẻ gì là thức tỉnh cả, vì thực ra tôi có ngủ đâu. Dường như tôi đã rơi vào trạng thái vô thức, và giờ đây tôi đã tỉnh táo trở lại. Nhưng không phải sự tỉnh táo mà chúng ta dùng để hiểu thế giới xung quanh: nó là một thứ vĩ đại hơn, một thứ rộng vô biên và sâu vô độ. Tôi vẫn còn ở dưới mặt băng, vẫn bị dòng Pegnitz cuốn đi, nhưng cùng lúc ấy tôi cũng không ở trong làn nước của chính dòng sông ấy. Tôi đang ở trong dòng nước của cả thế giới, của cả vũ trụ, nhưng thậm chí nói tôi “ở” trong nước cũng không đúng bằng cách nói tôi là một phần của nó. Tôi đã tan vào dòng nước; tôi đã biến thành chất lỏng rồi.
Khi người ta chết đi và có thể quay trở lại bằng cách nào đó, họ luôn luôn nói về một tia sáng cuối đường hầm. Đây không phải chuyện tôi đã trải nghiệm. Có ánh sáng nhưng đó không phải là một đường hầm, ánh sáng ở khắp xung quanh người tôi. Những luồng sáng phản quang nâng đỡ tôi, giúp tôi nổi lên mặc dù chẳng hề có đáy biển để tôi phải thoát ra. Nó ở trong tôi và xuyên qua tôi; tôi là nước và tôi là ánh sáng. Tôi có cảm giác mình là một luồng sáng lỏng đang trôi đi, một quầng sáng bình thản không có sức nóng cũng chẳng lạnh lẽo. Tôi không còn chút cảm giác nào về cơ thể của chính mình nữa.
Thời gian không tồn tại khi cơ thể không còn tồn tại, bởi vì chỉ có cơ thể mới thực sự có ý niệm về thời gian. Chúng ta hiếm khi để ý đến cảm giác bẩm sinh của bản thân về thời gian cho tới khi nó bị lấy đi. Đó là lý do những người bị bệnh mất trí đã bấn loạn đến thế khi họ nhận ra tình trạng mình đang mắc phải. Không phải vì họ đã mất đi ký ức – tất cả chúng ta đều cùng mất đi ký ức; đó là bởi vì họ đã mất đi thời gian.
Tôi bắt đầu nhận thấy những sự hiện diện. Anh không thể gọi đó là những bóng ma hay linh hồn, bởi vì chúng thậm chí còn không có được hình dạng đó nữa. Chúng tồn tại chỉ bởi vì tôi cảm nhận được chúng. Nhưng cảm nhận một lần nữa lại không phải từ chính xác, bởi vì làm sao tôi có thể cảm nhận được thứ không có thực thể? Như ánh sáng và nước, chúng đều ở trong tôi. Tôi có thể cảm thấy chúng rõ rệt đến mức tôi biết rằng chúng không chỉ hiện đang ở trong tôi, mà chúng đã luôn ở đó từ trước rồi. Tôi đã luôn lờ chúng đi, trong cả cuộc đời mình, như một cách tự vệ. Việc đó giống như lắng nghe một cuộc nói chuyện – anh không thể tập trung vào từ ngữ được nói ra nếu anh cũng đang dỏng tai nghe tiếng đồng hồ tích tắc trong phòng và tiếng ô tô ngoài cửa, tiếng bước chân cuối hành lang cùng tiếng thở của người đàn ông ngồi bên cạnh người phụ nữ đang nhấp từng ngụm trà. Anh không thể làm tất cả những việc này cùng lúc, vì thế anh chỉ có thể tập trung vào lời của người đang nói thôi. Đó là cách con người giải quyết với tất cả những giọng nói vô tận họ có thể đón nhận. Anh nghe những suy nghĩ của chính mình, và anh đóng những suy nghĩ khác lại.
Nhưng giờ đây tôi có thể thấu hiểu được tất cả những giọng nói bên trong tôi. Tôi có thể nghe được mọi sự hiện diện đó, và chúng nghe như tiếng của những vòng tròn bằng vàng vậy. Tôi có thể nếm được chúng, và chúng có vị như sự an ủi. Chúng chạm vào tôi, và sự va chạm có cảm giác như âm nhạc.
Thấy không? Tôi ước gì mình có thể diễn tả được nó, nhưng tôi không thể. Nó không thể diễn tả được. Người nào nghĩ rằng có thể miêu tả được Chúa Vĩnh Hằng thì người đó chưa bao giờ thực sự trải nghiệm điều đó cả.
Ba sự vật tách khỏi ra khỏi vật chủ và tiến về phía trước. Dù họ không có hình thù thực sự, tôi vẫn có thể nhận ra họ đã từng là ai, dù trong đời thật tôi mới chỉ gặp một trong số họ, cha Sunder. Người thứ hai là Meister Eckhart và người thứ ba là Mechthild von Magdeburg.
Tôi biết đây không phải trò lừa bịp mà là một món quà đáng được trân trọng. Nó thật tự nhiên, thậm chí còn làm tôi cảm thấy rất thanh thản, khi cha Sunder nói rằng ông rất vui được gặp lại tôi. Không từ ngữ nào nói ra; dường như tôi có thể cảm nhận được những suy nghĩ của ông quyện vào tôi. Meister Eckhart và xơ Mechthild von Magdeburg cũng giao tiếp với tôi cùng bằng cách ấy. Cuộc “trò chuyện” của chúng tôi là một tấm kính vạn hoa với những rung động rực rỡ.
Họ không đến đó để mang tôi đi, họ giải thích như vậy, bởi vì tôi vẫn chưa sẵn sàng. Tôi chưa thực sự chết và vẫn còn nhiều việc phải làm. Họ sẽ giúp tôi đạt đến cái ngưỡng khi tôi sẵn sàng chết, và để thực hiện mục tiêu đó, họ đã được chỉ định làm những Chủ Nhân của tôi.
Tại sao con lại không bị đưa xuống Địa ngục? tôi giao tiếp với họ. Con đã giết người đàn ông con yêu nhất.
Mọi việc không diễn ra như vậy. Tội của Eve là đã ăn trái cấm, và vì điều này cô ấy đã bị trừng phạt bằng sự Sa ngã của Nhân loại. Với tội ác của đời con, phải cần đến sự chuộc tội nào?
Con không được phép quyết định điều này.
Nhưng đó là việc con phải làm. Con đường con chọn đã đưa con ra khỏi Cuộc đời của Chúa và đặt con vào bàn tay Thần Chết. Con có sám hối không?
Không. Thậm chí trước sự hiện diện của Chúa Vĩnh Hằng, tôi vẫn có thể nhớ được khoảng thời gian tôi sống với anh. Đúng là con đã phản lại lời thề nữ tu của mình, phản lại nữ tu viện trưởng và Chúa Tối cao khi làm chuyện đó, nhưng con chưa bao giờ phản bội bản thân. Con vẫn luôn trung thực với trái tim mình, và con sẽ không bao giờ hối cải vì tình yêu của mình. Đó là điều tuyệt vời nhất con từng làm.
Ba Vị Chủ Nhân của tôi hiểu rằng tôi vẫn sẽ giữ vững tình yêu mình dành cho anh, dù cận kề cái chết. Chắc chắn họ đã thấy điều này trước đây, và chắc chắn họ sẽ thấy điều này một lần nữa.
Trái tim của con luôn tự chủ, món quà tuyệt diệu nhất và cũng đáng nguyền rủa nhất của con. Vì vậy con sẽ phải sám hối bằng chính trái tim của mình.
Cứ để vậy đi.
Con đã học được cách trao trọn vẹn trái tim của mình cho người đặc biệt, nhưng con vẫn chưa học được cách chia sẻ trái tim vượt trên cái tôi của mình và người khác.
Con thừa nhận đây là sự thật.
Con sẽ quay trở lại thế giới của mình, và ngực của con sẽ ngập tràn hàng ngàn trái tim mới. Con sẽ phải trao chúng đi, cho tới khi chỉ còn lại một.
Làm sao con có thể làm được điều này?
Những trái tim này phải được lấy ra khỏi ngực con và chết thay con, trong khi đó chúng sẽ đi tìm sự sống ở những người khác. Làm thế con mới có thể vượt được bản ngã trần tục và sẵn sàng đến với Chúa.
Con không biết cách.
Con sẽ học.
Vậy khi nào con chỉ còn lại trái tim cuối cùng?
Trái tim đó con không thể tự trao đi được. Trái tim cuối cùng phải được trao cho người yêu của con. Anh ta phải nhận lấy nó, nhưng anh ta cũng không được giữ nó. Anh ta phải thả nó đi, để giải phóng cho con. Chỉ bằng cách này thì con mới có thể đến được bên Chúa.
Con không hiểu được tại sao người yêu của con lại liên quan đến chuyện này.
Người yêu của con sẽ hiểu được.
Đây là lúc mọi thứ kết thúc. Tôi bị kéo ra khỏi Chúa Thánh Thần, nước và ánh sáng ngừng chảy xuyên qua tôi, và tôi bị ném thẳng lại vào dòng nước lạnh giá tối đen của sông Pegnitz.
Khi tỉnh lại, tôi thấy mình đang nằm ngửa và không thể mở nổi mắt ra được. Mắt tôi bị băng bao kín và phải mất năm phút nỗ lực hết mình thì tôi mới có thể chớp chớp mắt được. Khi đó là sáng sớm và cơn bão đã tan. Tôi cố cất tiếng nói nhưng không thể phát ra được âm thanh nào, vì toàn thân tôi đều bất động. Thân thể tôi lạnh chưa từng thấy.
Tôi bắt đầu rung lắc nhẹ các ngón chân và ngón tay, cho tới khi tôi có thể bắt toàn bộ các chi hoạt động. Tôi cố đứng dậy, loạng choạng. Tôi đang ở phía sau một cái lán nào đó, và cách tôi độ một trăm mét là một trang trại nhỏ. Tôi lật đật chạy về phía đó, loạng choạng không chỉ vì hai chân đông cứng mà còn vì quần áo cũng đang cứng hết vì băng. Khói cuộn lên từ ống khói và tôi không biết mình có thể đi được đến nơi nếu không có sự ấm áp đầy hứa hẹn kia không. Tôi gõ cửa vài lần cho tới khi một bà lão nông dân mở cửa và mắt ấy trợn trừng vì hoảng sợ khi nhìn thấy tôi. Đối với bà, tôi rõ ràng là thây ma đến nhà.
Khi nhận ra tôi vẫn chưa chết, bà gọi chồng mình và bắt đầu cởi chỗ quần áo đông cứng của tôi ra. Ông cho tôi ăn xúp, trong khi bà quấn tôi trong hàng đống chăn và xoa bóp chân tay tôi để giúp máu dễ tuần hoàn. Khi tôi đã hồi phục được kha khá, chúng tôi bắt đầu lắp ghép các mảnh sự kiện đã xảy ra. Tôi đã bị cuốn đi vài dặm trên sông và kẹt lại tại một vùng nước chưa bị đóng băng. Tình cờ một người nông dân già đi qua và kéo tôi lên. Hai mắt tôi mở trừng trừng, tóc tôi cứng đơ dựng ngược cả lên, và thân thể tôi thì không có lấy một dấu hiệu sự sống nào.
Người nông dân nghĩ rằng tất cả mọi người đều xứng đáng được an táng tử tế, và đó là lý do ông kéo tôi ra khỏi dòng sông. Mặt đất quá cứng để có thể xới ra làm mộ được, thế là với quá ít sự lựa chọn, ông đã quyết định để tôi lại phía sau cái lán nhà họ và chôn tôi chỗ gần suối. Ông không thể mang một xác chết vào nhà mình, dĩ nhiên rồi, nhưng vì lý do thực tế hơn là mê tín. Xác tôi rồi sẽ phân hủy và bốc mùi. Chúng tôi đoán, tất cả mọi người đều nghĩ vậy, chắc do nước quá lạnh nên tôi trông như đã chết rồi. Những chuyện như thế vẫn thường xảy ra; có rất nhiều câu chuyện kể về những người bị chìm trong nước và mãi sau khi ai cũng tưởng họ chết rồi thì họ đột ngột sống lại.
Tôi ở lại với họ vài ngày, nhưng không bao giờ nói cho họ biết tại sao tôi lại ngã xuống sông. Tôi chỉ nói với họ rằng tôi đang đi dạo thì băng vỡ ra dưới chân tôi. Chẳng việc gì phải kể lại câu chuyện về Engelthal, hay về những tên lính đánh thuê, hay về Ba Vị Chủ Nhân của tôi. Chỉ riêng việc tôi còn sống sót đã khó tin lắm rồi.
Khi tôi đã đủ khỏe để có thể đi tiếp, tôi trở lại bờ sông Pegnitz để lấy cái túi đã giấu kín của mình, và rồi đi đến Mainz. Tôi còn đi đâu được nữa chứ? Tôi chuyển vào sống trong khu nhà của người Beguine và sống đời mặc niệm và cầu nguyện. Tôi phần nào đã trở lại với cuộc sống trước khi gặp anh, nhưng tôi đã bị thay đổi bởi tình yêu của anh sâu đậm đến nỗi không thể trở lại làm con người cũ được. Tôi không làm sách nữa, dù vào thời điểm ấy tôi đã hoàn thành bản dịch cuốn Địa ngục. Lý do tôi làm việc đó rất ích kỷ – không phải vì tôi nghĩ mình đang sáng tạo một tác phẩm có thể trường tồn cùng thời gian, mà vì dịch nó làm tôi cảm thấy được gần anh hơn.
Đoạn kết câu chuyện của tôi không quan trọng. Những năm tháng cuộc đời tôi được dành để trao tặng những trái tim nhưng tôi không bao giờ nghĩ rằng mình có thể ngừng sám hối cho tới gần đây, bởi vì tôi luôn biết rằng không thể trao trái tim cuối cùng của mình cho tới khi chúng ta lại gặp nhau.