Anh dạy qua cho tôi cách giương cung và ngắm mục tiêu. “Em để nó tựa vào vai mình, thế này này, và đây là cách em đưa mục tiêu vào tầm ngắm. Em giữ chắc vũ khí bằng cách thở chậm lại. Hít vào, thở ra, hít vào, thở ra. Từ tốn. Ngắm. Tin vào mũi tên. Thở ra. Thả tay.”
Anh đặt cây cung vào cái bao đeo bên sườn ngựa và mở áo khoác của tôi ra để đặt một tay lên cái bụng đang phập phồng của tôi. Anh dùng tay còn lại luồn sợi dây có xỏ đầu mũi tên lên cổ tôi. “Để làm bùa hộ thân. Và em cần nó nhiều hơn anh. Em có thể trả nó lại cho anh khi chúng ta gặp lại nhau, vì anh hứa rằng tình yêu của chúng ta sẽ không kết thúc như thế này đâu.”
Rồi anh phát vào ngựa của tôi để bắt nó chạy đi. Tôi nhoài người lại nhìn anh lần cuối, anh đứng đó nhìn tôi phóng ngựa đi trước khi dồn mọi sự chú ý vào con đường sẽ đưa tôi và đứa con chưa chào đời của chúng ta ra khỏi vòng nguy hiểm.
Tuyết cuộn xoáy trước mặt tôi. Tôi cố hình dung chuyện gì sẽ xảy đến với anh. Có bao nhiêu tên lính đánh thuê sẽ đến chứ? Một tá? Hai tá? Tôi nghĩ rằng điều đó còn phụ thuộc vào việc chúng có đang đánh thuê cho một vị lãnh chúa nào đó, ở một nơi nào đó không. Hay Kuonrat sẽ mang tất cả lính của mình tới, để chúng có thể thấy chuyện gì sẽ xảy ra với những kẻ đào ngũ? Tôi lo lắng không biết liệu có cơ hội nào cho anh trốn thoát không. Tôi đã biết tài bắn cung của anh nhưng với số lượng đông như vậy… Sao anh có thể trốn được khỏi cái quá khứ cứ quyết bắt anh phải trả giá? Gió nổi lên, tuyết trắng đến lóa mắt. Giá rét xuyên qua quần áo, thấu vào tận xương tủy.
Tôi không thể làm thế. Tôi không thể đi mà không có anh. Tôi thật ngốc nghếch khi nghĩ mình có thể rời bỏ anh, ngay khi anh cần tôi nhất. Đi được nửa giờ thì tôi quyết định quay ngựa và dồn hết sức bình sinh phóng thẳng lại nơi tôi đã đi qua. Tôi chỉ mong rằng không quá muộn.
Tìm lại đường giờ là một việc rất khó khăn, nhưng tôi biết tất cả mọi con đường dẫn tới nhà của Heinrich. Tuy thế, khi chỉ còn khoảng hơn trăm mét nữa, tôi không thể thấy được nó trong cơn bão đang cuồng loạn gào thét. Nhưng rồi tôi nghe thấy tiếng của rất nhiều người, theo gió bay đến tai tôi, vậy là tôi biết trong khoảng thời gian mình rời đi, bọn condotta đã tới. Vấn đề duy nhất là không biết anh và Brandeis đã thoát được hay chưa.
Tôi thúc ngựa lên rặng đồi trông xuống ngôi nhà, lẩn vào bụi rậm tôi đã từng dùng làm nơi chơi trốn tìm khi còn nhỏ. Tôi thậm chí không nghĩ rằng có thể sẽ có lính luẩn quẩn ở đó; tôi đã rất may mắn khi chỉ có một mình. Tôi luồn vào một bụi cây nơi có thể buộc tạm con ngựa vào một nhành cây rủ xuống gần đó, và tìm một chỗ có thể nhìn được chuyện gì đang xảy ra ở dưới. Tôi biết với cơn bão tuyết này, tôi chắc chắn sẽ không bị phát hiện.
Gần như ngay lập tức tôi thấy điều tôi lo sợ nhất: anh đã không trốn thoát được, và bọn lính đang lôi anh ra khỏi nhà. Một giọng sang sảng cất lên giữa gió bão. Đó là Kuonrat Háo Danh, cười sung sướng trước sự may mắn của mình. “Không phải một kẻ đào ngũ, mà là hai! Hai cơ đấy!”
Bọn lính bẻ quặt tay anh ra sau lưng rồi đẩy anh quỳ sụp xuống đất. Kuonrat bước tới trước một bước rồi đặt tay lên cằm anh, bắt anh ngẩng đầu lên để buộc anh phải nhìn vào mắt hắn. Vẫn tiếp tục cười, hắn nhìn như thể đang cố thuyết phục bản thân rằng hắn thực sự đã rất may mắn. Một bóng ma được mang đến từ nơi xa xôi nhất trong ký ức của hắn. Một bóng ma hắn có thể dùng để dạy những kẻ còn sống một bài học.
Tôi có thể làm được gì? Tôi nghĩ đến việc lấy cung ra bắn. Trong bão tuyết, bọn lính sẽ không thể biết được có mũi tên đang bay đến cho tới khi quá muộn, và chúng thậm chí cũng không thể biết được nó bay đến từ đâu. Nhưng làm thế thì ích gì? Bọn chúng có ít nhất hai mươi tư tên, đều là những kẻ giết thuê, và tôi chưa bao giờ sử dụng cung tên trong đời. Tôi có thể may mắn hạ được một tên. Nhưng, tôi nghĩ, nếu tôi có thể ngắm thành công, chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi bắn trúng Kuonrat? Liệu bọn lính có tán loạn lên khi chúng thấy thủ lĩnh của mình bị hạ không?
Dĩ nhiên không. Chúng đều là dân chuyên nghiệp và tôi cũng biết mình không có gan giết ai cả, kể cả Kuonrat.
Phải mất mấy tên lính mới ghìm được anh xuống đất, nhưng Brandeis đã yếu đến nỗi chỉ hai tên đã dựng được anh ấy dậy. Khi chúng thả anh ấy ra, anh ấy đổ sụp xuống đất trong khi Kuonrat hất hàm hỏi, “Ngươi có gì để nói không?”
Những trận gió tuyết khắc nghiệt lướt qua chúng, phóng thẳng về phía tôi, mang những lời chúng nói đến nơi trú ẩn của tôi. Có thể nghe được những gì chúng nói là may mắn hay bất hạnh, tôi không chắc được, nhưng lúc đó tôi đã rất biết ơn vì mình không phải lẻn đến nấp gần bọn chúng hơn.
Brandeis mang dáng vẻ của một kẻ tội đồ khốn khổ đang cầu xin tha thứ và cơn gió đã mang những lời anh ấy nói đến tai tôi. “Anh muốn giết tôi kiểu gì tùy thích. Bằng mọi hình thức khủng khiếp anh muốn, bằng mọi hình thức khủng khiếp anh có thể đưa ra. Lấy tôi mà làm gương. Tôi thừa nhận mình đã bỏ trốn khỏi đội condotta. Tôi chỉ là một đứa trẻ run sợ. Tôi chỉ cầu xin anh trừng phạt tôi, và chỉ mình tôi mà thôi.”
“Nghe trò ngã giá của những kẻ chẳng có gì để đánh đổi mới thú vị làm sao,” Kuonrat vừa cười sằng sặc vừa nói.
Brandeis cương quyết không để tràng cười này ảnh hưởng đến những việc làm cuối cùng của anh ấy trên trần gian. Tên đao phủ đang đứng trước mặt anh nhưng Brandeis không một lần cầu xin cho mạng sống của chính mình. Không, anh ấy dùng những giây phút cuối cùng của mình để tha thiết cầu xin cho mạng sống người bạn thân nhất của anh ấy.
Brandeis chỉ ra rằng khi anh ấy rời đội condotta, đó hoàn toàn là một quyết định sai lầm của chính bản thân anh ấy – nhưng khi anh rời đi, thì đó lại chẳng phải một quyết định gì cả. Ý của Chúa đã làm anh bị trọng thương trên chiến trường, chứ không bị giết. Ý của Chúa đã khiến trận đánh diễn ra quá gần Engelthal và anh đã được đưa đến đó. Ý của Chúa giúp anh lành những vết thương lẽ ra đã có thể lấy mạng anh. Không có bằng chứng nào thể hiện việc Chúa muốn anh sống, Brandeis lý luận, đanh thép hơn cái sự thật là hiện tại anh vẫn sống cả.
Brandeis chỉ về phía anh. “Sinh mạng này còn giữ được là do ý Chúa, vì thế hãy tha thứ cho tội lỗi của anh ấy và nhân đôi tội của tôi. Tôi biết anh là một vị chỉ huy thông thái và công bằng, Kuonrat, và tôi biết rằng anh cũng không muốn kháng lại ý Chúa đâu.”
Lặp đi lặp lại rằng việc anh sống sót là do ý Chúa là một chiến thuật rất thông minh. Nếu có bất cứ điều gì có thể giúp anh khỏi bị hành hình, thì đó chính là niềm tin của Kuonrat rằng giết anh sẽ mạo phạm đến mong muốn của Chúa. Rõ ràng hắn chẳng coi con người ra cái gì, nhưng có lẽ Chúa lại là chuyện khác.
Cơn bão quét tuyết bay tứ tán khắp vùng. Theo bản năng, Brandeis quay mặt đi để bảo vệ mắt và tôi thấy một vệt sáng bạc lóe lên, như thể cánh tay Kuonrat đã được kéo dài ra. Một dòng máu đỏ bắn ra khắp nơi trên mặt đất và đầu của Brandeis văng trong không trung vài mét rồi bị lực hấp dẫn kéo rơi độp xuống đất.
Kuonrat lau sạch thanh kiếm của hắn, lưỡi thép vẫn còn bốc khói với dòng máu nóng. “Ý Chúa chẳng là gì. Ý ta mới quan trọng.”
Hắn quay lại, vừa nói vừa cười vào khuôn mặt đang choáng váng của anh, rằng hắn có trò hay hơn dành cho anh. Một trò không quá đau đớn và cũng không quá nhanh chóng đâu. Xét cho cùng, sự biến mất của anh cũng lâu hơn của Brandeis rất nhiều.
Kuonrat gọi lũ lính của mình lại và giao nhiệm vụ cho chúng. Một phần ba trong số chúng phải đi vào rừng kiếm củi và cành khô. Một phần ba khác sẽ đến nhà Heinrich để lục lấy bất cứ đồ vật có giá trị nào – thức ăn, tiền bạc, quần áo – mà bọn lính có thể đem đi đổi chác được. Nhóm quân còn lại nhận lệnh chuẩn bị xử anh.
Những tên lính lôi anh qua xác của Brandeis. Máu vẫn rỏ ra từ cổ anh ấy, hòa vào đống tuyết đỏ rực. Bọn lính kéo anh đến chỗ nhà Heinrich, dựng anh dựa vào bức tường. Chúng đá vào mắt cá chân anh cho đến khi anh buộc phải giạng chân ra, và dang hai tay anh đến gần hết chiều rộng của ngôi nhà. Khi anh cố chống cự lại, chúng đã đánh, tát vào mặt anh và cười như thể đây chỉ là một trò đùa quái dị nào đó.
Một tên lính, cao to hơn tất cả những tên còn lại, tiến về phía anh với cái rìu trên tay. Tim tôi như nẩy lên và nghẹn lại trong cổ họng, vì tôi chắc chắn rằng hắn sắp chặt chân tay anh. Nhưng không phải vậy. Những tên lính khác, những tên đang giữ tay anh, cố kéo mấy ngón tay đang nắm chặt thành nắm đấm của anh cho đến khi lòng bàn tay anh lộ ra. Một tên lính đang cầm cái gì đó đâm vào bàn tay phải của anh. Tên lính cao to xoay cán rìu lại, và tôi nhận ra cái vật đó là một cây đinh. Hắn dùng phần cùn của chiếc rìu như một cái búa gõ cây đinh đâm sâu vào lòng bàn tay anh. Dù đã ở xa đến thế, tôi vẫn nghe được tiếng xương bàn tay anh gãy vụn như tiếng xương cổ gà bị bẻ gãy. Anh rú lên và điên cuồng giật tay ra, cố kéo tay ra khỏi bức tường, nhưng nó bị đóng quá chặt. Chúng tiếp tục làm thế với bàn tay trái của anh, một cái đinh nữa đóng xuyên qua lòng bàn tay, một vệt máu nữa lại bắn lên tường. Vai anh run lên yếu ớt và tất cả những mạch máu trên cổ anh trông như thể sắp nổ tung đến nơi.
Tiếp theo, những tên lính cố giữ chặt chân anh, nhưng anh vùng vẫy điên dại vì quá đau đớn. Vì thế tên cầm rìu giơ phần rìu sắc nhọn lên và phang nó thẳng vào đầu gối anh nơi dây chằng nối với xương. Đùi anh vẫn chưa đứt hẳn nhưng cẳng chân anh đã trở nên vô dụng, treo lủng lẳng như thể nó chỉ được gắn vào người anh bằng những sợi dây thừng gần như sắp đứt rời ra. Những tên lính cười phá lên, lại một trò hay ho nữa, và tay anh vẫn tiếp tục nhỏ máu xuống dọc bức tường.
Chúng tóm lấy mắt cá chân anh, việc này giờ đã trở nên dễ dàng một cách kỳ cục, đâm đinh qua bàn chân anh khiến anh bị đóng cứng vào bức tường cách mặt đất tuyết phủ đến hơn hai mét. Tiếng xương bàn chân anh bị gãy, những chiếc xương ấy mới thật mỏng manh yếu đuối làm sao, thật quá sức chịu đựng, và máu, máu ở khắp mọi nơi. Anh trông như đang bay lên, với hai tay làm điểm tựa; giờ anh trông không khác gì một bóng ma, trôi trên nền ngôi nhà. Chúng muốn dùng chính sức nặng của anh để treo anh lên, vì làm thế sẽ gây cho anh nhiều đau đớn hơn. Chúng thích thú nhìn những cây đinh yếu ớt không thể chống đỡ được sức nặng của anh, và chúng thích thú đóng những cây đinh mới vào cẳng tay anh để anh không rơi khỏi bức tường. Máu chảy dần khỏi cơ thể anh còn thi thể không đầu của Brandeis nằm trên tuyết đỏ, vệt máu loang càng lúc càng rộng, và đỏ hơn, còn những cột khói, những cột khói cứ thi nhau bốc lên. Tôi lấy cung tên ra khỏi chỗ giấu trên lưng ngựa và bước một bước về phía cảnh rùng rợn ấy, muốn chạy ngay xuống đồi để đến với anh, nhưng sợi dây rốn của đứa con chưa ra đời của chúng ta đã kéo tôi lại, tôi nhận ra mình chẳng thể làm được gì cả. Cây cung treo lủng lẳng trên tay tôi, thật vô dụng khi ở cạnh tôi, tiếng tim tôi đập lớn đến nỗi tôi tin bọn lính ở xa kia cũng có thể nghe thấy. Cả những tiếng khóc mà tôi không thể nén lại được nhưng một phần trong tôi chẳng thèm quan tâm và một phần khác thậm chí còn muốn bị bắt, muốn được chết, vì giờ đây tôi còn sống để làm gì nữa? Nhưng chúng đã không thể nghe thấy tôi, gió vẫn mang tiếng khóc và tiếng tim đập của tôi đi, nhưng chúng còn đang quá bận cười theo nhịp máu rỏ của anh, và tôi không thể làm được gì nếu không hy sinh mạng sống của con chúng ta.
Giờ những tên lính được cử đi tìm củi đã quay lại và Kuonrat chỉ vào chỗ đất dưới chân anh. Chúng xếp củi ngập lên quá đầu gối của anh. Và tôi biết chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo. Gió giật và tuyết quất làm việc nhóm lửa trở nên rất khó khăn, nhưng lính đánh thuê là những kẻ đã quá quen cuộc sống hoang dã rồi, nên chúng biết cách cúi thấp người để làm hàng rào cản gió. Rất nhanh chóng, một tia lửa lóe lên và những cành củi khô bắt đầu âm ỉ cháy, khói bốc lên và tôi có thể nghe thấy tiếng nhựa cây bén lửa nổ tí tách, nó làm tôi nhớ đến bàn tay cùng bàn chân gãy nát của anh. Những ngọn lửa nhỏ dần trườn về phía các ngón chân anh nhưng anh không thể kéo chúng ra chỗ khác được, chúng vẫn bị đóng đinh chặt vào tường. Rồi Kuonrat ra lệnh cho đám lính cầm cung lên, châm lửa vào mũi tên, bọn chúng liền làm theo, khi những đầu mũi tên đã ngập trong lửa, chúng đứng thành hình bán nguyệt và đồng loạt ngắm về phía anh. Kuonrat nói rằng nhiệm vụ của chúng không phải là bắn chết anh mà ngắm sao cho mũi tên càng gần anh càng tốt, trò chơi là như thế, mục tiêu là châm lửa cho bức tường cháy và dần dần thiêu đốt anh từ mọi phía thay vì chỉ từ dưới lên. Nhưng rồi Kuonrat nghĩ ra một ý hay hơn và đổi ý bảo bọn lính rằng chúng có thể bắn vào anh cũng được, miễn là không vào những chỗ hiểm – xé rách chân tay anh cũng không sao, nhưng bắn vào đầu hay ngực anh thì không được và giọng của hắn tràn ngập sự sung sướng, tự mãn trước sự thông minh xuất chúng của mình, bọn xạ thủ giương cung lên và bắt đầu vừa bắn vừa gọi tên các bộ phận cơ thể anh – “Tay trái!” “Chân phải!” “Đùi trên!” – và chúng đã bắn rất chuẩn, chúng hầu như luôn trúng vào những bộ phận được gọi tên. Khi một mũi tên trúng đích, tất cả bọn chúng reo hò hưởng ứng, và nếu một mũi tên trật mục tiêu, hết thảy đều chửi đổng lên, như thể đó chỉ là một trò chơi trong lễ hội, và lửa dưới chân anh ngày càng lan rộng ra, những ngọn lửa mới bùng lên khắp xung quanh người anh, bốc cháy với mỗi mũi tên được bắn ra.
Giữa những tiếng reo hò sung sướng của bọn lính đánh thuê, Kuonrat gào lên tiếng chào vĩnh biệt dành cho anh. “Tất cả mọi thứ sẽ cháy nếu lửa đủ nóng. Thế giới chỉ là một lò lửa đang hừng hực cháy.”
Và rồi tôi đã biết mình phải làm gì.
Tôi lần tay vào trong lớp áo khoác, tìm chiếc vòng cổ của mình, tôi nắm chặt lấy đầu mũi tên đã được cha Sunder ban phước, và tôi cầu xin sức mạnh.
Tôi nâng cây cung lên. Tôi cố gắng nhớ lại bài học anh đã dạy. Mọi bí quyết đều nằm ở cách thở, anh đã nói thế, em hãy giữ chắc vũ khí bằng cách thở chậm lại. Hít vào, thở ra, hít vào, thở ra. Từ tốn. Ngắm. Tôi kiểm tra lại lần nữa xem mũi tên đã được lắp đúng chưa. Tôi biết mình sẽ chỉ có một lần bắn tên duy nhất, lần bắn tên đầu tiên và cũng là cuối cùng của tôi. Cách thở là quan trọng nhất. Tin vào mũi tên. Thở ra.
Tôi cầu Chúa giúp đưa mũi tên bay thẳng và trúng mục tiêu, đâm vào chính giữa ngực anh, xuyên qua cơn bão tuyết và bọn lính condotta.