Vừa tiến vào hành lang, Marianne Engel vừa nắm lấy tay tôi. Ánh đèn ở đây mờ mờ ảo ảo, và những tấm biểu ngữ ma quái cứ xổ xuống từ trần nhà. Mạng nhện giăng khắp bốn góc và hàng tá mèo đen lượn lờ quanh phòng. (Tôi băn khoăn họ kiếm đâu ra lắm thế; có phải cướp ở một trung tâm thú nuôi nào đấy không?) Khách khứa tập trung hết tại phòng khiêu vũ. Có nửa tá xương khô đi lại trong phòng, lúc lắc mấy cái xương sơn trắng hếu trên những bộ quần áo bó sát màu đen. Marie Antoinette, đội tóc giả và đánh phấn trắng xóa với cái cổ áo siêu trễ, đang nói chuyện với Quý cô Godiva, mái tóc vàng óng trải dài xuống bộ quần áo bó sát. Một kỵ binh cảnh sát Canada đang uống whiskey với Al Capone. Một người phụ nữ mặc bộ quần áo cà rốt chúa khổng lồ, vung vẩy cái quyền trượng rau, đứng bên cạnh bạn trai thỏ. Một ông Albert Einstein say xỉn đang tranh cãi với một ngài Jim Morrison tỉnh táo và, ở một góc xa xa, hai con quỷ đang đọ xem đuôi ai xịn hơn. Một người phục vụ lướt qua với chiếc khay bạc trong tay và Marianne Engel điệu nghệ nhấc một cốc martini, nhấp một ngụm trước khi hôn lên cái má đeo mặt nạ của tôi.
Chúng tôi kiếm được một cái bàn phủ khăn đỏ như máu, một cây nến nhô ra giữa bộ sưu tập nhãn cầu bằng thủy tinh. Chúng tôi ngồi cùng nhau: cạnh Marianne Engel là một người đàn ông mặc áo vịt cao su và cạnh tôi là một nữ cảnh sát quyến rũ.
Chẳng mấy chốc tôi đã nhận ra rằng Halloween sẽ là ngày lễ ưa thích nhất của mình. Khi người nữ cảnh sát khen ngợi bộ đồ hóa trang của tôi, tôi đã bịa rằng “trong đời thực” tôi là giáo viên Ngữ văn ở một trường trung học. Sau khi Marianne Engel uống hết ly martini thứ ba – thật thú vị, vì cô rất hiếm khi uống rượu – cô đã kéo tôi lên sàn nhảy. Cô biết rõ là tôi luôn thầm mong được khiêu vũ cùng cô; tôi không tập luyện chăm chỉ với Sayuri chỉ để cả đời làm một bông hoa treo tường.
Ban nhạc chơi một điệu waltz tiết tấu nhanh, và Marianne Engel đứng thẳng người để đỡ lấy tôi bằng đôi tay điêu khắc của cô. Cô chăm chú nhìn vào mắt tôi và, trong giây lát, tôi có cảm giác biển cả như xô ập tới trước mặt mình. Tôi không biết chúng tôi đã bất động nhìn nhau như thế trong bao lâu trước khi cô đưa chúng tôi hòa theo điệu nhạc. Tôi chỉ phải bước theo cô; cô dường như có một trực cảm bẩm sinh về sức mạnh cơ thể hiện tại của tôi. Không một lần tôi phải lo lắng về chuyện cái đầu gối yếu ớt của mình phải chịu sức nặng vượt quá mức chịu đựng khi chúng tôi xoay vòng tròn quanh những cặp Romeo và Juliet, gần mấy đôi Esmeralda và Quasimodo, lướt qua vài cô Uma và anh Travolta. Marianne Engel nhìn thẳng vào mắt tôi, luôn luôn, và những đôi nhảy khác trong phòng nhòa vào một vũ điệu màu sắc không chút quan trọng đối với chúng tôi.
Mọi thứ cứ thế trôi, tôi không biết là trong bao lâu, và nó sẽ còn tiếp tục lâu nữa nếu tôi không bắt gặp hình ảnh, xuất hiện trong khóe mắt của tôi, một đôi nhảy rất thú vị. Lúc đầu, tôi nghĩ đầu óc mình có vấn đề và tự nhủ rằng họ thực sự không thể ở đó được. Họ biến mất khi Marianne Engel kéo tôi vào một vũ điệu nửa vòng tròn, và tôi thực sự mong rằng họ sẽ biến mất ở lượt khiêu vũ tiếp theo. Nhưng họ đã không làm thế.
Lần này tôi không thể coi là không có họ ở đó được: một phụ nữ Nhật Bản mặc một bộ đồ thầy tu với cái đầu trọc tương phản rõ rệt với mái tóc đỏ hoe của người chiến binh Viking cô đang nhảy cùng. Cô thật duyên dáng còn anh thì thật vụng về, chẳng khác gì xem một con chim sẻ cưỡi lên sừng một con bò vậy. Cô mím chặt môi đầy bướng bỉnh khi cái bao kiếm của anh đập vào hông cô và khi cô tìm cách đặt tay lên eo anh để được thoải mái hơn, một chút đất đã rơi ra khỏi ống tay áo cô.
Marianne Engel lại xoay tôi thêm một vòng nữa trước khi chúng tôi quay lại vị trí lúc đầu, cặp nhảy đó đã biến mất. “Cô có thấy họ không?”
“Thấy ai?”
Ngay lúc ấy, tôi lại nhìn thấy một cặp khác. Lần này người phụ nữ mặc quần áo thời nữ hoàng Victoria nhưng rất gọn ghẽ, như một loại quần áo để đi làm đồng chứ không phải khiêu vũ. Nó không phải bộ đồ đáng được ngoái nhìn lần thứ hai ở một vũ hội hóa trang thế này – trừ cái việc nó ướt sũng: nước nhỏ giọt xuống sàn nhà, làm thành vũng dưới chân cô. Người thanh niên trông khá vui vẻ dù tay anh phải ôm một người phụ nữ ướt như chuột lột, không mảy may bận tâm đến chuyện đó. Anh mặc một chiếc áo da thú và có cánh tay to với cái bụng còn to hơn. Cô vừa mỉm cười vừa nhã nhặn nói, nhưng cô cứ ngước nhìn qua vai anh như để tìm kiếm một ai đó khác. Chúng tôi chỉ đủ gần để tôi có thể nghe thấy anh nói bằng tiếng Ý và cô đáp bằng tiếng Anh: “Tom? Em không biết…”
Marianne Engel cố xoay tôi thêm lần nữa, nhưng tôi đã buông ra. Tôi chỉ rời mắt khỏi hai người đó một chút nhưng cũng kịp cho họ biến mất rồi. Tôi điên cuồng nhìn khắp đám đông để tìm xem có dấu hiệu nào của họ không, nhưng chẳng có gì cả.
Tôi quay lại chỗ người phụ nữ thời Victoria để rớt nước ra sàn. Nhưng sàn nhà khô cong. Tôi tìm khắp sàn nhà chỗ đất đã rơi khỏi ống tay áo của người phụ nữ Nhật Bản. Nhưng sàn nhà sạch không chê vào đâu được. Tôi quỳ sụp xuống đất, dùng tay lần khắp nơi trên sàn, và những người khác tránh xa khỏi tôi như thể tôi là một thằng điên. Tôi bò khắp nơi, tìm tất cả mọi thứ có thể tìm được nhưng chẳng thấy gì. Marianne Engel cúi xuống thì thầm vào tai tôi. “Anh đang tìm cái gì vậy?”
“Cô đã nhìn thấy họ. Có phải không?”
“Tôi không biết anh đang nói về cái gì.”
“Những hồn ma.”
“Ôi. Những hồn ma.” Cô khúc khích cười. “Anh không thể cứ chăm chăm đi tìm họ mãi được, anh biết còn gì. Việc đó giống như tóm đuôi lươn vậy. Cứ khi anh nghĩ mình đã tóm được chúng rồi, chúng sẽ tuột khỏi tay anh ngay.”
Chúng tôi ở lại đó thêm vài giờ nữa, nhưng tôi dành hết thời gian để tìm mấy con ma. Tôi biết mình đã nhìn thấy một thứ không thể tồn tại: nó không phải là ảo giác đánh lừa. Tôi đã nhìn thấy họ. NGƯƠI CŨNG ĐIÊN NHƯ CÔ TA THÔI. Câm ngay, con rắn thối tha. Ta sẽ tống cho mụ nhiều morphine đến nỗi mụ chỉ muốn lột da cho nhanh mà thôi.
Khi chúng tôi về đến nhà, Marianne Engel mang trà ra để cố làm tôi bình tĩnh lại. Khi thấy trà không có tác dụng, cô quyết định tiếp tục kể câu chuyện của chúng tôi. Có lẽ biết được chúng tôi có cưới nhau hay không, cô nói, có thể làm tôi cảm thấy khá hơn.