Nhân lúc ở nhà một mình khi Marianne Engel đi chợ mua tạp phẩm, tôi quyết định dành trọn buổi chiều để đọc tác phẩm Ân điển-cuộc đời. Tôi đang ngồi đọc trong nhà bếp thì nghe tiếng ai đó đi qua cổng chính pháo đài, bước những bước chân như của một con tê giác mẹ hùng hục đi tìm con.
“Marianne?” Giọng một phụ nữ bắn những âm tiết như một khẩu súng khạc ba viên đạn một lúc. Vừa xuất hiện trước cửa phòng ăn, bà lùi ngay lại trước sự hiện diện của tôi. “Anh là người đó hả? Lạy Chúa tôi! Thế này còn tệ hơn tôi tưởng.”
Thấp, nhưng thấp kiểu Napoleon; cái kiểu thấp mà luôn kiễng chân lên để cố trông có vẻ cao hơn. Mập, nhưng mập kiểu một quả bóng nước; da thịt không nhão nhoét, nhưng cứ tròn ung ủng như đang tìm chỗ để nổ tung lên. Tuổi tác sao, năm mươi chăng? Rất khó nói chính xác, nhưng có lẽ vậy. Bà chưa có nếp nhăn; khuôn mặt quá tròn mà. Tóc ngắn cũn, má hồng rực; bộ âu phục đen với áo sơ mi trắng, ve áo rộng hất ra phía trước; giày đánh xi bóng lộn; tay chống hông. Mắt bà đầy vẻ hiếu chiến, như thể đang thách tôi đập một cú vào cằm bà ấy. Bà nói, “Anh đúng là một đống bầy nhầy không hơn không kém.”
“Bà là ai?”
“Jack,” bà trả lời. Cuối cùng tôi đã đứng trước mặt người đàn ông luôn làm tôi cảm thấy bất an, chỉ để thấy rằng đó là một người đàn bà. Nhưng rõ ràng Jack Meredith trông cũng chẳng khác típ phụ nữ luôn mong mình là đàn ông.
“Người môi giới của Marianne phải không?”
“Anh cứ yên tâm là không bao giờ sờ được một xu nào của cô ấy đâu.” Bà một tay tự pha cà phê cho mình, một tay cứ không ngừng xỉa xỉa vào tôi. “Cô ấy nói anh được sống ở đây hả?” Có vẻ như Jack biết câu trả lời rồi, vì bà chẳng thèm cho tôi cơ hội trả lời. “Cô ấy định chăm sóc anh kiểu gì? Nói tôi nghe coi!”
“Tôi không cần cô ấy chăm sóc mình,” tôi nói, “và tôi cũng chẳng quan tâm gì đến tiền bạc của cô ấy.”
“Thế thì là gì? Tình dục à?” Bà bật ra cái từ đó đầy khinh khi để tôi hiểu rằng bà coi tình dục chẳng là gì ngoài một cuộc vật lộn ghê tởm giữa hai cơ thể khác biệt.
“Tôi chẳng có cái ấy đâu.”
“Ồ, ơn Chúa vì chuyện đó.” Bà bỏng cả môi khi nhấp ngụm cà phê đầu tiên. “Chúa rất yêu những kẻ khờ.”
Bà vớ lấy một nắm giấy ăn để lau vệt cà phê dây ra cằm, vừa làm vừa soi tôi với vẻ coi khinh xen lẫn tò mò. “Thế thực ra là đã có chuyện gì xảy ra với anh?”
“Tôi bị bỏng.”
“Ồ, tôi có thể thấy thế mà, anh tưởng tôi ngốc chắc?” Bà vo tròn mấy tờ giấy ăn lại rồi ném thẳng vào thùng rác. Bà ném trượt và bực tức với bản thân vì chuyện đó, bà bước vài bước cần thiết để nhặt cục giấy ăn lên thả vào thùng. “Bị bỏng hả? Tệ quá.”
“Bà lúc nào cũng cứ thế mà đi thẳng vào nhà à?”
“Tôi đã vào cái nhà này từ khi anh còn là một thằng nhóc ăn trộm đồ uống ở các buổi khiêu vũ trung học cơ,” Jack quát ầm lên, “và tôi cũng chẳng thích thú gì cái việc anh ở lại đây cả. Anh có thuốc lá chứ?”
“Tôi không hút.”
Bà với lấy gói thuốc lá Marianne Engel để trên quầy. “Trong tình trạng anh hiện nay thì đó có vẻ là một ý hay đấy.”
“Thế bà là người môi giới của Marianne à?” Tôi vẫn chưa có được câu trả lời cho câu hỏi lúc đầu.
“Thế và hơn nữa, cậu trai, nên hãy cư xử cho cẩn thận.” Jack hít một hơi thật sâu rồi chĩa điếu thuốc về phía tôi vẻ buộc tội. “Cái kẻ chẳng biết gọi là gì này, anh sống ở đây à, thật là một ý tưởng siêu tồi tệ. Tôi sẽ thuyết phục cô ấy bằng được, đồ quỷ nhỏ.”
Có lẽ bạn cũng có thể đoán được là tôi rất thích Jack Meredith. Trước hết bởi bà là người duy nhất nói đủ to để tôi không phải bảo bà lặp lại cho tôi nghe. Nhưng hơn thế, tôi đã bị hớp hồn bởi cá tính mạnh bạo của bà: bà cứ như một con gà tây béo tròn nhân hóa được chọn làm nhân vật chính cho tiểu thuyết trinh thám kỳ bí của Raymond Chandler vậy. Tuy nhiên, điểm làm tôi cảm kích bà nhất là bà chẳng có chút cảm thông nào với bệnh nhân bỏng. Chúng tôi nhìn nhau vài phút qua cái bàn. Bà vừa cuộn điếu thuốc lá giữa ngón cái và ngón trỏ vừa nheo nheo mắt, vẻ rất khó chơi, trước khi nói: “Cậu nghĩ mình đang nhìn cái quái gì đấy hả, đồ Khoai Tây Chiên?”
Vài ngày sau, Marianne Engel và tôi ngồi ở hiên sau nhà đợi người ta chở một chuyến đá phiến mới đến, cô bảo với tôi rằng cô đã nhờ Jack lập một tài khoản ngân hàng cho tôi. Khi tôi nói tôi chả tưởng tượng được Jack lại vui vẻ chịu làm việc ấy, Marianne Engel nói, “Bà ấy sẽ làm những gì được nhờ thôi. Jack chỉ giỏi dọa chứ không làm gì đâu.”
TA BIẾT CHÚNG TA CÓ THỂ LÀM ĐƯỢC NHỮNG GÌ VỚI MỘT CÁI THẺ TÍN DỤNG ĐẤY.
Cuộc nói chuyện của chúng tôi lan man đôi chút, trước khi tôi quay lại hỏi cô về đoạn kết câu chuyện của chúng tôi: Tôi muốn biết áo tơi là cái gì. Marianne Engel giải thích đó là một loại áo mưa mà các tu sĩ hay dùng, được trang trí với những cảnh trong kinh Tân ước. Tôi lại hỏi thế áo mưa của cha Sunder có hình gì không. Cô xác nhận là có. “Và tôi sẽ nói cho anh biết đó là hình gì,” cô ngập ngừng nói như trêu ngươi, “khi câu chuyện tiếp tục.”
Khi xe tải đến nơi, cô vỗ tay cuồng nhiệt như một đứa trẻ được đi dự hội và chạy biến ra chỗ cửa tầng hầm để tra chiếc chìa khóa to tướng vào ổ khóa khổng lồ. Cô đặt những con lăn sắt xuống đất để đẩy đá vào nhà. Nhìn những tảng đá biến mất qua khung cửa, tôi lại liên tưởng đến một giáo dân đói khát đang ngửa tay ra nhận cứu trợ. Cô đứng lùi sang một bên, khẩn khoản nhắc mấy người vận chuyển nhẹ tay với những bạn nhỏ của mình. Họ nhướng mắt nhìn như thể cô là kẻ điên nhưng vẫn tiếp tục công việc. Ngay khi họ đi khỏi, cô nhanh chóng cởi quần áo rồi thắp nến. Sau khi bật một đĩa thánh ca do nhóm Gregorian trình bày, cô nằm dài ra trên một phiến đá mới và chìm vào giấc ngủ mê mệt đến tận sáng hôm sau.
Cô ào vào phòng tôi, miệng toe toét cười và tuyên bố đã nhận được những chỉ dẫn tuyệt vời, nhưng cô sẽ tắm cho tôi đã rồi mới bắt tay vào việc. Khi cô kỳ cọ cho tôi, tôi có thể cảm nhận cô chẳng có chút hứng thú nào – ngón tay cô muốn những phiến đá, chứ không phải da thịt – nhưng cô vẫn thấy cần phải làm vì đó là nhiệm vụ của mình. Vừa tắm cho tôi xong, cô liền chạy ngay xuống tầng hầm. Tôi ngồi trong phòng khách ở tầng giữa ngôi nhà, cố tập trung đọc sách, nhưng bị phân tán bởi tiếng đục đẽo của cô. Tôi chuyển lên tháp chuông để nghiền ngẫm những thứ khác – video, đọc sách, trêu con Bougatsa với cái khăn treo trên dây – nhưng chỉ được vài tiếng, nỗi tò mò của tôi đã trở nên quá lớn rồi. Tôi mở cửa dẫn xuống tầng hầm và nhón vài bước xuống cầu thang để rình Marianne Engel.
Tôi không cần lo lắng cô sẽ phát hiện sự xuất hiện tự tiện của tôi, vì cô chăm chú làm việc đến mức chẳng nhận ra tôi có mặt ở đó. Trước sự ngạc nhiên của tôi, cô ở trần mà tạc tượng; tôi cảm thấy hơi bối rối khi nhìn cô tạc tượng thoăn thoắt với những dụng cụ kim loại sắc nhọn. Đống dụng cụ giận dữ lướt qua lướt lại nhưng đôi tay cô vẫn trông thật chắc chắn, tôi cứ ngồi đó ngơ ngẩn trước vũ điệu của kim loại, của đá, và của da thịt.
Nói Marianne Engel “tạc” thôi vẫn chưa đủ: còn nhiều hơn thế nữa kia. Cô cứ vuốt ve tảng đá cho tới khi nó không thể chịu hơn được nữa và phải nhả con grotesque ở bên trong ra. Cô đã dụ dỗ những gargoyle ra khỏi hang đá của chúng. Cô yêu việc đưa chúng ra khỏi đá.
Khi đã hàng giờ trôi qua mà cô vẫn không hề để ý đến tôi, tôi càng lúc càng ngạc nhiên trước sự bền bỉ của cô. Cô vẫn tiếp tục làm việc cho tới tận lúc tôi đi ngủ, và còn làm xuyên đêm. Ngày tiếp theo cô cũng làm việc như vậy, cũng đẽo tạc thâu đêm. Tổng cộng, cô đã lao động hơn bảy mươi tiếng đồng hồ, uống hàng lít cà phê, hút hàng trăm điếu thuốc lá. Đây chính là phong cách làm việc mà cô từng nói – tạc không ngừng nghỉ suốt mấy ngày liền – nhưng tôi chưa bao giờ tin cô có thể làm được như thế. Tôi đã nghĩ đó chỉ là lời nói phóng đại về cách làm việc nghệ sĩ của cô mà thôi. Nhưng không phải thế. Kẻ đa nghi có thể nghĩ rằng cô chờ tôi đi ngủ rồi tự cho mình đánh một giấc, nhưng những tiếng búa đập liên hồi của cô đã làm tôi trằn trọc suốt đêm. Vào buổi sáng đầu tiên, cô cũng cố ép mình rời khỏi công việc một lúc để tắm rửa cho tôi, nhưng tôi có thể thấy – có thể cảm nhận cô chỉ miễn cưỡng làm việc đó. Mắt cô ánh lên nét lo lắng bồn chồn, gần như điên cuồng, khi cô chà miếng bọt biển lên người tôi.
Khi đã làm việc được khoảng sáu mươi tiếng, cô nhờ tôi đặt hai cái pizza chay cỡ lớn. Bình thường thì cô cũng chẳng phản đối việc ăn thịt, nhưng tôi nhanh chóng nhận ra khi đang đục đẽo, cô sẽ điên cuồng từ chối món thịt. “Không thịt! Không động vật!” Khi tôi mang mấy chiếc pizza xuống, cô lại đi về phía góc phòng để xin phép Ba Vị Chủ Nhân của mình – “Jube, Domine benedicere” – và không chịu ăn cho đến khi họ cho phép. Cô ngồi vắt vẻo giữa đống đá vụn và ngốn ngấu như một con quái thú, hầu như chẳng để ý gì đến sự có mặt của tôi. Một vệt pho mát chảy dài từ miệng cho tới ngực trái cô, và tôi thực sự muốn lướt tay như một lính đặc công pho mát để cào cấu bộ ngực đáng yêu của cô. Ánh nến nhảy nhót trên làn da trắng như trứng gà bóc, làm ánh lên những dòng mồ hôi chảy xuống những hạt bụi đá phủ đầy đôi cánh thiên thần trên lưng cô. Sự hòa quyện của những hình xăm và vẻ xuất thần của cô làm cô nửa giống nữ tu thông thái Hildergard von Bingen, nửa chẳng khác gì mafia Nhật.
Cái đài của cô hàng giờ qua chơi đủ mọi thể loại, từ những tác phẩm của Carl Orff; Symphonie Fantastique của Berlioz, tổ khúc giao hưởng thứ chín của Beethoven; Poe (ca sĩ Poe, chứ không phải nhà văn Allan Poe đâu nhé); album đầu tay của Milla Jovovich; toàn bộ album của The Doors; nhạc của Robert Johnson; Cheap Thrills của Big Brothers và ban Holding Company (chơi tới bốn lần một lúc); và tuyển tập ca khúc của Bessie Smith, Howlin” Wolf và Son House. Thời gian cứ thế trôi, nhạc cứ thế to lên và càng lúc cô càng lựa chọn những giọng ca trầm đục hơn. Dù tai tôi chẳng còn thính nhạy, cuối cùng tôi cũng phải thoái lui về cái tháp chuông nhà thờ với đôi bông bịt tai.
Khi xong việc, cô hầu như không đứng nổi. Con quái vật vừa được hoàn thiện là một cái đầu người có sừng, đặt trên thân một con rồng đang quỳ, thế rồi cô hôn đôi môi lạnh lẽo của nó trước khi bò lên cầu thang rồi đổ ập xuống giường, người vẫn đầy bụi và mồ hôi.
“Ồ, rõ ràng khủng hoảng tinh thần là bệnh thường gặp của các nghệ sĩ,” Gregor vừa nói qua bàn vừa rót một ly bourbon ông ta mới mua cho chúng tôi. Mặt trời đang lặn dần và chúng tôi ngồi trên hiên sau; Marianne Engel vẫn đang ngủ cho lại sức. Sau khi đã nhắc đi nhắc lại rằng ông ta không thể tiết lộ bất kỳ điều gì cụ thể về việc điều trị trước đây của cô, ông ta cũng nói mình rất vui nếu được trả lời những câu hỏi chung chung.
“Sau khi đọc hết chỗ sách ấy,” tôi nói, “tôi đã rút ra một kết luận rằng những triệu chứng của cô ấy có vẻ giống của người bị bệnh tâm thần phân liệt hơn là của người bị khủng hoảng tinh thần.”
“Ừm. Có lẽ. Có thể cả hai ấy.” Gregor trả lời, “hoặc không cái nào cả. Tôi chẳng biết được. Có lẽ đó là hội chứng rối loạn thần kinh chức năng. Cô ấy có bao giờ nói vì sao mình phải làm liên tục đến mức thế chưa?”
“Cô ấy nghĩ mình đang làm theo những chỉ dẫn của Chúa. Cô ấy nghĩ cô ấy đang trao những trái tim còn thừa trong ngực mình cho chúng.”
“Ồ, thật là kỳ lạ.” Gregor nhấp môi. “Ê, cái này hay đấy. Nó cho tôi hiểu thêm về tình trạng của Marianne.”
“Không phải việc của ông là biết những thứ này sao?”
Gregor nhún vai. “Những điều tôi không biết có thể chất đầy cả một cái nhà kho to đùng. Cô ấy có uống thuốc không?”
“Không. Cô ấy ghét thuốc còn hơn ghét bác sĩ ấy. Không có ý gì đâu nhé.”