Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Cô Gái Mang Trái Tim Đá

Chương 63

Tác giả: Andrew Davidson

“Chúng ta đang đi đâu vậy?” tôi hỏi.

“Tôi không biết.”

“Khi nào chúng ta sẽ đến đó?”

“Tôi không biết,” anh ta liếc mắt nhìn về phía đường chân trời. “Tôi đã đi được khá lâu, tôi nghĩ chắc cũng gần tới rồi.”

Sigurðr đeo một cái vỏ kiếm ở thắt lưng, thứ đã lắc qua lắc lại trên hông Sei khi họ khiêu vũ. Anh ta rút thanh Sigurðrsnautr chuôi chạm hình mãng xà ra, rồi đưa thắt lưng và bao kiếm cho tôi. “Đeo cái này vào, anh sẽ cần đến nó đấy.”

Tôi hỏi tại sao. Anh ta trả lời là mình cũng không biết.

Tôi ném áo nhà sư của Sei đi, nghĩ nó đã vô dụng khi giờ đây tôi đã có bộ quần áo bằng da. Sigurðr nhặt nó lên và đưa lại cho tôi. “Dưới Địa ngục, anh sẽ phải dùng đến tất cả mọi thứ mình có.”

Tôi buộc chiếc áo lại quanh eo, làm thành chiếc thắt lưng thứ hai cùng với chiếc mà Sigurðr vừa mới tặng cho tôi. Tôi hỏi anh ta tại sao lại biết chúng tôi phải đi theo hướng nào.

“Tôi không biết,” anh ta trả lời. Sigurðr là người khá kiệm lời. Anh ta dùng thanh kiếm của mình làm gậy đi đường, mặt băng bị cắt ra dưới mỗi nhát kiếm. Đối với một người không biết mình đang đi về đâu, những bước chân của anh ta thật quyết đoán làm sao.

“Đây có phải chỉ là ảo giác không?” Tôi cảm thấy mình cực kỳ ngớ ngẩn khi đang ở trong một ảo giác mà hỏi xem liệu đó có phải là ảo giác không bằng một ngôn ngữ tôi không hề biết. (Trên thực tế, có bao nhiêu người trên cả thế giới này biết từ “ảo giác” trong tiếng Iceland là ofskynjun?) Sigurðr trả lời rằng anh ta không nghĩ đây lại là một ofskynjun, nhưng cũng không chắc lắm.

Chúng tôi cứ đi. Đi mãi. Hằng ngày trời, nhưng mặt trời không bao giờ lặn. Có lẽ bạn nghĩ đây là một kiểu nói quá, rằng tôi thực sự chỉ muốn nói là hàng giờ, và thời gian ấy dài lê thê như thể bao ngày đã trôi qua mà thôi. Nhưng không, tôi muốn nói là hằng ngày trời. Chúng tôi cứ đi trong trạng thái cực kỳ mệt mỏi nhưng chúng tôi lại không bao giờ cảm thấy cần ngủ, và dù đầu gối tôi chẳng tử tế gì, tôi vẫn cảm thấy mình có thể đi mãi không thôi. Tôi nghĩ về những nơi ở vùng cực Bắc của thế giới, nơi mặt trời mọc liên tục trong suốt sáu tháng liền. Liệu chúng tôi có phải đi xa đến thế không?

Sigurðr vẫn tiếp tục đóng vai người nói ít, và nói tối nghĩa; hầu như trong suốt cuộc hành trình, âm thanh duy nhất phát ra từ người anh ta là tiếng nhạc nhẹ nhàng từ dưới chiếc áo da, quanh vùng cổ. Được một lúc thì tôi dừng nói chuyện với anh ta, trừ việc cố làm anh ta cười. Tôi chưa bao giờ thành công cả. Thỉnh thoảng tôi không đi tiếp chỉ để phá vỡ sự đơn điệu. Tôi nài nỉ Sigurðr chờ chỉ một phút thôi nhưng anh ta luôn nói rằng chẳng có thời gian nghỉ ngơi đâu. Khi tôi hỏi tại sao, anh ta trả lời, “Vì chúng ta cần phải đến đó.”

Khi tôi hỏi Sigurðr “đó” là ở đâu, anh ta không biết. Vì thế tôi nói với anh ta rằng, khi anh ta không biết nơi đó là ở đâu, tôi chẳng thấy có lý do gì phải tiếp tục đi theo anh ta cả. Anh ta khịt mũi, nói tôi được phép chọn làm cái việc ngu ngốc ấy, và cứ tiếp tục đi mà không cần có tôi. Ngay trước khi anh ta khuất khỏi tầm nhìn, tôi lại hộc tốc chạy đuổi theo. Vì dĩ nhiên là tôi cần anh ta – một mình tôi thì làm được gì ở cái chỗ này chứ? Và thế là chúng tôi lại nặng nhọc tiến về phía trước, tiến về cái nơi anh ta không thể định nghĩa được còn tôi thì không thể tưởng tượng nổi.

Ảo giác lẽ ra phải đẹp hơn thế này, tôi nghĩ vậy. Đi dọc bình nguyên băng giá trong hằng ngày trời thật là một việc buồn tẻ và tôi phải ngạc nhiên khi thấy mình có thể tưởng tượng ra một thứ vớ vẩn như thế, trong thời gian lâu đến thế. Lạnh cắt da cắt thịt; tuyết cuộn xoáy bay tứ tung; và sự mệt mỏi làm tôi đau đớn đến nỗi nghĩ rằng đây chẳng phải tưởng tượng. Điều duy nhất có vẻ thiếu thực tế ở đây là khả năng đi liên tục mà không cần nghỉ ngơi hay ăn uống gì của tôi.

Dĩ nhiên đây chỉ là ảo giác. Một ảo giác quá thật, quá lạnh lẽo, quá dai dẳng. Việc ngừng dùng thuốc kích thích lẽ ra không gây ra hậu quả thế này. Trừ phi…

“Sigurðr, tôi đã chết chưa?”

Anh ta cuối cùng cũng cười, “Anh chỉ là khách ở đây thôi.”

Nếu nơi đây thuộc về Sigurðr, cũng như cỗ quan tài là của Sei, tôi muốn biết nhiều hơn về nó. Về tất cả mọi thứ. Tôi quyết định loại hết tế nhị qua một bên. “Âm thanh phát ra từ cổ anh – có phải là của chiếc vòng cổ đính đá quý từng thuộc về Svanhildr không?”

Anh ta ngừng bước, có lẽ đang quyết định có nên xác nhận hay không. Anh ta chọn có. “Ừ.”

“Anh cũng có cả sợi dây gắn đầu mũi tên chứ?”

“Cái đó đã được trao cho Friðleifr rồi.”

“Tên cậu ấy đã được đổi thành Sigurðr, anh biết mà.”

Anh ta không nói gì một lúc lâu, cho tới khi trả lời với giọng nhẹ nhàng nhất tôi từng được nghe từ miệng anh. “Ừ, tôi biết. Đó là một niềm vinh hạnh lớn.”

“Anh có thể kể cho tôi nghe về Einarr chứ?”

Câu hỏi làm anh ta bước tiếp. “Câu chuyện đó không dành cho anh.”

“Tôi đã được nghe kể về nó rồi.”

Sigurðr quay lại nhìn thẳng vào mắt tôi. “Không. Anh chỉ được nghe phiên bản của Marianne Engel về câu chuyện của tôi thôi. Làm sao anh lại dám nghĩ mình hiểu được trái tim tôi, trong khi anh thậm chí còn không hiểu được trái tim của chính bản thân mình?”

Hãy để một người Viking dạy bạn nghệ thuật nói năng khi bạn ít ngờ đến nhất. Tôi ngậm miệng lại và đi tiếp.

Tôi cứ nghĩ có gì đó ở ngay phía trước, nhưng mãi vẫn chẳng thấy gì, tôi cứ nghĩ là chúng tôi sẽ đi đến một ngọn đồi nhìn xuống một thung lũng, hoặc một thảm rêu mọc trên những mỏm đá granite, nhưng mỗi “đỉnh đồi” chúng tôi gặp đều chỉ là đường chân trời hiện tại được thay thế bằng một đường chân trời mới. Tôi cầu mong sự đơn điệu này được phá vỡ, bởi cái gì cũng được. Một hòn đá tảng. Một vết móng guốc nai sừng tấm Bắc Mỹ. Một con chó kéo xe bị đông cứng. Tên một người được khắc vào băng tuyết với những chữ cái vàng rực trong nắng. Nhưng chúng tôi chỉ gặp thêm nhiều băng, nhiều tuyết. Vào ngày thứ tư (tôi nghĩ đó là ngày thứ tư), tôi dừng lại. Bỏ cuộc.

“Chẳng có gì ở đây cả. Bất cứ cái gì anh nghĩ mình có thể tìm thấy…” Giọng tôi lạc đi. “Sigurðr, anh đã đến “nơi đó” hơn một nghìn năm rồi, vậy mà anh thậm chí còn chẳng biết đó là nơi nào.”

“Anh đi cho tới khi nào đến nơi thì thôi,” anh ta nói, “và giờ anh đi được đủ xa rồi.”

Nơi này chẳng khác bất cứ chỗ nào trên cái bình nguyên này cả. Tôi xoay đủ mọi hướng, vung hai cánh tay lên để nhấn mạnh điểm này. “Anh nói về cái gì vậy?”

“Nhìn lên trời đi.”

Tôi ngước mắt lên. Dù sự thật là chẳng có ai trong hàng dặm xung quanh, vẫn có một mũi tên từ đâu phóng thẳng về phía tôi.

Tôi muốn di chuyển nhưng người cứ đông cứng lại, phản ứng duy nhất của tôi là lấy hai tay che đầu. (Mặc dù, sau khi nghe tất cả những câu chuyện của Marianne Engel, quyết định có vẻ logic hơn phải là lấy tay che ngực mới phải.) Mũi tên hụt khỏi tôi độ vài phân, cắm thẳng xuống đất, và mặt đất nứt toác ra như một con quái vật bạch tạng bị gãy móng vuốt. Hàng tảng băng khổng lồ văng lên rồi nứt vỡ, điên cuồng lao vào chúng tôi. Một tảng lớn đập trúng vào vai phải của tôi, hất tôi vào một tảng xù xì khác. Trong giây phút tôi ngộ ra, chuyện này giống y như lúc tôi lái xe lao xuống vực, tất cả mọi thứ chuyển động chậm lại khi tôi nhìn sự cố xảy ra. Nước chậm chạp phun ra từ một vết nứt trên mặt đất, và cuối cùng tôi đã hiểu được tại sao chẳng có điểm gì nổi bật để chúng tôi có thể phân biệt cảnh này với cảnh kia trong suốt quãng đường chúng tôi đi. Chúng tôi có ở trên mặt đất đâu, chúng tôi đang ở trên một khối băng khổng lồ. Những tảng băng nhọn hoắt xoay tròn xung quanh tôi và chẳng mấy chốc tôi đã thấy mình bị trọng lực kéo sụp xuống lòng biển mới vừa được phát hiện.

Tôi cảm thấy lạnh thấu xương. Lớp áo da của tôi đã trở nên vô dụng; vô dụng không để đâu cho hết, thực sự là thế, vì chúng ngấm nước và làm tôi chìm xuống sâu hơn. Lúc đầu tôi còn cố quờ quạng bám vào những tảng băng trôi phía trên, bấu tay vào bất cứ chỗ nào tôi có thể bám được. Tôi cảm thấy hơi ấm nơi bụng mình, nhưng rồi nó cũng nhanh chóng tan đi. Tôi thấy những cử động của mình chậm dần, và tiếng răng tôi va lập cập vào nhau mạnh đến nỗi át cả tiếng băng nứt xung quanh; tôi băn khoăn liệu những cái sẹo lồi trên người tôi có tím tái không.

Chẳng thấy Sigurðr đâu cả. Anh ta hẳn đã bị nuốt chửng giữa những tảng băng nhấp nhô rồi. Một tảng băng quét qua sườn trái tôi và một tảng khác đập bốp vào lưng tôi. Chúng lượn lờ xung quanh tôi, khép chặt vòng vây lại và dìm tôi xuống. Bất cứ nhà khoa học nào cũng sẽ giải thích các tảng băng vỡ sẽ tụ lại trên mặt nước, và đây chính là cách chúng đang làm để lấp lại cái hố mà mũi tên gây ra. Thế là thậm chí cả trong một đại dương ảo giác thì dường như các định luật vật lý cơ bản cũng vẫn được áp dụng; điều này, không nghi ngờ gì nữa, sẽ làm Galileo nở nụ cười hạnh phúc.

Tôi không thể ngẩng mặt lên khỏi mặt nước được nữa, băng đập vào hai cái tai như hai bông súp lơ của tôi, và tôi nhắm mắt lại vì đây là điều mà một người sắp chết chìm phải làm. Tôi cảm thấy thân thể mình đã ngưng hoạt động. Vậy đây là cách mọi thứ kết thúc. Trong nước.Tôi trượt xuống dưới, và thực sự cảm thấy có chút thanh thản. Cách này có vẻ dễ chịu hơn.

Tôi không gặp vấn đề gì với việc nín thở trong hàng chục phút, suốt thời gian đó tôi lịm đi, cho tới khi tôi phát chán với việc chờ phổi mình hết hơi. Tôi mở mắt ra, nghĩ rằng mình sẽ không thể bơi xa được vài phân. Trên mặt băng đã khó xác định khoảng cách rồi, dưới cũng vậy: lại một lần nữa không có gì có thể dùng làm hệ quy chiếu. Không cá, không sinh vật nào khác, không tảo biển, chỉ có làn nước trong veo. Bong bóng nổi lên từ những nếp gấp trên quần áo của tôi và cuộn dọc theo người tôi cho tới khi chúng tụ lại ở góc mí mắt. Thật buồn cười. Trong thế giới thực, tôi không thể tiết ra nước mắt, nhưng trong một thế giới dưới nước thì tôi lại tạo ra nước mắt nhờ không khí.

Một quầng sáng hiện lên, xa xa phía trên đầu tôi. Nó phản chiếu vào trong những giọt nước mắt bong bóng của tôi và khiến tôi băn khoăn, Đây có phải là hành lang ánh sáng dẫn người chết lên Thiên đường không? Chẳng giống chút nào. Cách mọi việc diễn ra giống như một con cá răng nhọn khoe những nếp da phủ lân tinh, dụ con mồi lại để ăn thịt. Tuy nhiên, hóa ra quầng sáng đó chẳng phải con đường dẫn lên Thiên đường mà cũng chẳng phải một con cá ăn thịt. Đó là ánh sáng phát ra từ mũi tên lửa đã đâm vào băng, giờ đang nằm trong bàn tay nắm chặt của Sigurðr khi anh ta trồi lên từ dưới biển và bơi thẳng về phía tôi.

Luồng sáng (lửa không bị tắt trong nước: các định luật vật lý tự nhiên không còn chính xác trong một nơi siêu nhiên như thế này nữa) xuyên qua bộ râu của Sigurðr và hất lên những nếp nhăn quanh mắt anh ta. Mái tóc dài màu đỏ xõa trên đầu anh ta như một vầng hào quang làm từ tảo bẹ, và anh ta đang mỉm cười thanh thản, như thể đã có một chuyện gì đó rất tuyệt vời xảy ra vậy. Anh ta giơ mũi tên ra như một vận động viên Olympic truyền đuốc và, cùng lúc, chúng tôi tiếp tục chìm dần xuống nước. Ngón tay tôi nắm chặt lấy mũi tên, tôi cảm thấy cảm giác ấm áp đầy vinh quang đang truyền khắp người mình, và Sigurðr mỉm cười như một người đàn ông đã hoàn thành nhiệm vụ. Như một người đàn ông sẽ còn được nhớ đến trong ký ức mọi người. Anh ta gật đầu đồng thuận và lặn xuống sâu hơn, để tôi tiếp tục chìm một mình.

Tôi chìm xuyên qua đáy đại dương.

Chỉ còn cách mặt đất vài phân thì tôi rơi xuống. Khi tôi nhìn lên, đáy đại dương – dòng nước lẽ ra là cái trần nhà trên đầu tôi – đã biến mất. Chân tôi đang đặt trên nền đất cứng và ánh sáng đã đổi từ màu xanh ngọc của đại dương sang màu xám xịt chết chóc.

Giờ tôi đang ở giữa một cánh rừng tối tăm đầy những thân cây dị dạng xấu xí.

Tôi nghe thấy tiếng chân chạy vội qua thảm rừng, tới từ ít nhất ba hướng. Tiếng cành cây gãy, tiếng bụi rậm sột soạt. Tôi giơ mũi tên lên làm đuốc. Bóng một động vật bốn chân phóng qua giữa những thân cây, rồi một sinh vật khác thoáng lướt qua. Có bao nhiêu chứ? Hai – không, lại thêm một sinh vật nữa! Ba, ít nhất là thế! Chúng là những thứ gì? Đầu tôi loạn lên với những hình ảnh dã thú: một con sư tử, một con báo, có lẽ một con sói. Nếu chúng tấn công tôi, tôi sẽ tự bảo vệ mình bằng cái gì? Tôi có bao đoản kiếm, nhưng không có thanh kiếm; tôi có chiếc áo nhà sư, nhưng tôi không có đức tin.

Ngay trước mặt là một con đường đi xuyên qua rừng, qua một ngọn đồi nhỏ, và tôi nghe thấy tiếng một con vật nữa, bạo dạn hơn. Kia, hình ảnh nó thoáng hiện giữa những thân cây. Hình như nó đi bằng hai chân, vì thế có lẽ là một loài vượn người thần thoại nào đấy sống trong rừng chăng? Rõ ràng là không. Khi cái bóng đi ra khỏi góc khuất, tôi có thể thấy đó là một người đàn ông ăn vận giản dị, với một cái bụng bự và hàm râu lởm chởm. Khi nhìn thấy tôi, anh ta cười ngoác miệng và dang rộng hai tay như chuẩn bị ôm chầm một người bạn cũ sau bao năm xa cách. “Ciao!”

“Tu devi essere Francesco.” Anh hẳn phải là Francesco. Với Sigurðr, tôi biết tiếng Iceland, với người này, tôi hiểu tiếng Ý.

“Sì,” anh ta xác nhận, nắm lấy tay tôi. “Il piacere è mio.”

“Không, vinh hạnh ấy là của tôi mới phải. Một người bạn chung của chúng ta đã cho tôi xem vài tác phẩm của anh. Chúng thật tuyệt.”

“A, Marianna!” Mắt Francesco sáng bừng lên. “Nhưng tôi chỉ là một người thợ thủ công bình thường. Tôi thấy anh có mang theo mũi tên. Tốt. Anh có thể phải cần đến nó.”

“Chúng ta làm gì bây giờ? Xin đừng nói với tôi rằng anh không biết nhé.”

Francesco cười cho tới khi cái bụng bự rung lên bần bật. “Sigurðr lúc nào cũng hơi bối rối, nhưng tôi biết chắc là chúng ta đang đi đâu.” Anh ta dừng lại một chút để gây hồi hộp. “Thẳng xuống Địa ngục.”

Bạn phải cảm phục một người đàn ông có thể nói một điều như thế với khuôn mặt nghiêm nghị đến thế, và tôi không thể nhịn được cười. “Vâng, dù sao tôi cũng nghĩ mình đang quen dần với ý tưởng đó rồi.”

“Địa ngục này hơi phức tạp hơn một chút, vì thế tốt hơn là anh không nên cười nhiều đến thế.” Nhưng, để trấn an tôi sau khi đã cảnh báo, anh ta nói thêm, “Tôi đã được cử đến đây để dẫn đường cho anh, Marianne đã nhờ. Cô ấy luôn cầu nguyện cho anh.”

Bình luận