Anh ấy xì xụp húp xúp và giải thích rằng mình đã đi suốt tám ngày, đi ngược lại rồi đi vòng, tránh các thành phố lớn. Thay vì mua thức ăn, anh ấy giết các động vật nhỏ để không một thương gia nào có thể nhận ra. Anh ấy chắc chắn mình vẫn chưa bị bám theo. Tuy nhiên, tôi và anh ấy không nhắn tin đến chỗ làm cho anh mà đợi anh về nhà như thường lệ. Phải để mọi thứ diễn ra càng bình thường càng tốt.
Những ngày đầu tiên sẽ là lúc nguy hiểm nhất. Kuonrat sẽ có thể phái nhóm truy kích giỏi nhất của hắn ngay khi chúng phát hiện ra Brandeis đã biến mất. Hai người các anh luôn cảnh giác canh chừng cửa sổ, cây cung không lúc nào rời khỏi tầm tay. Brandeis đã mang hai cây cung theo mình, một là của anh ấy và một anh ấy trộm cho anh.
Các anh thay nhau thức canh, và Brandeis thậm chí còn không dám dỡ hành lý ra. Tất cả những chuyện này đều quá đáng sợ, hơn cả những gì tôi có thể tưởng tượng. Nếu xảy ra chuyện gì xấu – dù tôi vẫn luôn mong là không, dĩ nhiên – tôi sẽ phải chịu trách nhiệm không chỉ với bản thân mình mà còn cả đứa con trong bụng nữa. Tôi nói rằng tôi không hiểu vì sao Brandeis lại có thể bị lần ra trong một đất nước rộng lớn như thế. Khi tôi nêu ý kiến này lên, hai người các anh nhìn nhau không nói câu gì. Ánh mắt đã nói lên tất cả.
Nhưng chẳng có gì xảy ra cả. Hàng tuần đã trôi qua mà chẳng có kẻ nào đến lùng sục. Các anh bắt đầu ngủ trong đêm, dĩ nhiên là sau khi đã mắc chuông vào góc cửa ra vào. Cuối cùng anh cũng quyết định là đã đến lúc để Brandeis mạo hiểm đi ra khỏi nhà. Dĩ nhiên là vẫn phải kéo mũ trùm đầu lên.
Không một bóng dáng khả nghi nào ẩn hiện trong bóng tối, vì thế một tuần sau Brandeis đã bắt đầu theo anh đến các công trình xây dựng. Sự giới thiệu của anh đủ để kiếm cho anh ấy việc lao động chân tay. Anh ấy làm việc chăm chỉ và ăn trưa cùng anh nhưng luôn tránh xa những người khác. Không ai hỏi nhiều; với những đồng nghiệp của anh thì anh ấy cũng chỉ là một người thợ không lành nghề khác mà thôi. Chẳng bao lâu sau, chúng ta đã quyết định sẽ tìm cho anh ấy một căn nhà riêng vì tôi bắt đầu giật mình thức dậy trong đêm với những cơn co thắt. Một chút riêng tư sẽ tốt cho tất cả mọi người.
Chúng ta có rất nhiều bạn nên việc tìm nhà chỉ là vấn đề cỏn con, ngôi nhà nằm cách vài con phố bên ngoài khu Do Thái. Tôi cương quyết đòi trả tiền đặt cọc bằng tiền kiếm được từ việc kinh doanh của tôi, và khi tất cả mọi việc đã xong xuôi, chúng ta đã quyết định tự cho phép mình tổ chức một buổi ăn mừng đúng nghĩa. Không phải vì hai người các anh hoàn toàn tin đây là một cuộc đào thoát thành công, mà vì các anh rất mong muốn được coi đây có vẻ như một cuộc đào thoát thành công. Đó là một bữa tiệc hoành tráng, và anh đã rất hạnh phúc vì cuối cùng cũng có thể nghĩ rằng mình đã trả nợ được cho anh ấy.
Sức khỏe của tôi khá tốt và quần áo tôi bắt đầu chật hết cả, việc thai nghén có vẻ diễn ra rất thuận lợi. Có một lần đứa bé đạp bụng tôi trong bữa ăn và anh đã bắt Brandeis phải đặt tay anh ấy lên bụng tôi. Anh ấy hơi do dự nhưng khi tôi trấn an rằng tôi sẽ rất vui nếu anh ấy làm thế, anh ấy đã dè dặt đặt bàn tay lên đó. Khi anh ấy nhận thấy sự chuyển động bên dưới, anh ấy giật ngay tay lại và trợn tròn mắt nhìn tôi đầy ngạc nhiên.
“Tất cả những điều này là nhờ anh,” anh nói với Brandeis. “Sinh mạng này có được là vì anh đã cứu tôi.”
Nói xong, tất cả chúng ta cùng nâng cốc chúc mừng việc mọi người đều đã thoát khỏi cuộc sống cũ để bước vào một cuộc đời mới tốt đẹp hơn.
Nhưng người ta không bao giờ được phép đếm cua trong lỗ. Ngay ngày hôm sau, trong khi Brandeis đang thu dọn nốt đồ đạc còn lại ở chỗ chúng ta, một người Beguine đã hộc tốc chạy đến. Tôi hiểu đây không phải dấu hiệu tốt lành gì, vì trước đó tôi chưa bao giờ thấy ai trong số họ chạy hết. Cô ấy đặt tay lên đầu gối và thở hổn hển một lúc trước khi đủ sức thốt ra rằng có một toán người – “bọn mọi rợ, nhìn đã biết” – đang tra hỏi quanh chợ để tìm một người đàn ông có nhân dạng giống Brandeis.
Rõ ràng Mainz không rộng lớn như tôi tưởng. Dù chúng ta đã hết sức cẩn thận để giấu tung tích vị khách, ngay cả những người Beguine cũng biết rằng anh ấy đang ở cùng chúng ta. Họ cũng đủ hiểu rằng đưa thông tin này cho những kẻ lạ mặt không phải một việc khôn ngoan gì, nhưng chẳng chóng thì chày ai đó sẽ nói mà không nghĩ đến hậu quả cho coi. Brandeis hỏi vài câu về “bọn mọi rợ”, và những câu trả lời của người Beguine đã khẳng định mọi nghi ngờ. Những gã này rõ ràng là toán truy kích được đội quân condotta phái đến. Cho tới tận hôm nay, tôi vẫn không thể biết tại sao bọn chúng có thể tìm được anh ấy, nhưng bằng cách nào cũng chẳng quan trọng. Điều quan trọng duy nhất là Mainz giờ không còn là nơi an toàn nữa rồi.
Brandeis đề nghị sẽ trốn chạy một mình, để lại dấu vết đủ rõ để bọn truy kích bỏ qua chúng tôi. “Chúng chỉ đi tìm tôi thôi. Anh có một cuộc sống tốt đẹp ở đây, vì thế đừng…”
Anh đã không để anh ấy nói hết câu. Danh dự của anh không cho phép việc đó. Anh nói rằng bọn truy kích kiểu gì cũng tìm được chỗ chúng ta dù chúng ta có làm gì đi nữa, và khi – khi chứ không phải nếu nữa, khi – chúng tìm ra, rất có khả năng một trong số chúng sẽ nhận ra anh. Chúng sẽ sung sướng đến phát điên, nếu cử một đội truy lùng đi tìm một kẻ đào tẩu để rồi cuối cùng bắt về được hai. Điều đó sẽ làm Kuonrat cực kỳ thỏa mãn, và thông điệp sẽ trở nên thật rõ ràng: dù một người lính đã thành công trong việc đào tẩu hàng bao năm và đã bị coi là chết rồi đi nữa thì cuối cùng cũng vẫn sẽ bị lần ra.
Cả anh lẫn Brandeis đều cương quyết không cho tôi theo – vì tôi đã có mang gần đến tháng cuối rồi, vì tôi sẽ cản trở các anh, vì đi lại sẽ làm ảnh hưởng đến đứa trẻ. Tôi bác lại rằng ở lại Mainz còn nguy hiểm hơn, nơi bọn truy đuổi sẽ lùng ra tôi và làm mọi cách để moi cho được thông tin. Tóm lại, tôi nói, tranh luận thế nào đi nữa cũng không quan trọng. Tôi sẽ không ở lại đâu, và nếu các anh không chịu cho tôi đi cùng, tôi cũng vẫn sẽ đi theo thôi. Phải, tôi đang có mang, nhưng tôi vẫn có thể tự đi được và tôi cũng nợ Brandeis nhiều như anh nợ anh ấy thôi. Kết luận, nếu tôi và anh lạc nhau lúc này, chúng ta có thể gặp lại nhau ở đâu được chứ? Việc chúng ta sống ở Mainz đã bị bại lộ và chúng ta không thể trở lại sống như cũ được nữa. Tôi nói rằng chính vì tôi đang mang thai nên tôi càng phải ở với anh, còn hơn là chịu cảnh ly biệt mãi mãi.
Tôi bác tất cả ý kiến của các anh đi và thắng thế vì chẳng còn thời gian đâu mà tranh luận. Vì thế chúng ta nhanh chóng sắp dọn đồ đạc, chỉ những thứ đáng giá nhất, và chuẩn bị rời đi càng sớm càng tốt.
Tôi gói cuốn Địa ngục cùng cuốn kinh cầu nguyện của Paolo, và khi anh không chú ý tôi đã luồn vội bức tượng Morgengabe vào túi của tôi. Anh chắc chắn sẽ không cho phép mang một vật nặng như thế, nhưng tôi quá trân trọng nó đến nỗi không nỡ bỏ nó lại. Tôi cũng xếp cả bộ quần áo nữ tu của mình vào nữa, vì tôi đã nhận ra rằng nó có thể dùng làm đồ cải trang rất tốt. Chúng ta cầm theo tất cả số tiền dành dụm cho một ngôi nhà chúng ta đã không bao giờ mua, và anh cùng Brandeis đi mua ba con ngựa tốt. Tôi bán tất cả chỗ gia vị và sách cho bất cứ ai muốn mua, dù do quá gấp gáp nên tôi gần như không thu được gì. Chỉ vài giờ sau khi người Beguine tới nhà, chúng ta đã lên đường rời khỏi Mainz. Tôi đeo cái túi, trong khi hai người các anh chỉ mang theo cung tên và quần áo. Cuộc sống chúng ta bỏ hàng bao năm gây dựng đã kết thúc, chỉ đơn giản như thế.
Ngay cả khi khỏe mạnh tôi cũng không phải người cưỡi ngựa giỏi và việc thai nghén làm tôi càng khó xoay xở. Cả khi chúng ta đã ra khỏi thành phố, anh vẫn không ngừng khuyên tôi nên đi theo lối khác. Ba dấu chân ngựa đi theo cùng một hướng sẽ dễ bị phát hiện hơn những dấu chân đi theo hướng ngược nhau, anh lý luận thế. Tôi chẳng chịu nghe và vặc lại rằng điều tốt nhất chúng ta có thể làm bây giờ là chạy càng xa càng tốt.
Chúng ta đã chạy liên tục cho tới khi những con ngựa kiệt sức không thể đi tiếp được nữa. Lưng tôi đau nhói, những cơn đau chạy dọc suốt sống lưng tôi theo mỗi tiếng vó ngựa, rồi lan khắp bụng dưới. Nhưng tôi kiên quyết không phàn nàn, vì tôi được ở bên anh.
Chúng ta tìm được một nhà trọ nhỏ và tôi được cử đi thương thuyết với người chủ trọ, vì các anh càng ít bị nhìn thấy bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Trước khi chúng ta đi ngủ trong cái đêm trốn chạy đầu tiên ấy, tôi có hỏi rằng chúng ta sẽ đi về đâu. Brandeis trả lời, “Không có đích đến thì tốt hơn. Nếu chúng ta biết mình định đi về đâu, những kẻ truy kích cũng sẽ biết.” Tôi không hiểu tại sao chuyện đó có thể là thật được, nhưng tôi đã quá mệt mỏi để tiếp tục tranh luận rồi.
Trong những ngày tiếp theo chúng ta sẽ cưỡi ngựa đi càng xa càng tốt miễn là tôi vẫn chịu được và rồi sẽ kiếm một phòng trọ, không ai trong số chúng ta dám mạo hiểm ra ngoài trừ lúc tôi đi tìm thức ăn. Chẳng mấy chốc chuyến đi đã khiến tôi kiệt quệ. Ngực tôi đau nhói và chứng chuột rút ở chân ngày càng nặng thêm, cơ nơi lồng ngực của tôi căng ra làm tôi đau như xé. Tôi biết tôi đang làm chúng ta chậm lại, tất cả chúng ta đều thấy vậy, và chuyện này càng đổ thêm dầu vào những cuộc tranh luận càng lúc càng thường xuyên hơn giữa chúng ta. Anh chỉ ra rằng việc tôi cứ chốc chốc lại đi vệ sinh không những làm chúng ta chậm lại, mà còn giúp bọn chúng dễ lần theo. Anh thậm chí còn dọa sẽ bỏ tôi lại nhưng, dĩ nhiên, anh nào dám làm thế.
Chúng ta đi tắt qua những thung lũng sau lưng các thành phố và trong cơn bấn loạn chúng ta bắt ngựa chạy băng qua những dòng suối băng giá và những vùng đất đá lởm chởm lồi lõm. Những con ngựa cuối cùng đã không thể tiếp tục giữ tốc độ chúng tôi cần, chúng đã hoạt động quá sức mà không được nghỉ ngơi đầy đủ. Khi chúng kiệt sức, chúng ta bán chúng lấy những con ngựa mới. Những kẻ truy kích cũng sẽ buộc phải làm như thế hoặc bị bỏ lại đằng sau thôi.
Dù luôn ngoái lại đằng sau, tôi không bao giờ thấy bọn truy kích. Tôi muốn tin rằng chúng ta đã bỏ xa bọn chúng. Nói thật, tôi nghĩ bọn chúng chẳng thể tiếp tục lần theo dấu của chúng ta, với tất cả những mánh lới chúng ta đã sử dụng trên đường. Nhưng nghĩ lại, chúng đã tìm ra Brandeis ở Mainz. Tôi thực sự không hiểu được khả năng của chúng nhưng hai người các anh đã từng sống với loại người này, vì thế tôi buộc phải tin nỗi sợ của các anh là thật. Các anh cứ không ngừng thúc bản thân và tôi tiến về phía trước với một tốc độ khủng khiếp.
Mỗi ngày trôi qua lại làm tăng thêm nỗi sợ của tôi rằng chuyến đi sẽ ảnh hưởng xấu đến con chúng ta – liệu nó có làm em bé ra đời sớm quá không? Tôi luôn phải tự thuyết phục bản thân, hết giờ này đến giờ khác, rằng việc thoát khỏi bọn truy lùng xứng đáng với bất cứ sự mạo hiểm nào. Trong những giây phút hiếm hoi tôi không lo lắng quá về đứa trẻ, tôi củng cố niềm tin của mình bằng việc nhớ lại cách anh mua cho chúng ta một chỗ ngồi trên chiếc xe chở lợn khi chúng ta mới vừa rời khỏi Engelthal. Tôi cố gắng thuyết phục bản thân rằng tình trạng hiện tại của chúng ta chỉ là một thử thách nữa chúng ta phải vượt qua để được sống một cách trọn vẹn, và ít ra thì cũng không có mùi hôi của lợn.