Cho tới tận giây phút đó, chúng ta thậm chí còn không chắc anh ấy vẫn còn sống. Anh nói tên anh ấy như thể đang cố tự thuyết phục bản thân rằng anh đang thực sự nhìn thấy anh ấy, sau ngần ấy năm.
“Brandeis.”
Anh ấy có vài vết sẹo mới và mái tóc đã điểm nhiều sợi bạc, và anh ấy vẫn ưa dùng cái chân đã từng không cứng đến thế khi tôi gặp anh ấy lần đầu tại Engelthal. Nhưng nhìn chung anh ấy trông rất mệt mỏi. Những tên lính đánh thuê trẻ vẫn tiếp tục nhục mạ người bán hàng và khuôn mặt của Brandeis để lộ ra một ánh nhìn khinh bỉ xen lẫn chẳng chút ngạc nhiên trước cái cảnh ấy.
Anh kéo tôi vào góc khuất sau một quầy hàng. Hầu hết những tên này đều là lính mới và không thể biết mặt anh, nhưng anh cũng không bao giờ có thể cảm thấy thực sự an toàn, không phải với những tên này. Anh đã rút ra một kết luận từ nhiều năm về trước rằng lý do duy nhất sự biến mất của anh không bị điều tra là vì tất cả mọi người, gồm cả Brandeis, đều nghĩ rằng những vết bỏng đã giết chết anh rồi.
Khỏi nói anh khao khát nói chuyện với anh ấy đến thế nào. Anh không thể – và sẽ không để cho cơ hội này cứ thế mà qua được, nhưng vấn đề là làm thế nào tới được chỗ Brandeis mà không bị phát hiện. Khi mấy gã trai bắt đầu đấm đá người chủ hàng, anh đã nghĩ mình có thể lẻn vào giữa đám lộn xộn. Tôi tuyệt đối phản đối ý tưởng đó, dù tôi biết có nói thế cũng không cản nổi anh. Ngay khi anh bước tới trước một bước, một người đàn ông khác đã xen vào cảnh đó, và toàn bộ không khí đã thay đổi. Ngay lập tức bọn lính trẻ tránh khỏi người bán hàng, như thể chúng quá sợ làm gì mà không được phép vậy.
Điều đầu tiên tôi nhận ra ở người đàn ông là nét tàn nhẫn xảo quyệt hiện rõ trong mắt hắn. Chúng dường như đang cháy bừng ngọn lửa thèm khát bạo lực, như thể hắn nghĩ hỗn loạn tồn tại chỉ để cho hắn cơ hội đạt mục đích.
“Hắn là ai?” tôi hỏi.
Anh trả lời với giọng lạnh như băng. “Kuonrat Háo Danh.”
Cái cách bọn lính khúm núm trước hắn đã thể hiện rõ rằng giờ hắn là chỉ huy của đội lính. Chỉ vài từ và lưỡi gươm kề sát cổ người bán hàng, vấn đề đã được giải quyết. Bọn lính đánh thuê lấy tất cả những gì chúng muốn, và người chủ được phép giữ lại mạng sống.
Kuonrat là kẻ anh không bao giờ dám xuất đầu lộ diện trước mặt, nhưng tôi không bị bó buộc bởi những điều đó. Trước khi anh kịp cản, tôi đã bước ra khỏi chỗ nấp và đi thẳng đến chỗ đám đông. Tôi biết anh sẽ không thể theo sau tôi được: việc anh lộ diện có thể còn đặt tôi vào tình thế nguy hiểm hơn là cứ để tôi tự ra tay. Tôi kéo cổ áo rộng ra và đi đến chỗ Brandeis.
Đó là một sự liều lĩnh có tính toán. Kuonrat chưa bao giờ nhìn thấy tôi và Brandeis thì khó mà nhận ra tôi, bao nhiêu năm đã trôi qua và tôi không còn mặc quần áo nữ tu. Tôi cố hết sức đóng giả một gái bán hoa, cố cho tất cả mọi người thấy là tôi đang cố mồi chài Brandeis. Đó thực sự là một màn kịch khó đỡ nếu xét đến việc dù không để lộ ra nhưng rõ là tôi đang mang đứa con của anh trong bụng. Vài tên lính rú lên khi tôi ngả người về phía trước để thì thầm vào tai Brandeis – đang ra giá đây, chúng nghĩ. Tôi đã nói thầm hai điều: tên anh, và rằng tôi là nữ tu đã chăm sóc cho anh tại Engelthal.
Brandeis giật lùi ra sau, mắt anh ấy nhíu lại nhìn mặt tôi trong khi đang cố lục lọi trí nhớ của mình về tu viện đó. Sau khi đã bình tĩnh lại, anh ấy thông báo với những người còn lại là mình sẽ gặp lại họ sau, và bóng gió nói về một buổi chiều vui vẻ đang chờ phía trước. Cả Kuonrat cũng gật đầu đồng ý và nói, “Có lẽ sau khi đã xong xuôi với anh ta, cô sẽ quay lại đây với chúng tôi.”
Cái ý tưởng đó làm tôi phát buồn nôn nhưng tôi chỉ cất tiếng cười “có lẽ” và lôi Brandeis đi. Để anh đoàn tụ với anh ấy ở chốn đông người sẽ là một hành động quá mạo hiểm nên tôi đưa anh ấy về nhà chúng ta, nơi tôi biết anh đang đợi. Brandeis hầu như không thể tin vào mắt mình khi thấy anh vẫn còn sống. “Tôi đã nghĩ… tôi đã tin chắc là… tôi đã quay lại Engelthal một lần, nhưng chẳng ai nói gì với tôi cả…”
Tôi mang chỗ bia ngon nhất trong nhà ra và bắt tay vào nấu nướng. Tôi muốn tạo ấn tượng tốt, tôi muốn Brandeis thấy tôi đã chăm sóc cho anh tốt đến mức nào. Anh kể với anh ấy tất cả mọi thứ đã xảy ra trong từng ấy năm, và anh ấy rất bất ngờ trước việc anh có thể gây dựng một cuộc sống như thế.
Khi đến lượt mình, Brandeis kể với anh những chuyện xảy đến với đội quân condotta. Rằng nó đã trở nên tồi tệ đến thế nào. Herwald đã bị thương nặng trên chiến trường và Kuonrat là kẻ chém nhát kiếm cuối cùng lên cổ người đàn ông tội nghiệp. Chẳng phải một hành động nhân đạo gì; Kuonrat chỉ đang cố thị uy. Khi hắn thách xem có ai dám phản đối việc hắn làm trưởng đội không, không ai bước ra cả.
Kuonrat chỉ thu nhận những kẻ khát máu nhất. Bản năng chiến đấu của chúng rất ác liệt, nhưng những tên lính mới rất ngu ngốc và không có chút tự trọng nào. Quả thực chúng giết được nhiều hơn, nhưng chúng cũng bị giết nhiều hơn. Chúng đánh nhau với sự hăng máu, chứ không phải với trí thông minh, và Kuonrat thì chăn chúng như một gã chủ chăn bầy chó hoang của mình vậy. Chúng chết thì sao, cả nước này không thiếu bọn choai choai thích tỏ vẻ người lớn. Bảo vệ một nguồn lực có thể tự tái tạo là một việc phí thời gian đối với Kuonrat. Và thêm vào đó, hắn cũng hiểu từ kinh nghiệm bản thân rằng cứ ở trong đội đủ lâu thì thỉnh thoảng sẽ lại có vài kẻ thèm khát quyền lực.
Bất chấp những cách thức dã man, kết quả Kuonrat thu lại không có gì để bàn cãi. Đội quân trở nên khét tiếng tàn bạo kinh dị và khả năng đánh bại cả những lực lượng lớn hơn chỉ bằng vũ khí là sự hung bạo. Thành công làm hắn bạo gan thêm và bắt đầu suy xét lại tính thực tiễn của việc làm lính đánh thuê. Tại sao, hắn tự hỏi, bọn quý tộc lại được sở hữu đất đai trong khi người bảo vệ chúng lại là đội lính condotta? Tiền đối với hắn giờ không đủ. Kuonrat muốn có nhiều quyền lực hơn. Hắn đang chuẩn bị thôn tính lãnh thổ cho riêng mình.
Những năm tháng dưới quyền Kuonrat đã làm khao khát rời khỏi đội lính của Brandeis ngày càng thêm mãnh liệt, nhưng trốn chạy giờ đã gần như là không thể. Vẫn còn đó đạo luật, một khi gia nhập đội, anh sẽ phải ở trong đội đến hết đời, nhưng giờ còn có thêm vài trở ngại nữa. Kuonrat không bao giờ có thể quên được chuyện Brandeis đã đứng lên chống lại hắn như thế nào khi anh bị thương trên chiến trường; hắn luôn tìm cớ để trả đũa. Nếu Brandeis dám cả gan bỏ trốn, Kuonrat sẽ cho những tên truy kích tài ba nhất, những kẻ vừa gan lì vừa độc ác, đi lùng.
Dù đê tiện, Kuonrat cũng không phải thằng ngu. Hắn biết mình không thể tự dưng mà tấn công Brandeis được, vì đội vẫn còn một số người lính từ thời trước, những người vẫn coi trọng Brandeis với tư cách là một cung thủ lẫn một con người. Và vì thế, nói chung, Brandeis luôn được để yên. Nhưng hiểm họa thì vẫn treo lơ lửng trên đầu.
Thật lạ khi thấy anh ở cùng với một người bạn cũ, người đã cùng anh đối mặt với sống chết trên chiến trường không biết bao nhiêu lần. Brandeis đã chia sẻ một phần đời của anh mà tôi không thể nào hiểu được. Có một sự thân thiết kỳ lạ trong cái cách cả hai người đều cố tỏ ra cứng rắn nhưng cũng không thể giấu hết được sự dịu dàng trong lời nói dành cho nhau. Tôi có thể thấy anh nhớ tới những năm tháng xưa cũ – không phải những trận chiến mà là tình bạn bè. Có những ký ức thật ngộ biết bao; sau đêm hôm đó, có một hình ảnh vẫn được lưu giữ mãi trong ký ức của tôi. Trong bữa ăn, Brandeis giơ tay ra với một cử chỉ hầu như không thể hiểu nổi, nhưng anh vẫn biết là cần đưa nước cho anh ấy. Đó hẳn là một hành động các anh đã lặp đi lặp lại hàng nghìn lần trong những bữa ăn bên đống lửa trại và nó đã không bị lãng quên trong ngần ấy năm xa cách. Chẳng ai trong hai anh có vẻ nhận ra điều ấy cả.
Cuối bữa ăn, một sự im lặng nặng nề bao trùm lên hai người. Anh và anh ấy cứ ngồi nhìn nhau chằm chằm, có lẽ đến cả phút, cho tới khi Brandeis nói thành lời. “Tôi không thể tiếp tục sống cuộc sống hiện tại nữa.”
“Tôi sẽ giúp anh bằng mọi cách,” anh nói.
Nhưng không thể trốn ngay đêm đó được. Nếu Brandeis biến mất, những tên lính đánh thuê sẽ biết phải truy lùng “cô gái bán hoa” đã gặp anh ấy lần cuối. Mọi người quyết định rằng anh ấy sẽ trở về đội condotta và vờ như đã có một khoảng thời gian vui vẻ với tôi rồi. Đội lính sẽ ở lại thành phố thêm vài ngày nữa rồi đi làm nhiệm vụ tiếp theo ở nơi khác. Sau một tháng khi những ngày ở Mainz chỉ còn là một ký ức xa xôi, anh ấy mới có thể đào thoát được.
Nếu tất cả mọi chuyện đều xuôi chèo mát mái, thì đây là một kế hoạch khôn ngoan nhất. Brandeis chẳng có thân thích gì ở Mainz, chẳng có quan hệ ràng buộc với thành phố này theo bất cứ kiểu nào. Ai lại nhớ được buổi chiều anh ấy quan hệ với một ả nào đó cả tháng trước chứ? Thế là kế hoạch được vạch ra.
Tại ngưỡng cửa, hai người bọn anh đã đứng ưỡn ngực đúng như hai người đàn ông. Anh ấy vỗ vai anh còn anh đấm vai anh ấy. Tôi ôm ghì lấy anh ấy và hứa sẽ cầu nguyện cho anh ấy được an toàn. Brandeis nói rằng đó quả là một ý hay, và chúc mừng tôi thêm lần nữa về việc tôi có thai. Khi anh ấy nắm tay tôi, tôi có thể cảm nhận được vết sẹo dài trên tay anh ấy, và chỉ khi đó tôi mới nhớ ra anh ấy đã bị bỏng khi cố rút mũi tên ra khỏi ngực anh. Khi anh ấy đi về phía màn đêm, tôi thực sự nhận ra rằng chúng ta đã nợ anh ấy nhiều đến thế nào.
Tháng tiếp theo cứ thế trôi đi. Chúng ta có nói về Brandeis nhưng chẳng bao giờ nhiều hơn vài từ một lần, gần giống như hồi chúng ta tránh nói về khát khao có con, như thể chúng ta sợ dại mồm dại miệng vậy. Năm tuần. “Anh có nghĩ…?” tôi hỏi. “Rồi sẽ có lúc anh ấy về,” anh trả lời.
Sáu tuần, Brandeis không xuất hiện. Tôi không khỏi lo lắng, và tôi nôn suốt các buổi sáng vì ốm nghén. “Rồi sẽ có lúc anh ấy về,” anh liên tục nói thế. Tôi đã vượt qua được nỗi lo lắng cho sự an nguy của anh ấy – và của cả chúng ta nữa, khi cuối cùng anh ấy trở về thật. Anh liên tục trấn an tôi rằng mọi thứ sẽ ổn thôi, và tôi đã cố hết sức để tin như vậy.
Bảy tuần. Tôi đang ở nhà soạn một bản thảo, ngồi bên cạnh cửa sổ, thì một bóng người trùm khăn kín mít đi qua những dãy phố về phía ngôi nhà. Tôi nhận ra cái chân cứng đơ và ngay lập tức biết đó là Brandeis dù anh ấy đã che kín mặt. Chiếc áo chùng của anh ấy phủ đầy những lớp tuyết rơi từ sáng sớm, và đó là một ngày hoàn toàn thích hợp để ăn mặc ấm áp mà không bị nghi ngờ. Không ai có thể băn khoăn nghi ngại gì trước việc một người đàn ông chỉ đang cố giữ ấm thân thể. Tôi để anh ấy vào khi đã chắc chắn không có ai lai vãng trên đường.