Tháng Mười một kết thúc với việc hoàn thành bức tượng 21, đưa tổng số lượng đã làm xong trong tháng lên tới bảy.
Bức tượng thứ 20 và 19 được hoàn thành trong tuần đầu tiên của tháng Mười hai. Bức tượng thứ 18 xuất hiện vào tuần thứ hai. Việc chuẩn bị cho các tác phẩm điêu khắc đá ngày càng kéo dài, nhưng giường cô vẫn trống không kể từ cái đêm cô kể cho tôi nghe về Brandeis. Cuộc sống của chúng tôi bây giờ chỉ bao gồm có ba hành động. Cô tạc tượng và quên tất cả mọi thứ, còn tôi thì nhìn.
Tôi nhìn cô bơ Bougatsa đi; cô quên không giúp tôi tắm. Tôi nhìn cô gạt hết các đĩa thức ăn tôi chuẩn bị cho cô sang một bên; cô quên không bỏ quà vào đôi giày đặt trên bậu cửa sổ cho lễ thánh Nick của tôi. Tôi nhìn cô hút hàng trăm điếu thuốc lá một ngày; cô quên không đổi bất cứ album nào trong đĩa. Tôi nhìn cô ăn vã hàng bình cà phê hòa tan; cô quên không lau máu dính trên ngón tay. Tôi nhìn thân thể của cô cứ héo mòn đi, tôi nhìn má cô hóp lại, tôi nhìn mắt cô ngày càng nhiều quầng thâm đen hơn; cô quên cách sắp xếp từ ngữ để nói một câu hoàn chỉnh.
NGƯƠI LÀ Tôi không phải ĐỒ VÔ DỤNG.
Tôi khẩn khoản xin cô nghỉ một chút, nhưng cô cứ khăng khăng nói rằng mình không còn thời gian nữa. Giờ không chỉ những bức tượng mà cả Ba Vị Chủ Nhân của cô cũng đang thúc giục cô làm việc nhanh lên.
Tôi gọi Gregor và Sayuri vì tôi chẳng biết phải làm gì khác. Họ cố gắng nói lý với cô, nhưng họ cũng chỉ như đang nói chuyện với bức tường mà thôi. Tôi thậm chí còn không chắc Marianne Engel biết họ đang ở trong phòng với cô. Khi tôi cầu viện sự giúp đỡ của Jack, bà đã chuyển sang chủ đề chuyện này ảnh hưởng đến bà như thế nào. “Tôi chẳng còn chỗ trống ở triển lãm nữa còn cô ấy thì cứ tiếp tục gửi mấy bức tượng này. Nó chẳng có vẻ gì là hàng chạy mùa Giáng sinh cả, anh cũng biết đấy.” Tôi dập mạnh ống nghe xuống rồi đi thẳng tới chỗ hộp morphine để tìm chút thanh thản.
Tôi phải thuê thợ đến khiêng những bức tượng thừa ra để ở sân sau. Tôi phản đối việc này, mong rằng cái xưởng làm việc chật ních sẽ làm Marianne Engel phải dừng lại, nhưng cô cứ cương quyết bắt tôi làm thế. Khi tôi phản đối thì cô bắt đầu thét vào mặt tôi bằng thứ ngôn ngữ tôi chẳng hiểu nổi, và tôi đã thua. Rõ ràng một chuyện gì đó rất khủng khiếp sắp xảy ra.
“Cô không thể cứ tiếp tục làm việc như thế này được.”
“Những con quái vật là điềm gở của thần thánh.”
“Người cô máu me bê bết hết rồi. Để tôi giúp cô tắm một chút.”
“Máu của sự sống.”
“Sao cô không ăn cái gì đi?” tôi dụ dỗ. “Cô đang ngày càng yếu đi đấy.”
“Tôi đang dần đạt tới sự hư vô tuyệt đối. Đó là vinh quang.”
“Nếu ốm bây giờ, cô sẽ không giúp bọn quái vật thoát ra khỏi đá được đâu.”
“Nếu ốm bây giờ, tôi sẽ thấy hạnh phúc vì Chúa đã nhớ đến tôi.”
Cô không chịu lên tầng trên, để tắm, hoặc để ngủ, vì thế khi cô đang nằm ngủ trên những tảng đá để chờ nhận chỉ dẫn, tôi mang một xô nước ấm và xà phòng xuống tầng hầm. Nếu cô không chịu tắm rửa, tôi sẽ tắm rửa cho cô.
Miếng bọt biển chà lên xương sườn cô như một cái ô tô chạy trên đường gập ghềnh ổ gà. Những giọt nước màu xám rỏ xuống từ thân thể cô, rơi xuống sàn nhà và làm thành những hình thù kỳ dị giữa đám bụi đất. Con Bougatsa gắt nhặng lên ở trong góc. Khi tôi lật cô sang một bên để dễ kỳ cọ phần lưng, hình xăm cánh thiên thần trên lưng gần như chùng xuống trên lớp da bèo nhèo của cô. Jack chẳng làm gì giúp tôi, nhưng bà cũng không thể không để ý đến tốc độ tạc tượng kinh hoàng ấy chứ, cả đống tượng làm ngập hết cả phòng triển lãm của bà rồi còn gì. Jack càng chậm đáp lại đề nghị giúp đỡ mà tôi không thèm nói ra, tôi càng thêm ức chế. Khi không thể nhịn thêm được nữa, tôi bổ nhào vào cửa tiệm của bà, thậm chí chả thèm chào hỏi, bắt bà phải làm gì đó.
“Anh trông mong tôi làm được cái gì cơ chứ?” Jack nói. “Cô ấy quan tâm đến anh nhiều ơn tôi hàng tỷ lần, thế mà anh cũng chẳng bắt cô ấy dừng lại được. Vì thế cứ lo mà dỗ cho cô ấy ăn uống, rồi đợi cho đến khi cô ấy kiệt sức là xong.”
“Thế hả?” tôi hỏi. “Bà đang kiếm được hàng đống hợp đồng, và đó là tất cả những gì bà có thể nói đấy hả?”
“Lạy Chúa, anh đúng là một thằng khốn.” Jack chọc vào vai tôi bằng cái bút đang cầm. “Cô ấy có uống thuốc không?”
Tôi giải thích rằng tôi đã cố trộn thuốc vào chỗ bột cà phê của cô nhưng cô đã phát hiện ra trò lừa gạt. Cô huỳnh huỵch đi thẳng lên tháp chuông quăng cái bình qua đầu tôi, khiến nó va vào tường vỡ nát. “Bà có biết quét hết bột cà phê ra khỏi giá sách khổ thế nào không?”
Jack gật đầu. “Lần tôi cố lén cho cô ấy uống thuốc, cô ấy đã không nói chuyện với tôi suốt ba tháng trời. Cô ấy tưởng tôi cũng là một phần trong kế hoạch chống lại cô ấy.”
Biết rằng Jack cũng đã cố thử cái trò đó làm tôi dịu đi phần nào. Chúng tôi kết thúc cuộc nói chuyện khá lịch sự, và Jack hứa sẽ ghé qua pháo đài tối hôm đó.
Bà mang đồ ăn mà Marianne Engel có thể thấy rõ là không hề trộn thuốc – bánh mì, hoa quả, pho mát, vân vân và vân vân – và cố kéo cô cùng nói chuyện. Chẳng tác dụng gì. Marianne Engel rất tức giận với chúng tôi vì đã làm phiền cô, cô đứng dậy bẻ chỗ bánh mì thành hàng trăm mảnh rồi thả xuống cùng đống vụn đá trên sàn nhà, rồi vặn volume đài lên tới mức chúng tôi không chịu được nữa và phải chạy luôn. Đang trèo lên cầu thang, tôi nghe thấy tiếng cô phấn khích nói một mình bằng tiếng Latin.
Dù chúng tôi chẳng hề làm được gì nhưng mọi nỗ lực cố gắng cũng đã vắt kiệt sức chúng tôi. Jack và tôi ngồi im lặng trong phòng khách đến mười lăm phút. Rốt cuộc tôi cũng nhận ra không phải Jack chẳng quan tâm, đơn giản là vì bà – trước kia từng nếm mùi chuyện này rồi – thực sự biết chúng tôi không thể làm gì để thay đổi tình hình cả. Tuy thế, khi ra về, Jack đã nói, “Mai tôi sẽ quay lại.”
Sáng hôm sau, tôi thấy Marianne Engel nằm ườn ra trên bức tượng sắp hoàn thành số 17. Tôi quàng tay quanh người cô còn cô chẳng còn hơi sức đẩy tôi ra nữa dù đã cố hết sức. “Không, tôi còn phải làm cái tiếp theo nữa.” Cô thực sự quyết tâm nhưng cô chẳng còn chút sức lực để chống lại tôi nữa, và tôi giúp cô lên cầu thang.
Tôi lại xả sạch bụi, mồ hôi và máu khỏi người cô, trong khi cô mệt mỏi tựa đầu vào thành bồn tắm như một con rối dây không có chủ điều khiển. Cô cứ liên tục nói với tôi, suốt lúc tắm rửa và cả khi tôi giúp cô lên giường, rằng cô phải quay lại xưởng. Nhưng chỉ sau vài giây chạm vào chăn nệm, cô đã ngủ.
Marianne Engel vẫn còn mê man khi Jack đến vào tối hôm đó. Thấy mình lại ở một mình với bà Meredith, tôi khui một chai rượu bourbon mới ra.
Jack kể cho tôi nghe về những khách mua tượng gargoyle. Những cái tên thật ấn tượng: các thương gia thành đạt, chính khách, nhà bảo hộ nghệ thuật lừng danh, kể cả những nhân vật tiếng tăm trong ngành giải trí. Tôi nhận ra một số lượng lớn các tên tuổi đứng đầu bảng xếp hạng âm nhạc và các diễn viên hạng A ở Hollywood, cả một nhà văn gần như được cả thế giới coi là vua của thể loại truyện kinh dị nữa. Một đạo diễn, nổi tiếng với những bộ phim lãng mạn về mấy kẻ bị xã hội ruồng bỏ, đã mua ít nhất là nửa tá tượng. (Với mớ tóc đen bù xù và khuôn mặt nhợt nhạt như xác chết, tôi nghĩ ông ta sẽ rất dễ bị nhầm là người anh cùng cha khác mẹ mắc bệnh thiếu máu của Marianne Engel.) Dù không ngạc nhiên khi thấy nhiều nhà thờ mua các gargoyle của cô, tôi không hề nghĩ rằng nhiều trường đại học cũng là khách hàng quen của cô.
Jack ăn gần hết chỗ đồ ăn Trung Hoa mà chúng tôi đã đặt, nốc hết cốc rượu này đến cốc rượu khác để trôi thức ăn. Bà lau sạch chỗ nước xốt dính trên miệng mình bằng mặt sau của ống tay áo và hỏi có phải cái ấy của tôi đã thực sự mất rồi không. Khi tôi xác nhận rằng nó không còn nữa, bà xin lỗi vì trước kia đã nói đùa về chuyện đó. Tôi chấp nhận lời xin lỗi với tất cả những cử chỉ lịch thiệp nhất tôi có thể nghĩ ra và bà thậm chí đã rơm rớm nước mắt; tôi phát hiện ra rằng rượu – như nó vẫn gây ra cho cả những đệ tử lưu linh kỳ cựu nhất – có thể làm bà trở nên tình cảm hơn. Khi tôi hỏi xem Jack đã chuẩn bị gì cho Giáng sinh chưa, bà trả lời bằng cách thuật lại chuyện đời mình.
Bà có bầu khi vẫn còn là trẻ vị thành niên và đã sinh một cậu con trai. Ted, giờ khoảng ba mươi tuổi. Jack đã cưới cha Ted, một kẻ bạo lực và suốt ngày rượu chè be bét, bà đã sống với ông ta vì có vẻ bà chẳng có sự lựa chọn nào khác. Bà đã cố gắng tốt nghiệp trung học, nhưng đại học thì chẳng cần nói cũng biết. Khi Jack mang bầu lần hai, lão chồng đã buộc tội bà đang cố hủy hoại đời lão: “Cô lại dính lần nữa, dù chúng ta chẳng có tiền. Con khốn!” Ted, lúc ấy sáu tuổi, phải chứng kiến cảnh người mẹ bụng mang dạ chửa bị bố đánh ít nhất một tuần một lần trong suốt thai kỳ.
Vào một buổi tối khi Jack đang ở tháng mang thai thứ bảy, chồng bà đã cho bà một trận thừa sống thiếu chết. Khi lão ta xỉn quắc cần câu, Jack đã sắp ít đồ đạc và mặc quần áo ấm cho bé Ted. Bà đặt thằng bé ra chỗ cửa ra vào rồi quay lại phòng ngủ với một cái chảo rán trong tay, đập thẳng vào đầu chồng. Bà bảo làm thế để chắc chắn lão ta không tỉnh dậy và đuổi theo, nhưng tôi ngờ lý do chủ yếu bà ra tay là bởi nó làm bà dễ chịu. Suốt mấy ngày liền, bà nói, bà đã xem các báo địa phương để biết liệu mình có giết lão không. Khi không có lời cáo phó nào đăng lên, bà cảm thấy nhẹ cả người nhưng cũng thấy hơi thất vọng một chút.
“Sau khi bỏ chồng, tôi thỉnh thoảng cũng lo rằng lão sẽ chực chờ ở bệnh viện của mẹ tôi. Bà ấy bị mắc chứng tâm thần phân liệt,” Jack nói. “Nhưng tôi không bao giờ gặp lại lão khốn ấy thêm lần nào nữa. Không có gan làm một kẻ đeo bám, tôi đoán thế.”
Việc mẹ Jack là bệnh nhân tâm thần phân liệt đúng là một bất ngờ. Liệu điều đó có quan hệ gì với Marianne Engel không? Thực sự là có.
“Tôi yêu mẹ và phải đến thăm bà ấy, đặc biệt khi không có ai khác làm thế. Cha tôi đã bỏ mẹ tôi đi lâu rồi. Tôi nghĩ ông ấy không thể chịu cảnh phải nhìn người phụ nữ mình yêu trở nên điên loạn.”
Tôi đưa ra vài nhận xét nho nhỏ rằng có vẻ cuộc đời bà cũng gặp nhiều trắc trở.
“Quá đúng ấy chứ. Tất cả những gã đàn ông xuất hiện trong cuộc đời tôi đều thối nát đến nỗi khi Ted lớn lên,” Jack thú nhận, “tôi đã thầm mong nó sẽ thành một đứa đồng tính.”
“Và?”
“Không được may đến thế,” bà làu bàu, đổ đầy bourbon vào cốc.
“Ồ, đừng nên từ bỏ hy vọng,” tôi nói, cố tỏ vẻ tử tế.
“Phải, thế nào cũng được.” Bà lại làm một ngụm tướng nữa. “Dù sao, mọi việc khá vất vả nhưng chúng tôi cũng đều đã vượt qua được. Sinh Tammie, đứa trẻ tôi mang nặng khi tôi bỏ lão chồng. Kiếm được công việc bồi bàn. Được thăng lên làm đầu bếp, rồi trợ lý bán hàng. Một quán ăn nhỏ bẩn thỉu, nhưng còn có thể làm gì hơn? Vài luật sư lần ra tôi sau khi cha tôi mất, và ông già cũng có để lại cho tôi chút tiền. Vì thế tôi nghĩ, xét cho cùng, mấy kẻ thối nát cũng có điểm tốt.” Bà nâng cốc hướng lên trời. “Tôi biết tôi không thể nuôi dạy hai đứa con với những gì mình kiếm được ở cái nhà hàng đó, vì thế tôi dùng một chút tiền để theo học một khóa học buổi tối, làm kế toán. Kiếm được bằng khá, và cũng kiếm được một chân tệ hại trong một công ty tử tế.”
“Mãi lâu sau bà mới trở thành chủ phòng triển lãm,” tôi nhắc, “và trung gian của Marianne Engel.”
“Không lâu như anh nghĩ đâu. Tôi tiếp tục đến bệnh viện thăm mẹ mình và một ngày tôi đã để ý đến một bệnh nhân mới, một cô gái trẻ. Hấp dẫn, anh biết đấy, ngồi một mình bên bàn. Đang vẽ. Cô ấy khác với những người còn lại. Có lẽ đấy là do mái tóc và đôi mắt.”
“Marianne.”
“Trúng rồi,” Jack nói. “Trừ việc lúc đó tên cô ấy không phải là thế. Cô ấy là một em Jane Doe cảnh sát tìm thấy bên vệ đường. Marianne Engel chỉ là cái tên mà tự dưng một ngày nọ cô ấy bảo các bác sĩ gọi mình thôi.”
Marianne Engel không phải tên thật của cô. Vẻ bất ngờ của tôi trước thông tin đó làm Jack cười khẩy. Bà hài lòng khi biết những chuyện mà tôi không biết về người bạn chung của chúng tôi.
“Các y tá nói với tôi rằng không xác định được danh tính cô ấy, và dấu vân tay thì chẳng khớp với ai. Cô ấy không chịu, hay không thể, nói với họ bất cứ điều gì về quá khứ của mình. Có lẽ cha mẹ cô ấy đã mất hay họ chỉ đơn giản là đã vứt cô ấy đi, ai biết được? Dù sao, sau vài chuyến thăm, tôi đã quyết định chào hỏi. Khi đó cô ấy khá e thẹn. Khi tôi hỏi xem tranh của cô ấy, cô ấy không cho. Nhưng tôi cứ tiếp tục hỏi, và sau vài lần thăm viếng nữa, cô ấy cuối cùng cũng đồng ý. Tôi choáng váng. Tôi những tưởng đó là mấy nét vẽ nguệch ngoạc, nhưng hóa ra lại là những con quái vật, ác thú kỳ lạ xấu xí, nhưng chúng đều có vẻ mỏng manh, yếu ớt. Một vẻ gì đó khiến đôi mắt chúng có hồn.”
Jack ngừng lại. Tôi nhìn qua những khe hở trên chiếc mặt nạ nhựa dẻo đặc biệt của mình, và trong phút chốc, tôi lo ngại bà sẽ nói rằng trong mắt tôi cũng ẩn chứa đau thương. Nhưng bà chỉ làm thêm một ngụm rượu nữa và tiếp tục nói. “Cô ấy bảo thực ra cô ấy không phải họa sĩ vẽ tranh ký họa. Cô ấy là thợ điêu khắc và những sinh vật này đang đợi để được giải phóng khỏi đá.”
“Vậy,” tôi nói, “thậm chí ngay từ khi còn nhỏ…”
“Phải, thậm chí ngay từ khi còn nhỏ,” Jack xác nhận lại. “Tôi nghĩ mình khá thích thú trước cái ý tưởng đó, nhưng tôi chẳng biết cóc khô gì về nghệ thuật cả. Có lẽ đến nay tôi vẫn không biết gì hết. Nhưng tôi biết rõ điều này – có gì đó rất đặc biệt ở khả năng tưởng tượng của cô ấy. Tôi thích nó, và hóa ra nhiều người khác cũng thích. Nhưng vào lúc đó, tôi chỉ gật đầu, vì tôi có thể làm được cái quái gì cơ chứ? Nhiều tháng trôi qua, tôi vẫn tiếp tục đến thăm mẹ, còn Marianne Engel vẫn tiếp tục cho tôi xem tranh của cô ấy, và tôi không biết… chỉ là cô ấy ngày càng thân thiện với tôi hơn. Tôi nghĩ mình cảm thấy thương hại cô ấy. Cô ấy còn quá trẻ, và có lẽ tôi cũng hiểu cái cảm giác khi bị kẹt ở một nơi chẳng mang lại điều gì tốt đẹp cho ta. Nhà thương điên là nơi thích hợp cho mẹ tôi, không có gì phải bàn cãi về điều đó, nhưng nó không phải nơi thích hợp với Marianne Engel.”
“Thế chuyện gì đã xảy ra?”
“Các bác sĩ cứ chế thuốc cho cô ấy mãi cho tới khi cuối cùng họ cũng tìm được một hợp chất có vẻ có tác dụng và tình trạng của cô ấy đã khá hơn. Marianne có thể cư xử bình thường, anh cũng biết đấy, khi cô ấy uống thuốc. Nhưng cô ấy luôn nghĩ chúng có hại cho những trái tim của mình.” Jack ngừng lại. “Phải, cái ảo tưởng đấy cũng chẳng mới mẻ gì. Một lần tôi thậm chí còn nhờ họ chụp X-quang để cô ấy thấy mình chỉ có duy nhất một quả tim thôi, ấy vậy mà cô ấy vẫn không chịu tin tôi.”
“Nhưng làm thế nào mà…”
“Tôi sẽ nói đến đoạn đó, nếu anh chịu ngậm miệng lại.” Jack xỉa đôi đũa của bà về phía tôi, một mẩu thịt gà Cung Bảo văng ra giữa chúng tôi. “Sau khi các bác sĩ giúp cô ấy bình thường trở lại, họ đưa cô ấy vào một nhà tình thương và cô ấy cuối cùng đã kiếm được việc làm tại một quán cà phê. Rửa bát đĩa, anh có thể tin được không? Khi nghe được chuyện đó, tôi đã đến thăm và thấy khuỷu tay cô ấy ngập trong nước bẩn, và trong đầu tôi chỉ có duy nhất hình ảnh những bức ký họa tuyệt vời đó. Cũng trong thời gian này, cô ấy đã có hình xăm đầu tiên trên cánh tay, một trong những câu tiếng Latin. Khi tôi hỏi tại sao lại làm thế, cô ấy bảo vì không có tiền mua đá, cô ấy sẽ dùng chính thân thể mình để làm khung tranh. Tất cả những hình xăm ấy, cô xăm chúng khi không thể tạc tượng vì một lý do nào đó. Dù thế nào thì, tôi nói, chuyện này thật vớ vẩn. Nếu cô ấy muốn tạc tượng đến thế, tôi sẽ giúp. Vì thế tôi trả tiền cho cô ấy theo học một khóa học buổi tối, dù toàn bộ gia sản của tôi chỉ là số tiền còm cõi bố tôi để lại, mà tôi lại còn hai đứa trẻ phải nuôi nữa chứ. Ngu hết thuốc chữa, nhỉ?”