Không hiểu sao, chuyện tôi không được phép tham gia vào bất cứ nhiệm vụ nào của phòng viết lại đến tai tu viện trưởng. Tôi có thể hình dung được xơ Christina đứng đằng sau vụ này. Với một tiếng thở dài cam chịu và một bài giải thích dài lê thê rằng mình rất phản đối chuyện này, Gertrud đã cho tôi biết là “dưới chỉ thị của Tu viện trưởng, bây giờ ta sẽ phải cho phép những ngón tay bé tí ngu ngốc của ngươi được bắt đầu luyện tập.” Bà cho tôi vài mảnh giấy da cũ, nham nhở lỗi chép sai, và bảo tôi nỗ lực làm việc đi.
Tôi chìm đắm vào công việc. Tôi luyện tập trên bất cứ mẩu giấy da bê vứt đi nào mà tôi tìm thấy và, khi kỹ năng của tôi tiến bộ, tôi đã miễn cưỡng được cho những cây bút lông tốt hơn và được dành nhiều thời gian để luyện tập kỹ năng dịch hơn. Tôi đã biết tiếng Đức, Latin, Hy Lạp và Aramaic, tiếng Ý trong cuốn Kinh Thánh của Paolo, và một chút tiếng Pháp. Tôi đang trên đà đọc hết từng cuốn một trong phòng viết và sự trưởng thành của tôi luôn là nguồn ngạc nhiên sững sờ đối với các xơ, dù tôi chẳng bao giờ nhận được một lời tán dương nào từ Gertrud cả. Xơ Agletrudis luôn tìm được niềm vui trong việc bới móc mọi sai sót của tôi và khi tôi quay lưng lại tiếp tục làm việc, lọ mực của tôi sẽ bị đổ một cách bí ẩn, những cuốn sách của tôi sẽ biến mất một cách bí ẩn, hoặc những chiếc bút lông ngỗng của tôi sẽ bị tòe ngòi một cách bí ẩn. Mỗi lần tôi chỉ ra những tai nạn “ngẫu nhiên” với Gertrud, bà chỉ cười khẩy và thề sống thề chết cho sự trong sáng của xơ Agletrudis.
Tuy thế, cuối cùng Gertrud cùng cô trợ lý cũng không thể phủ nhận tài năng của tôi được nữa. Tôi dần trở thành người dịch được nhiều ngôn ngữ nhất, và cũng là người dịch nhanh và chính xác nhất. Sự khó chịu của Agletrudis đối với tôi không còn là sự không ưa đơn thuần nữa mà đã biến thành cảm giác ghen ghét đầy đe dọa, cả Gertrud cũng bực bội ra mặt khi bà bắt đầu nhận ra tôi có giá trị đến thế nào đối với Die Gertrud Bibel. Bà chẳng còn là một phụ nữ trẻ trung gì nữa, và nếu muốn đảm bảo cuốn Kinh Thánh được hoàn thành khi bà còn sống, bà cần phải đẩy nhanh tiến trình lên. Cuối cùng, bà cũng chịu để tôi bắt đầu đóng góp chút ít.
Có cả một cuộc sống bên ngoài phòng viết nữa. Lớn dần lên, tôi phát hiện ra cách trèo qua những cánh cổng tu viện và cuối cùng đã tìm được đường đến với thế giới bên ngoài. Tôi không đi tìm rắc rối; tôi chỉ muốn biết ngoài kia có gì thôi. Lẽ tự nhiên điểm dừng đầu tiên của tôi là căn nhà nhỏ thuộc về cha Sunder và huynh trưởng Heinrich. Khi tôi xuất hiện, cha Sunder không hề che giấu vẻ không hài lòng về hành động của tôi. Ông dọa sẽ kéo tôi về lại tu viện và báo cho tu viện trưởng biết, nhưng chẳng hiểu sao chúng tôi lại cùng nhau ngồi uống nước trái cây. Rồi chúng tôi ăn một chút. Và trước khi ông kịp nhận ra, thời gian đã trôi qua dài đến nỗi sẽ thật khó xử nếu cố giải thích tại sao ông lại không mang tôi về ngay lập tức. Thế là, sau khi tôi hứa sẽ không quay lại nữa, huynh trưởng Heinrich và cha Sunder cho phép tôi lẩn lại vào tu viện. Tôi quay trở lại vào đêm hôm sau. Một lần nữa tôi lại bị mắng té tát, nhưng chúng tôi cuối cùng còn ăn nhiều thức ăn và uống nhiều nước ép hơn. Mô hình tôi thì cứ phá vỡ lời hứa còn họ thì cứ mắng nửa vời ấy kéo dài trong vài tuần cho tới khi chúng tôi cùng nhau bỏ cái trò đóng kịch ấy đi.
Mỗi khi đến bên rặng núi trông sang căn nhà của họ, tôi luôn cảm thấy rất phấn khởi. Ngôi nhà gỗ nhỏ của họ đã trở thành ngôi nhà thứ hai, ngôi nhà bí mật của tôi. Vào những tối mùa hè chúng tôi thường chơi trốn tìm giữa những bụi cây. Đó là quãng thời gian hạnh phúc nhất của tôi, liếc nhìn từ phía sau bụi rậm hai người đàn ông trạc ngũ tuần đáng bậc cha chú đang giả vờ không tìm thấy tôi.
Engelthal là một cộng đồng nhỏ bé, thế nên việc người khác biết về những chuyến viếng thăm “vụng trộm” của tôi là điều không thể tránh khỏi. Tôi nghĩ không ai thấy chuyện này thật sự nguy hiểm cả, và dù đó là một bí mật mở giữa các nữ tu sĩ, tôi thực lòng tin rằng Gertrud, Agletrudis và cả tu viện trưởng đều không hề biết. Nếu họ mà biết, những chuyến thăm thú của tôi đã bị dập ngay lập tức chỉ vì lý do bảo vệ tài sản.
Tu viện trưởng mất trong đêm hồi tôi chỉ là đứa trẻ mới lớn, và cần phải bầu ra nữ tu viện trưởng mới càng sớm càng tốt. Những tu viện dòng thánh Dominic là những tổ chức rất dân chủ; xơ Christina, người vừa mới hoàn thành Cuốn sách về các xơ tại Engelthal và đang bắt đầu cuốn Khải huyền, đã đạt được số phiếu gần như tuyệt đối. Thế là bà đã sở hữu danh xưng mẹ Christina. Hiển nhiên tôi rất hài lòng với sự kiện này, nhưng đó đồng thời cũng là vấn đề đối với xơ Agletrudis. Mọi chuyện mới nhanh chóng chuyển sang chiều hướng bất lợi cho cô ta làm sao kia chứ, về khát vọng leo lên chức thủ thư tu viện ấy. Không chỉ vì sự hiện diện của một thần đồng trong phòng viết, mà còn bởi vị nữ tu viện trưởng mới từ lâu đã luôn là người bảo hộ lớn nhất cho cô bé ấy. Khi tôi chính thức cất lời tuyên thệ theo đạo không lâu sau khi mẹ Christina nhậm chức, đây hẳn đã trở thành giọt nước làm tràn cái thùng mang tên xơ Agletrudis. Tôi có thể cảm nhận được sự căm ghét bùng cháy trong mắt cô ta khi tôi thề sẽ phục vụ thánh Dominic và tất cả các tu viện trưởng cho tới chết.
Tuy thế, trong mắt những nữ tu sĩ khác, tôi lại thấy sự ủng hộ và tình yêu thương. Đối với họ, có vẻ như tất cả mọi thứ trong cuộc đời tôi đã được đặt vào đúng chỗ – nhưng đó không phải những gì tôi cảm thấy. Tôi thấy mình như một kẻ mạo danh trong ngôi nhà của Chúa vậy.
Tôi đã được nuôi dưỡng trong một bầu không khí vô cùng thiêng liêng, nhưng tôi chẳng cảm thấy mình thánh thiện chút nào. Thế nên rất nhiều xơ trong số chúng tôi, gồm cả Gertrud và Agletrudis, đều đã thấy những ảo giác thần bí, nhưng tôi thì không. Điều này làm tôi luôn có cảm giác kém cỏi. Tôi có năng lực ngôn ngữ, đúng, nhưng đó cũng chỉ là những gì họ thấy – năng lực, chẳng phải quà tặng hay thiên khải của Chúa. Không chỉ mỗi việc thiếu kết nối với Chúa mới làm tôi cảm thấy không xứng, mà còn vì những nữ tu sĩ khác đều có vẻ quá chắc chắn về con đường của họ trong khi có rất nhiều thứ tôi không hiểu gì cả. Tôi cảm thấy hoang mang trong cả tâm hồn và nhận thức; tôi thiếu sự chắc chắn mà dường như tất cả mọi người đều có.
Mẹ Christina trấn an tôi rằng tôi không nên quá lo lắng về việc thiếu ảo giác. Mỗi nữ tu sĩ chỉ nhận được lời nhắn khi đã sẵn sàng, bà nói, và vấn đề không nằm ở việc kêu gọi Chúa đến với mình mà phải làm bản thân trở nên thuần khiết hơn để Chúa muốn tới. Khi tôi trả lời rằng tôi không biết phải làm gì nữa để bản thân được trong sáng hơn, mẹ Christina khuyên tôi nên chuẩn bị sẵn sàng đón nhận Chúa Vĩnh Hằng bằng việc bỏ vẻ phàm tục đã ăn sâu vào trong máu tôi đi. Tôi gật đầu, như thể khẳng định lời giải thích này đã làm sáng tỏ mọi thứ, nhưng thực tế nó để lại trong tôi cảm giác bối rối không khác gì cảm giác của một con bò lạc.