Vì giờ cô đã nói chuyện với bác sĩ của tôi, tôi hỏi liệu cô có cho phép tôi được nói về ca của cô với một trong những bác sĩ đã điều trị cho cô không. Nói rõ ra là, bác sĩ Hnatiuk.
Cô trả lời là không muốn tôi bàn luận về vấn đề của cô với bất cứ ai, và cảm thấy bị xúc phạm khi tôi dám đề nghị việc ấy. Trong tất cả mọi người, cô nói, lẽ ra tôi phải là người biết chắc cô không bị điên.
Có một khoảng lặng lúng túng giữa chúng tôi, cho tới khi Marianne Engel phá tan nó, “Paracelsus(20) đã kê một đơn thuốc điều trị bỏng gồm mỡ lợn rừng, dòi bò trong sọ một người đàn ông bị treo cổ và một phần xác ướp. Cả đống đó được nướng chín lên.” Rồi cô bắt đầu giảng cho tôi nghe về lịch sử ghép da, suốt từ thời khởi thủy với những người Hindu cổ đại cho tới thời hiện đại. Tôi kéo một dải băng quấn trên chân tôi lên cho cô thấy những miếng da ghép hiện tại của mình, gồm cả mấy mảng da của người da màu nữa. Vì các bác sĩ đã dùng một chiếc máy nghiền ép chỗ da này thành một tấm lưới có thể trải rộng trên bề mặt lớn hơn, sản phẩm cuối cùng trông không khác gì một bàn cờ biến dạng.
“Nếu anh là kẻ phân biệt chủng tộc,” cô nói, lướt ngón tay trên tấm thân bàn cờ của tôi, “chắc anh thấy việc này khó chịu lắm.”
Những ngón tay của cô nhẹ nhàng nấn ná trên vùng hoang địa ấy. Chúng lướt từ thân trên tới cổ tôi, ngừng lại nơi bả vai để uốn theo những đường cong. “Cảm giác khoác lên mình tấm da của người khác thì như thế nào vậy?”
“Tôi không có đáp án hay ho cho câu hỏi đó đâu,” tôi trả lời. “Đau lắm.”
“Anh có thể nhớ những câu chuyện của họ không? Anh có thể cảm nhận được tình yêu mà họ đã cảm nhận không?”
Thỉnh thoảng tôi cũng gặp khó khăn trong việc đoán xem liệu Marianne Engel có chờ câu trả lời thật không hay chỉ đang trêu tôi thôi. “Cô có nghiêm túc không đấy?”
“Điều đó làm tôi nghĩ về chúng ta,” cô tiếp tục nói. “Điều đó làm tôi muốn khâu mình vào anh như những tấm da kia vậy.”
Tôi đằng hắng.
“Anh có biết là,” cô hỏi, “da của tôi cũng bị đóng dấu không?”
Tôi cũng phần nào nắm được ý cô. Khi cô mặc áo phông, tôi không thể không để ý đến những cụm từ Latin được xăm quanh bắp tay cô. Trên cánh tay trái là dòng chữ Certum est quia impossibile est. Khi tôi hỏi nó có nghĩa gì thì cô dịch ra là “Điều đó hiển nhiên vì điều đó không thể xảy ra.” Trên cánh tay phải là dòng chữ Quod me nutrit, me destruit. Câu này, cô bảo, có nghĩa là, “Thứ nuôi dưỡng tôi cũng sẽ hủy diệt tôi.”
“Tôi không hiểu,” tôi thú thật.
Cô cười, “Ồ, đó là vì anh vẫn chưa nhìn thấy tôi tạc tượng thôi.”
Rồi Marianne Engel thực hiện cái hành động nhỏ nhặt này. Cô chạm vào khuôn mặt tôi.
Thật là chuyện nhỏ nhặt, được ai đó chạm vào mặt ấy, đúng không? Nhưng hãy nghĩ đến những con quái vật bị lửa thiêu, bị hắt hủi trên thế giới này. Nghĩ đến những con người mà da họ không còn nhớ được xúc cảm yêu thương. Ngón tay cô nhẹ lướt trên khuôn mặt hoang tàn của tôi, luồn xuống dưới những dải băng để chạm vào đống tàn tích của mặt tôi. Những ngón tay ấy trìu mến du ngoạn lên đôi má băng bó của tôi, vất vả chạm đến môi tôi. Chúng dịu dàng nghỉ lại đó, trong giây lát. Tôi khép mí mắt cháy rụi của mình lại, những vết sẹo nhỏ túm tụm tại những nơi mà vài tuần trước các vết thương đã được khâu kín. Trái tim tôi đập loạn xạ trong lồng ngực và, cùng lúc, những lỗ chân lông bị bít chặt của tôi thi nhau làm việc quá tải, mà không giọt mồ hôi nào nhỏ ra cả.
“Khuôn mặt tôi thế nào?”
“Như hoang mạc sau trận bão.”
Tôi có một thôi thúc mãnh liệt muốn nói với cô rằng trước vụ tai nạn tôi rất đẹp, nhưng tôi không nói gì. Để làm gì chứ? Và rồi, tôi chạm vào má cô bằng bàn tay lành lặn của mình. Cô không hề lùi lại: không. Không hề lùi lại.
“Có nhiều điều tốt lành đang đến.” Marianne Engel thì thầm, trước khi cô đứng dậy đi tới các góc phòng để nói chuyện với Ba Vị Chủ Nhân vô hình. Có vẻ như, dù bằng tiếng Latin, cô đang xin phép làm gì đó. “Jube, Domine benedicere.”
Khi trở lại bên giường tôi, cô nở nụ cười chứng tỏ lời khẩn cầu của mình đã được chấp nhận. “Anh có muốn xem những hình xăm khác của tôi không?”
Tôi gật đầu, và cô bắt đầu bằng việc túm gọn mớ tóc rối bù của mình rồi búi lên cao để lộ gáy. Một hình thập tự nhỏ được xăm ở đó, là sự kết nối của ba sợi thừng không có điểm dừng. Cô bảo tôi chạm vào nó. Tôi làm theo. Tôi lướt tay theo chiều dài hình xăm, rồi chiều rộng; đóng dấu chữ thập trên da cô.
Cô cởi giày ra. Xung quanh mắt cá chân trái là hình một chuỗi tràng hạt, được xăm sao cho cây thập tự nằm ngang cổ chân cô. Bằng cách này, cô nói, cô sẽ luôn sẵn sàng sám hối. Nhưng cô lại mỉm cười, và rõ ràng cả cô cũng không quá coi trọng vấn đề này.
Tiếp theo, cô cởi quần ra – một hành động tôi hoàn toàn không ngờ tới, vì chẳng hiểu sao phim ảnh đã đóng đinh vào đầu tôi quan niệm phụ nữ luôn cởi đồ từ trên xuống. Cô không mặc đồ lót, nên thứ còn lại trên người cô chỉ là chiếc áo phông hình Beethoven đang say bí tỉ. (Chú thích? “Bản giao hưởng thứ chín của Beethoven.”)
Hình xăm con rắn trải dài hết chân phải của cô, ở đúng chỗ con rồng thêu trên quần. Nó quấn quanh cô, đúng như cách Kinh Thánh thể hiện hình ảnh con rắn quấn quanh thân cây Trí tuệ của Thiện và Ác. Marianne Engel đứng đối diện tôi, và tôi có thể thấy thân con rắn xuất hiện đầu tiên ở đầu gối, bò dần lên và quấn hai vòng quanh đùi cô, với cái đầu hình thoi ngả vào xương chậu của cô, xiên về phía âm đạo.
Mắt cô dán chặt vào tôi. Cô cởi chiếc áo hình Beethoven ra, dù phải vật vã mới kéo được nó ra khỏi đầu, cho tới khi cô trần như nhộng đứng giữa phòng tôi, trừ cái vòng cổ hình đầu mũi tên đang lủng lẳng trên cổ.
Tôi đã có những giây phút bị kích thích trong phòng điều trị bỏng. Maddy đã cố hết sức trêu chọc tôi với cặp mông nhún nhảy của cô, và thỉnh thoảng cô còn ngoẹo cổ lại kiểm tra xem có xi nhê gì không nữa. Nhưng đây là lần đầu tiên tôi thấy mình bị kích thích giới tính một cách trọn vẹn. Về mặt tâm thần, ít nhất cũng là thế; cơ thể tôi vẫn sản xuất hoóc môn dồn máu tạo sự cương cứng. Tôi chỉ không có chỗ cho dòng máu ấy đổ vào thôi. Tôi tưởng tượng máu đang tụ lại chỗ ấy, làm vùng háng của tôi đỏ bừng lên.
Có một hình thập tự nữa, lớn hơn nhiều so với hình xăm trên gáy cô, nằm trên bụng. Nó được xăm theo kiểu chữ thập Celtic, với bốn cạnh tụ lại điểm nút tròn ở trung tâm. Toàn bộ hình thập tự được bao quanh bởi một hình ô van, dài và hẹp, phủ từ đỉnh xương chậu cho tới tận đáy lồng ngực của cô. Ba chữ cái in hoa lớn – “IHS” – được viết ngay chóp đường cong trên của hình ô van.
Trên ngực trái của cô là một hình xăm Trái tim Thiêng liêng lớn, đỏ rực và được bao quanh bởi vòng hoa mão gai. Trái tim bị nuốt chửng trong biển lửa vàng rực bùng cháy, lan tận lên vai cô.
Cô đi về phía giường, để tôi có thể quan sát thân thể đầy hình xăm của cô được rõ hơn, và bảo tôi chạm vào hình xăm tên Chúa. Tôi chạm vào, da gà cô nổi lên dưới bàn tay còn lành lặn của tôi.
Cô quay người lại, ngồi lên mép giường, quay lưng về phía tôi. Đôi cánh thiên thần trải dài từ vai cô cho tới mông, nơi đầu nhọn của chiếc cánh đáp xuống. Đôi cánh phủ kín lưng cô và tôi không thể không giơ tay về phía chúng. Như thể tôi nghĩ mình có quyền chạm vào da cô, như thể tôi có quyền chạm vào vì nó là của tôi. Mất một thoáng tôi mới nhận ra là không phải thế – không thể làm thế được, thế là tay tôi dừng lại giữa không trung. Nó cứ lơ lửng ở đó bối rối một hồi cho tới khi Marianne Engel nói, không hề quay lại: “Tôi muốn anh chạm vào tôi.”
Thế là tôi đi nốt phần còn lại của quãng đường, lướt ngón tay lên những đường nét của hình xăm đôi cánh. Chúng là sự kết hợp hoàn hảo của những nét kim xăm vừa mạnh mẽ vừa rất đỗi tinh tế, chi tiết đến nỗi người ta tưởng là lông thật. Giờ đây lưng của cô đang rung lên, và trái tim tôi cũng vậy.
Một lúc sau, cô ngượng ngùng nhìn tôi qua vai. Cô cười – hồi hộp, phấn khích – và tôi ngừng lại, phá vỡ mối liên kết qua những đầu ngón tay giữa hai người. Cô đứng dậy rồi mặc quần áo vào. Chúng tôi không nói một lời nào. Khi mặc quần áo xong, cô rời khỏi phòng luôn.
Không có tài liệu đủ sức thuyết phục nào chỉ ra đâu là thời điểm tốt nhất để tháo băng cho bệnh nhân bỏng, do việc teo cơ làm cho tình hình không thể tránh khỏi phức tạp. Cuối cùng, bác sĩ Edwards quyết định mạo hiểm chọn ngẫu nhiên một ngày để tháo lũ nhện máy ra khỏi chân tôi.
Việc tháo băng làm Sayuri, vốn luôn nóng lòng kéo tôi ra khỏi giường, sung sướng vô vàn. Cô vỗ tay hai lần trong trạng thái vô cùng phấn khích. “Anh đã sẵn sàng chưa? Anh đã genki(21) chưa? Đã đến lúc rồi!”
Maddy và Beth đứng sẵn sàng giúp đỡ, với đồng phục xanh da trời và đôi găng tay màu vàng to sụ. Họ kéo giãn cơ của tôi trong vài phút trước khi giúp tôi đạp chân để làm giảm sự cứng cơ chân. Rồi mỗi y tá quàng một tay ra sau lưng tôi để đỡ tôi đứng dậy, giữ cho đến khi tôi đỡ chóng mặt. Từng chút một, họ thả lỏng tay ra cho tới khi tự tôi phải chống đỡ sức nặng của chính mình.
Lần đầu tiên từ khi bị tai nạn, tôi đang đứng. Sayuri oang oang đếm giây – “sáu… bảy… tám!” – trước khi chân tôi chuyển từ spaghetti chưa chín thành spaghetti chín. Ngay lập tức, máu dồn xuống người tôi như vừa nhớ ra trọng lực có tác dụng gì và ộc ra khỏi những vùng da bị lóc của tôi. Những dải băng quấn chân tôi nhuốm đỏ, xấu hổ vì sự vô dụng của mình; thời điểm tôi bất tỉnh đã tới.
Cánh phụ nữ đặt tôi trở lại giường và hân hoan với những nỗ lực của tôi. Khi đầu óc tôi đã bình tĩnh lại sau cú nâng thẳng vừa xong, tôi nhìn thấy bác sĩ Edwards đang đứng ở cửa phòng, nụ cười nở trên môi.
Trước khi cố đứng vững, đáng ra tôi sẽ nói – với thái độ trượng phu, hợm hĩnh nhất có thể – là kết quả thế quái nào chẳng được. Đứng là một hành động ngu ngốc mà trẻ con cũng không thèm chơi. Nếu bạn cho phép mình quan tâm đến việc mình đứng được hay không, ai biết bạn sẽ còn quan tâm đến cái gì nữa? Dù không muốn vui vẻ vì những trò vỗ tay reo hò, nhưng tôi thấy chúng có vẻ rất thật. Những người phụ nữ tự hào về tôi và, trái với phán xét có vẻ đúng đắn hơn của mình, tôi cũng tự hào về bản thân mình.
Thay vì phủi sạch thành quả của mình, tôi trở thành một thằng ngốc cười nhăn nhở. Tôi cám ơn mọi người vì đã giúp đỡ và điều duy nhất khiến tôi nuối tiếc là Marianne Engel không ở đó để nhìn thấy những gì tôi làm được.
Tôi hy vọng mình có thể ngủ ngon đêm đó, nhưng không. Giấc ngủ đến cùng cơn ác mộng.
Đêm đó tôi mơ thấy Sayuri dựng tôi dậy rồi đột ngột buông tôi ra. Cơ thể xiêu vẹo của tôi sụp xuống; tôi có thể cảm thấy con rắn ở xương sống cuộn mình lại rồi uốn éo vặn vẹo. NGƯƠI NGHĨ MÌNH CÓ THỂ TỰ ĐỨNG ĐƯỢC SAO? Nan ném phi tiêu về đống đổ nát vô dụng là tôi trong khi các y tá đập tay ăn mừng thất bại của tôi. Tôi nhìn xuống cái giường xương của mình. Lửa cháy, hàng ngàn ngọn nến đang cháy. Tôi muốn vươn tay ra dập tắt chúng nhưng cứ như thể có ai đó đã tháo hết cơ tay của tôi, biến tôi thành một con rối không dây. Lửa hóa thành những khuôn mặt cười giận dữ nhìn tôi và lưỡi lửa chẻ đôi liếm những tấm ga trên chiếc giường xương, khiến chúng trông như những tấm vải liệm cháy bùng bùng. Xương vỡ nát xung quanh tôi, kêu răng rắc giận dữ như một giàn giáo đang sụp đổ.
Nhóm bác sĩ y tá cứ tiếp tục cười. Một trong số họ nói bằng giọng Đức khàn đục: “Alles brennt, wenn die Flamme nur heik genug ist. Die Welt ist nichts als ein Schmelztiegel.” Hình như trong mơ, tôi cũng có khả năng như Marianne Engel trong đời thực: khả năng đa ngôn ngữ. Tất cả mọi thứ sẽ cháy nếu lửa đủ nóng. Thế giới chỉ là một lò lửa đang hừng hực cháy.
Tôi bị mắc kẹt dưới những mảnh xương trong khi tấm vải liệm tiếp tục cháy. Những khuôn mặt trong lửa vẫn giữ nguyên nụ cười đầy căm hờn của chúng, những cái lưỡi phản trắc cứ liếm, liếm, liếm. TA ĐANG TỚI ĐÂY VÀ NGƯƠI CHẲNG THỂ CẢN ĐƯỢC ĐÂU. Tôi nghe tiếng những mũi tên rít trong gió. Tôi cảm thấy chúng cắm ngập vào tay tôi, tôi cảm thấy chúng cắm ngập vào chân tôi.
Tôi đã mơ một giấc mơ dài về lửa cháy, khi cuối cùng cơn ác mộng cũng kết thúc và tôi tỉnh lại, sự bồng bềnh của chiếc giường hơi làm tôi bối rối. Phải mất một lúc tôi mới chắc chắn mình đang mơ hay tỉnh.
Tôi kể với Marianne Engel về việc đứng được tám giây trong ngày đầu tiên cố gắng, và đứng được những mười ba giây vào ngày thứ hai. Cô cố gắng tỏ ra thán phục đúng cách đối với những thành tựu của tôi, nhưng hiển nhiên là cô đang bị rối trí vì chuyện gì đó.
“Có chuyện gì vậy?”
“Hả? Không, không, không có gì cả.” Cô chạm tay lên cái u nằm thù lù, đang lớn lên từng ngày, trên vai tôi. “Cái gì thế?”
“Cái này gọi là giãn mô.”
Tôi giải thích với cô là dưới da tôi có một quả bóng hơi nhỏ làm bằng silicone, và hằng ngày các bác sĩ tiêm thêm một chút muối vào đó. Khi quả bóng hơi phình ra thì da tôi cũng giãn theo, giống như khi người ta tăng cân ấy. Cuối cùng, quả bóng hơi bị hút cạn và tôi sẽ được thêm một mảnh da nữa, mảnh da ấy sẽ được cấy từ vai tôi xuống một điểm nhận nào đó trên cổ.
“Thật tuyệt, ước gì trong lần đầu tiên tôi có thể làm điều tương tự cho anh.”
“Cái gì cơ?”
“Đừng bận tâm.” Cô chạm vào chỗ u lần nữa, rồi mỉm cười. “Anh biết không, sự phát triển đó làm tôi nghĩ đến những đinh nhọt do Dịch hạch Đen gây ra.”
“Cái gì?”
“Tôi có người bạn…” Cô dần nín bặt như thể đã đánh mất suy nghĩ của mình trong không trung. Cô ngồi đó vài phút, nhìn đăm đăm vào khoảng không, nhưng thay vì ngồi yên, tay cô vung vẩy còn nhiều hơn lúc nghịch điếu thuốc chưa hút hay chạm vào cái vòng cổ. Trông chúng như muốn xòe ra và tiết lộ câu chuyện cô đang giấu giếm tôi.
Cuối cùng, cô hất đầu về phía chiếc bàn đầu giường tôi. Trên đó là chồng sách tâm lý học mà cô đã luôn kìm nén để không hỏi gì về chúng. “Anh đang tìm hiểu tôi,” cô nói. “Liệu tôi có nên thuê vài bộ phim khiêu dâm của anh để hiểu anh rõ hơn không?”
Điều này – dù tôi nghĩ sẽ không nói thẳng ra với cô dưới bất cứ hình thức nào – là điều mà tôi không bao giờ muốn cô làm. Tôi bắt cô hứa không bao giờ được xem bất kỳ bộ phim nào của tôi cả.
“Tôi đã nói với anh là tôi không quan tâm rồi mà,” cô nói. “Anh thấy xấu hổ à?”
Tôi bảo đảm với cô là tôi chả xấu hổ gì đâu; tôi chỉ không muốn cô xem chúng thôi. Đó là sự thật, nhưng không phải tất cả: tôi không muốn cô xem chúng bởi vì tôi không muốn cô biết một tôi trước đây, rồi đem so sánh với tôi bây giờ. Tôi không muốn cô nhìn thấy vẻ đẹp của tôi, làn da mềm mại của tôi, thân hình cường tráng của tôi, và rồi lại phải nhìn lên cái thứ kinh tởm đang nằm trên chiếc giường trước mặt cô. Tôi nhận ra điều này rất vô lý, và dĩ nhiên cô cũng biết tôi từng có thời không bị bỏng, nhưng tôi không muốn điều đó trở nên thực tế với cô hơn nữa. Nếu cô có thể chấp nhận tôi như thế này, có lẽ chỉ vì cô không có gì để so sánh cả.
Marianne Engel đi về phía cửa sổ và nhìn chằm chằm ra ngoài trong giây lát, trước khi quay lại buột miệng: “Tôi ghét phải rời xa anh, và tôi muốn luôn được ở bên giường anh. Tôi cần anh hiểu là khi tôi nhận chỉ thị thì điều đó hoàn toàn nằm ngoài khả năng của tôi.”
Đây là một trong những lúc hiếm hoi tôi hiểu được chính xác cô đang nghĩ gì: cô có một bí mật muốn chia sẻ, nhưng biết rằng đó là loại bí mật mà hầu hết mọi người không hiểu được. Bật mí là một vấn đề sống còn nhưng cô lại luôn lo rằng điều đó quái dị đến độ khó có thể nói ra. Chẳng hạn giống như khi giải thích rằng có một con rắn ký sinh trong xương sống của bạn ấy.
“Khi chuẩn bị làm việc,” Marianne Engel bắt đầu, hít thật sâu, “tôi thường ngủ trên đá trong ít nhất mười hai tiếng đồng hồ, nhưng thường là lâu hơn. Đó là công đoạn chuẩn bị. Khi nằm trên một tảng đá, tôi có thể cảm nhận được nó. Tôi có thể cảm nhận được tất cả những gì thuộc về nó, mọi thứ bên trong. Nó rất… ấm áp. Cơ thể tôi chìm vào những đường nét của nó rồi tôi cảm thấy mình không trọng lượng, như đang trôi vậy. Tôi gần như… mất khả năng cử động. Nhưng điều đó thật tuyệt vời; nó hoàn toàn trái ngược với sự tê liệt. Nó giống như sự thức tỉnh, siêu thức tỉnh, đến nỗi tôi không thể cử động vì cảm giác ấy đã hoàn toàn lấn át.”
“Cô có ý gì khi nói mình có thể cảm nhận được những gì bên trong tảng đá?” tôi hỏi.
“Tôi thu nhận những giấc mơ của tảng đá, và những con gargoyle trong đó nói cho tôi biết những gì tôi cần làm để giải thoát chúng. Chúng cho tôi nhìn mặt và chỉ cho tôi cách biến chúng trở nên trọn vẹn. Khi đã có đủ thông tin, tôi liền bắt tay vào làm. Cơ thể tôi tỉnh táo, nhưng tôi không có ý niệm gì về thời gian, không có gì trừ công việc. Nhiều ngày trôi qua tôi mới nhận ra mình không hề ngủ và cũng gần như không ăn gì. Như thể tôi đang cố đào một nạn nhân sống sót ra khỏi trận tuyết lở của thời gian đã tích tụ qua hàng thế kỷ rồi bất ngờ đổ ập xuống núi cùng một lúc. Những con gargoyle vẫn luôn ở trong tảng đá nhưng, chính giây phút này, chúng không thể chịu nổi việc phải ở lại thêm chút nào nữa. Chúng đã ngủ vùi cả mùa đông trong tảng đá, và cái đục trong tay tôi mang mùa xuân đến. Nếu tôi đục đúng chỗ thì những gargoyle sẽ hiện ra như những bông hoa bừng nở trên bờ sông lởm chởm đá. Tôi là người duy nhất có thể làm điều đó, vì tôi hiểu ngôn ngữ của chúng và cũng là người duy nhất có thể trao cho chúng những trái tim cần thiết để bắt đầu cuộc đời mới.”
Cô ngừng lại, dường như đợi tôi nói gì đó, bất cứ điều gì – nhưng người ta làm sao có thể đáp lại những lời tuyên bố như thế chứ? Vì cô muốn một câu trả lời nhanh gọn và tôi cũng muốn cô tiếp tục nói, nên tôi đã nói rằng đó có vẻ là một quá trình cực kỳ sáng tạo.
“Không, ngược lại là đằng khác. Tôi là một cái ống dẫn cho nước chảy ra chảy vào. Đó là một vòng tròn, một vòng tròn nước cuộn chảy giữa Chúa, những con gargoyle và tôi, vì đó chính là Chúa – một vòng tròn mà tâm ở khắp mọi nơi và chu vi thì không xác định. Và trong suốt thời gian tôi đục đẽo, giọng của gargoyle ngày càng to hơn. Tôi làm nhanh hết mức vì tôi muốn giọng nói đó dừng lại, nhưng nó cứ thúc giục tôi, đòi tôi giúp nó được tự do. Tiếng nói chỉ câm lặng khi tôi hoàn thành, và rồi tôi kiệt sức tới mức đến lượt tôi chìm vào giấc ngủ. Đó là lý do tôi mất hút năm, sáu ngày liền. Phải mất ngần ấy thời gian để giải phóng gargoyle và để tôi có thể hồi phục. Tôi không thể quyết định lúc nào một gargoyle sẵn sàng sinh ra và tôi cũng không thể từ chối nguyện vọng của nó. Vì thế hãy tha thứ cho tôi những khi tôi không xuất hiện, vì tôi không có sự lựa chọn nào khác.”
Ừm, được rồi. Ít nhất bây giờ tôi cũng biết cô làm gì với những trái tim mà cô nghĩ là đang ở trong ngực mình. Chúng sẽ nằm trong những bức tượng cô tạc.
Tôi đã từng chắc chắn rằng Marianne Engel bị tâm thần phân liệt, nhưng căn cứ vào thói quen làm việc của cô thì giờ tôi phải tính đến khả năng cô có thể bị khủng hoảng tinh thần. Mọi bằng chứng đều dẫn đến hướng đó: khi tôi gặp cô lần đầu, trông cô mệt mỏi và vận toàn đồ đen; giờ cô thật rạng rỡ trong cả cách ăn mặc và tính cách. Những người bị tâm thần phân liệt thường có xu hướng lảng tránh các cuộc trò chuyện, thỉnh thoảng còn ngồi yên hàng giờ liền, nhưng Marianne Engel lại hoàn toàn trái ngược. Và còn bản chất công việc của cô nữa. Rất nhiều nạn nhân khủng hoảng tinh thần trở nên nổi tiếng trong lĩnh vực nghệ thuật vì chính tình trạng bệnh lý của họ đã thắp lên ngọn lửa nhiệt tình cần thiết để sáng tạo ra những kiệt tác. Đây, dĩ nhiên, chính là việc Marianne Engel đang làm: sáng tạo tượng đài. Nếu những thói quen chạm khắc của cô không phải đặc điểm của một người loạn thần kinh, tôi cũng chẳng tưởng tượng được đó là cái quái gì nữa.
Nhưng cũng có rất nhiều bằng chứng về bệnh tâm thần phân liệt. Cô miêu tả những tiếng nói phát ra từ tảng đá, trao cho cô những chỉ dẫn. Cô coi bản thân mình là sợi dây kết nối với các đấng thần linh, và sản phẩm của cô là quỹ đạo trao đổi thông tin giữa Chúa, những gargoyle và bản thân cô. Chưa kể đến cái “quá khứ” ở Engelthal và niềm tin Địa ngục là một ấn phẩm văn hóa thích hợp cho phòng điều trị bỏng nữa. Tóm lại, hiếm có sự kiện nào trong đời cô mà không động chạm cách này hay cách khác đến Thiên Chúa giáo và, như đã nói từ trước, những người mắc chứng tâm thần phân liệt thường bị ám ảnh bởi các vấn đề tôn giáo.
Thống kê cũng đưa ra một dấu hiệu bệnh lý nữa. Bệnh tâm thần phân liệt hay gặp ở nam giới hơn nữ giới, nhưng hơn tám mươi phần trăm bệnh nhân tâm thần phân liệt nghiện thuốc lá nặng, và Marianne Engel thường xuyên nhảy khỏi phòng bỏng để hít chút nicotine. Và trong khi đang nói chuyện với tôi, mắt cô luôn bồn chồn, ánh nhìn cứ luôn khóa chặt lấy mắt tôi: điều này chỉ bắt đầu có ý nghĩa sau khi tôi đọc một cuốn sách của Gregor nói rằng những bệnh nhân tâm thần phân liệt rất hiếm khi chớp mắt.
Từ chối điều trị là tình trạng chung của cả hai bệnh lý, nhưng với những lý do khác nhau. Một người khủng hoảng tinh thần có thể từ chối dùng thuốc vì khi dùng liều cao thì cô ấy tin rằng không cần phải dùng liều thấp nữa, hoặc cô ấy đã quá nghiện liều cao đến nỗi liều thấp chỉ đơn giản là cái giá phải trả. Những người tâm thần phân liệt, mặt khác, lại có xu hướng từ chối dùng thuốc vì họ tin mình đang bị đầu độc – lời tuyên bố Marianne Engel đã đưa ra không chỉ một lần.
Giờ đây rất nhiều bác sĩ nghiêng theo giả thuyết là cả hai tình trạng bệnh lý này cùng song song tồn tại thường xuyên hơn nhiều so với những chẩn đoán thông thường, vì thế có thể người ta sẽ áp dụng cả hai chẩn đoán một lúc.
Cùng lúc lật các trang sách về sức khỏe tâm thần để hiểu cô rõ hơn, tôi càng ngày càng hiểu rõ bản thân mình, và tôi cũng không hoàn toàn thoải mái với những gì đọc được.
Tôi luôn so sánh mất mát của cô với mất mát của tôi, tự nhủ rằng cô không thể nào hiểu được nỗi đau thể xác của tôi trong khi tôi thực sự có thể hiểu được bản chất nỗi đau tinh thần của cô. Và trong khi rất nhiều chứng bệnh thần kinh có thể chữa khỏi nếu được điều trị đúng cách thì chẳng có một viên thuốc nào có thể khiến tôi trở lại bình thường. Một người điên điên dở dở vẫn có thể hòa mình vào đám đông nhưng tôi sẽ luôn luôn nổi bật với tư cách là một ngón tay cái cháy dở nhô lên khỏi nắm đấm loài người; điều này làm tôi có cảm giác mình là kẻ chiến thắng trong một cuộc thi không hề tồn tại.
Ngày hôm sau Marianne Engel xuất hiện trong bộ váy trắng giản dị với xăng đan hở ngón, nhìn cô người ta có thể lầm tưởng là một phụ nữ đến từ làng chài bên bờ Địa Trung Hải. Cô mang tới hai giỏ thức ăn, một trắng một xanh da trời, và tôi có thể nói chúng nặng đến thế nào theo cách cô khệ nệ xách vào phòng. Cúi người xuống, cái đầu mũi tên trên vòng cổ của cô nảy ra nảy vào trong cổ áo hình chữ V như miếng mồi gắn trên dây câu. “Cuối cùng tôi cũng có thể thực hiện được lời hứa là sẽ cho anh ăn rồi.”
Tôi sẽ giải thích một chút về việc bác sĩ Edwards cho phép khách thăm bệnh mang đồ ăn vào phòng điều trị bỏng. Ngoài lợi ích tinh thần của một buổi picnic (nó là thế mà), còn có cả lợi ích thể chất nữa. Cùng với việc sức khỏe khá lên, cơ thể tôi đã xảy ra tình trạng gọi là tăng chuyển hóa: một cơ thể bình thường chỉ cần hai nghìn calo một ngày thì sau một vụ bỏng nặng có thể tiêu thụ đến bảy nghìn calo. Dù các ống thông mũi họng hằng ngày vẫn cung cấp chất dinh dưỡng vào thẳng dạ dày nhưng thế vẫn chưa đủ cho tôi và tôi đã được phép, thậm chí còn được khuyến khích, ăn thêm thức ăn ngoài.
Trước đây Marianne Engel cũng đã mang đồ ăn nhẹ đến cho tôi, nhưng rõ ràng bữa ăn hôm nay thịnh soạn hơn rất nhiều. Cô mở hai cái giỏ ra – một đựng đồ nóng còn một chất đầy đá để làm lạnh – và bắt đầu bày thức ăn ra. Có một cái bánh mì focaccia tròn mới nướng, vẫn còn vương mùi củi cháy, một chai dầu ô liu và giấm balsamic. Cô phết một lớp màu đen lên trên mặt chất màu vàng rồi nhúng một mẩu bánh focaccia vào hỗn hợp chất lỏng lốm đốm đó. Cô đọc câu kinh quen thuộc trước khi nâng miếng bánh bỏ vào miệng tôi: “Jube, Domine benedicere.”
Cô cũng mang cả pho mát nữa: Camembert, Gouda, pho mát xanh, pho mát sữa dê Iran. Cô hỏi tôi thích loại nào và khi tôi chọn loại làm từ sữa dê, cô toét miệng cười. Tiếp, vài cái bánh bốc khói trong giấy gói trông giống như bánh kếp nhưng mùi thì kinh không chịu nổi. Bánh ngọt Gordonzola không phải ai cũng ăn được, cô giải thích, nhưng cô mong là tôi sẽ thích nó. Tôi thích thật. Những miếng dưa lưới tròn nằm ngoan ngoãn giữa những lát thịt muối prosciutto mỏng dính, sắc vàng mọng nước lấp ló qua màu đỏ của thịt.
Cô tiếp tục khai phá hai cái giỏ. Những quả ô liu xanh mọng đến chói mắt, bị nhồi ớt ngọt đến căng tròn, nằm ườn thỏa mãn trong một cái tô vàng. Một đĩa đầy cà chua tẩm giấm đen với pho mát bocconcini tròn trắng như tuyết. Hàng ổ bánh mì pita và những chiếc chén tràn đầy món khai vị hummus và xốt tzatziki. Hàu, cua, sò điệp chìm đắm trong một cái chết êm ái giữa biển nước xốt marinara; những lát chanh nhỏ đứng thăng bằng trên rìa đĩa như những chiếc phao cứu sinh đang chờ được ném xuống. Xúc xích lợn rắc hạt tiêu đen. Những miếng chả lá nho, cố ra vẻ phong trần nam tính trong bộ com lê nhỏ xinh màu xanh, được ướp thơm bằng rượu vang đỏ. Những khoanh mực ống dày dặn. Thịt soulvaki được nướng xiên cùng những củ hành phết bơ ngọt ngào và hạt tiêu om. Một miếng thịt cừu vai nấu kỹ đến nỗi nó sẽ rời ra nếu bạn chỉ cần vừa nhìn nó vừa nghĩ đến cái nĩa vây quanh là gia đình khoai tây nướng nhỏ bé mà hạnh phúc.
Tôi ngồi như bị mắc kẹt giữa ngồn ngộn thức ăn, không dám cử động vì sợ sẽ hất đổ một cái đĩa nào đó. “Chúng ta không thể nào ăn hết chỗ này được.”
“Hết hay không không phải vấn đề.” Cô lấy một cái chai ra khỏi giỏ lạnh. “Hơn nữa, tôi chắc chắn các nữ y tá sẽ rất vui vẻ giúp đỡ chúng ta xử lý chỗ còn lại. Anh sẽ không nói với họ là tôi uống rượu chứ, nhỉ? Tôi thích rượu nho Hy Lạp vì có thể nếm được cả vị đất trong đó.”
Mấy cô y tá nhanh chóng đứng lố nhố quanh cửa như một bầy chim hải âu háu đói. Tôi có một cảm giác hãnh diện kỳ lạ rất đàn ông, cái cảm giác ta có được khi bị bắt gặp đang hẹn hò với một phụ nữ xinh đẹp. Đám y tá cười rúc rích và bình phẩm vài câu trước khi bỏ đi trực ca. Marianne Engel đưa từng miếng nhỏ vào miệng tôi. “Thử cái này đi… Anh sẽ rất thích. Nữa nhé.”
Chúng tôi rất nỗ lực, nhưng số phận đã định sẵn là chúng tôi không bao giờ có thể ăn hết được. Khi chúng tôi cuối cùng cũng chịu thua, cô mang ra một cái bình giữ nhiệt bằng kim loại mỏng và đổ cà phê Hy Lạp vào hai tách nhỏ. Cà phê đặc quánh đến mức mất đến ba mươi giây mới đổ xong. Rồi cô mang món tráng miệng ra: bánh baklava phết mật ong dày đến nỗi trào cả ra ngoài như một tổ ong đang làm từ thiện. Kem gelato ba màu, xanh trắng đỏ. Và dĩ nhiên cả món bougatsa, cảm hứng cho tên con chó của cô – bánh ngọt nâu nhạt với kem trứng phết giữa những lớp bánh phyllo.
“Anh có thích nghe một câu chuyện không?” Marianne Engel nói. “Nó kể về tình yêu đích thực, tình anh em sâu nặng và những mũi tên tìm được đến đích.”
“Lại về cô nữa à?”
“Không, đó là câu chuyện về người bạn tốt Francesco Corselini của tôi.”
Chú thích
(20) Paracelsus (1493-1541) là nhà vật lý học, thực vật học, giả kim, thiên văn học và huyền bí học thời Phục hưng.
(21) Genki: khoẻ (tiếng Nhật).