Ngày xưa có một ông vua sai một viên quan đi dò la khắp nước tìm người tài giỏi. Viên quan ấy đã đi nhiều nơi, đến đâu cũng đưa ra những câu đố oái oăm để hút mọi người, nhưng tuy mất nhiều công mà chưa thấy có người nào thật lỗi lạc.
Một hôm, viên quan đi qua một cánh đồng làng kia, chợt thấy bên vệ đường có hai cha con nhà nọ đang làm ruộng: cha đánh trâu cày, con đập đất. Ông bèn dừng ngựa lại hỏi:
– Này ông lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?
Người cha đứng ngẩn ra chưa biết trả lời thế nào thì đứa con chừng bảy tám tuổi nhanh miệng hỏi vặn lại quan rằng:
– Thế xin hỏi ông câu này đã. Nếu ông trả lời được ngựa của ông đi một ngày được mấy bước, tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường.
Viên quan nghe hỏi lại như thế thì há hốc mồm sửng sốt, không biết đáp sao cho ổn. Ông thầm nghĩ bụng nhất định nhân tài ở đây rồi, chả phải tìm đâu nữa mất công. Quan bèn hỏi tên họ làng xã quê quán của hai cha con rồi phi ngựa một mạch về tâu vua.
Nghe nói, vua lấy làm mừng lắm. Nhưng để biết đích xác hơn nữa, vua bèn sai ban cho làng ấy ba thúng gạo nếp vài ba con trâu đực, ra lệnh phải nuôi làm sao cho ba con trâu ấy đẻ thành chín con, hẹn năm sau đem nộp đủ, nếu không thì cả làng phải tội.
Khi dân làng nhận được lệnh vua ai ấy đều tưng hửng và lo lắng, không thể hiểu thế là thế nào. Bao nhiêu cuộc họp làng, bao nhiêu lời bàn tán, vẫn không nghĩ ra được cách gì giải quyết cả. Từ trên xuống dưới mọi người đều coi là một tai vạ. Việc đến tai em bé con người thợ cày. Em liền bảo cha:
– Chả mấy khi được lộc vua ban, bố cứ thưa với làng ngả thịt hai trâu và đồ hai thúng gạo nếp để mọi người ăn một trận cho sướng miệng. Còn một trâu và một thúng gạo, ta sẽ xin làng làm phí tổn cho bố con ta trẩy kinh lo liệu việc đó.
– Đã ăn thịt còn lo liệu thế nào? Mày đừng có làm dại mà bay đầu đi đó con ạ!
Nhưng đứa con quả quyết:
– Cha cứ mặc con lo liệu, thế nào cũng xong xuôi.
Người cha vội ra đình trình bày câu chuyện. Cả làng nghe nói vẫn còn ngờ vực, bắt cha con phải làm giấy cam đoan, mới dám ngả trâu đánh chén.
Sau đó mấy hôm, hai cha con khăn gói tìm đường tiến kinh. Đến hoàng cung, con bảo cha đứng đợi ở ngoài, còn mình thì nhân lúc mấy tên lính canh vô ý, lẻn vào sân rồng khóc um lên. Vua sai lính điệu vào phán hỏi: – “Thằng bé kia mày có việc gì? Sao lại đến đây mà khóc?”. – “Tâu đức vua – em bé vờ vĩnh đáp – mẹ con chết sớm mà cha con thì không chịu đẻ em bé để chơi với con cho có bạn, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ”.
Nghe nói, vua và các triều thần đều bật cười. Vua lại phán:
– Mày muốn có em thì phải kiếm vợ khác cho bố mày, chứ bố mày là giống đực làm sao mà đẻ được!
Em bé bỗng tươi tỉnh:
– Thế sao làng chúng con lại có lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được kia chứ!
Vua cười bảo:
– Ta thử đấy thôi mà? Thế làng chúng mày không biết đem trâu ấy ra ngả thịt mà ăn với nhau à?
– Tâu đức vua, làng chúng con sau khi nhận được trâu và gạo nếp biết là lộc của đức vua, cho nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi.
Vua và đình thần chịu thằng bé là thông minh lỗi lạc[1], nhưng vua vẫn còn muốn thử cho đến cùng. Qua hôm sau, khi hai cha con đang ăn cơm ở nhà công quán, bỗng có sứ nhà vua mang tới một con chim sẻ và lệnh chỉ bắt họ phải dọn thành ba cỗ thức ăn. Em bé bảo cha lấy cho mình một cái kim may rồi đưa cho sứ giả, bảo:
– Ông cầm lấy cái này về tâu đức vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt chim.
Vua nghe nói, từ đó mới phục hẳn.
Lập tức vua cho gọi cả cha con vào ban thưởng rất hậu.
*
Hồi đó, có một nước láng giềng lăm le muốn chiếm bờ cõi của nhà vua. Để dò xem bên này có nhân tài hay không, họ mới sai sứ đưa sang một cái vỏ con ốc vặn rất dài, rỗng hai đầu, đố làm sao xâu một sợi chỉ mảnh xuyên qua đường ruột ốc.
Sau khi nghe sứ thần trình bày mục đích cuộc đi sứ, vua quan đưa mắt nhìn nhau. Không trả lời được câu đố oái oăm ấy tức là tỏ ra thua kém và phải thừa nhận sự lép vế của mình đối với nước láng giềng. Các đại thần đều vò đầu suy nghĩ. Có người dùng miệng hút mong cho sợi chỉ lọt qua, có người bôi sáp vào sợi chỉ cho cứng để cho dễ xâu. v.v… nhưng tất cả mọi cách đều vô hiệu. Bao nhiêu các ông trạng, các nhà thông thái triệu vào đều lắc đầu bó tay. Cuối cùng, triều đình đành tìm cách mời sứ thần tạm nghỉ ở công quán để có thì giờ đi hỏi ý kiến em bé thông minh ngày nọ.
Một viên quan mang dụ chỉ của vua đến nhà em bé vào lúc em còn đùa nghịch ở sau nhà. Nghe quan trình bày ngọn ngành câu đố của sứ giả ngoại quốc, em bé không đáp, chỉ hát lên một câu:
Tang tính tang! Tính tình tang!
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng,
Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang
Tang tình tang…
Rồi bảo: – Không cần tôi phải về triều làm gì. Cứ theo cách đó là xâu được ngay!”.
Viên quan sung sướng lật đật trở về tâu vua. Vua và các triều thần nghe nói như mở cờ trong bụng. Quả nhiên con kiến càng đã xâu được sợi chỉ xuyên qua đường ruột ốc hộ cho nhà vua trước con mắt kính phục của sứ giả nước láng giềng.
Rồi đó, vua phong cho em bé làm trạng nguyên. Vua sai xây dinh thự ở một bên hoàng cung cho em ở để tiện hỏi han[2].
KHẢO DỊ
Trong truyện Trạng Quỳnh của ta cũng có đoạn kể chuyện nuôi dê đực chửa và việc Trạng Quỳnh đối đáp với vua Lê y như đoạn đầu của truyện Em bé thông minh[3]. Truyện Thơ-mênh Chây của người Khơ-me (Khmer) cũng có một vài chi tiết tương tự, như đoạn vua bắt dọn ba mâm cỗ với một con chim.
Loại truyện có chủ đề em bé thông minh cũng là loại truyện phổ biến của một số đông dân tộc. Dưới đây, kể sơ lược vài truyện tiêu biểu:
Một là truyện Trạng của đồng bào Cham-pa:
Một ông vua chỉ sinh có một nàng công chúa, ra lệnh cho các quan đi tìm người tài giỏi để kén làm phò mã. Cũng như truyện của ta, gặp một người cày ruộng, quan hỏi: – “Từ sáng tới giờ được bao nhiêu đường cày?”. Người ấy không trả lời được bị quan đánh, rồi đi. Con người cày ruộng biết chuyện vội đuổi theo quan, hỏt vặn lại: – “Từ lúc ra đi đến nay các quan đã qua bao nhiêu làng, bao nhiêu cánh đồng và gặp bao nhiêu người?”, – “Ngựa quan phi được bao nhiêu nước đại, nước tiểu?”. Các quan không không trả lời được, bị em bé đánh trả.
Các quan về tâu vua, vua sai bắt em ấy phải nộp một sợi dây bằng tro dài 20 sải, “nếu không có thì chém ba họ”. Em bé bảo mẹ bện rơm thành dây khoanh vào chum cho thò hai đầu dây ra ngoài đốt cháy tất cả rồi mang đến cho vua. Vua lại sai đưa một con chim én cho em, bảo dọn mười món khác nhau mỗi món một đĩa. Em bé bảo mẹ đưa tới cho vua một cái kim nhỏ nhờ đánh cho một cây dao làm thịt chim.
Vua phục tài nhưng còn thử nữa. Từ đây trở xuống truyện khác với truyện của ta. Ví dụ vua bảo làm một bánh biết nói. Em bé bèn nằm khoanh trên mâm, úp lồng bàn lại ngoài dán giấy, bảo mẹ bưng lên cho vua. Hay là vua đố: – “Gai cam không ai vót mà sao lại nhọn?”. Em bé hỏi lại. – “Cây chuối không ai bào mà sao lại trơn?”. Tiếp đó vua bắt một con chim bỏ vào tay hỏi: – “Đố ngươi, ta muốn nắm con chim hay là thả?”. Em chạy đến ngưỡng cửa, hỏi lại: – “Đố bệ hạ tôi muốn vào hay ra?”. Vua ép lấy công chúa nhưng em không lấy, phải thả cho về.
Phần cuối, ngoài những lời đối đáp mưu trí khác của Trạng chọi lại những cuộc đố của vua và đại thần còn có việc Trạng đi tìm vợ. v.v… Trong phần này có chỗ giống với truyện Con vợ khôn lấy thằng chồng dại, như bông hoa lài cắm bãi cứt trâu và truyện Người đàn bà bị vu oan (xem Khảo dị truyện số 47 và 109)
Người Nùng cũng có một truyện Chiếc áo lông chim giống với cả hai truyện Ai mua hành tôi và Em bé thông minh của ta. Ở đây thông minh không phải là một em bé mà là người vợ đẹp của một anh nông dân. Anh có bức chân dung của vợ hàng ngày mang đi theo để ngắm. Một hôm bức chân dung bị gió bay mất, một tên chúa nhặt được đưa lên cho vua. Cả triều đình họp nhau để bàn cách chiếm lấy người đàn bà đẹp vẽ trong đó. Vua phái quan hỏi anh nông dân đang cày: – “Cày được bao nhiêu luống, không trả lời được thì phải nộp vợ, v.v…”. Vợ anh gà cho anh hỏi lại quan. – “Ngựa ông chạy được bao nhiêu bước?”. Vua lại ra lệnh phải sơn đen ba quả đồi. Vợ anh bảo anh đốt cháy trụi cây cối ba quả đồi đó. Vua lại ra lệnh xe một sợi dây bằng kiến. Vợ anh bảo bôi mật cho kiến bâu đầy dây. Vua lại ra lệnh bện một sợi dây thừng bằng tro. Vợ anh lấy giẻ bện giây đặt lên đá rồi đốt cháy.
Vua không đố nữa, sai lính bắt cóc người đàn bà về cung. Từ đây truyện chuyển hướng. Trước khi đi, vợ giao cho chồng lúa và táo tiên dặn trỉa lúa và trồng táo. Khi nào thu hoạch lúa đem cho chim ăn rồi xin mỗi con một cái lông làm thành một cái áo rồi gánh táo đi bán. Chồng làm theo lời, mặc áo lông chim và gánh táo đến cung vua. Người đàn bà đang câm bỗng nói được vì nghe tiếng rao của chồng. Vua cho gọi vào, và nghe lời người bán táo, vua đổi áo mình lấy cái áo lông chim mặc vào định bụng làm cho người đàn bà vui cười nhưng chó dữ trong cung tưởng ai lạ xông ra cắn chết[4].
Người Tày cũng kể như trên nhưng có thêm một đoạn đầu có mô-típ giống với truyện Tú Uyên (số 118, tập III).
Một anh chàng nhà nghèo thường đi làm thuê kiếm ăn. Anh có con chó khôn đi theo chủ khi làm việc. Một hôm chó bới ở bụi, anh tới nhìn thấy một quả trứng lạ, bèn đem về bỏ vào chĩnh. Từ đấy mỗi khi đi làm về lại thấy có cơm canh sẵn sàng. Một hôm lén về rình, anh bắt gặp một cô gái từ quả trứng chui ra làm công việc nội trợ. Anh ném vỡ chĩnh và trứng làm cho cô gái không có chỗ biến hình. Cô gái từ đấy là vợ anh, sau khi cho cô nuốt đũa cả và đũa con để làm xương, v.v… gọi là nàng Kháy (Kháy = trứng). Thấy vợ đẹp, anh cũng bỏ công ăn việc làm, vợ phải vẽ chân dung như truyện trên.
Về đoạn kết, ở đây vợ ra đi giao cho anh không phải táo mà là hạt giống cam và cũng dặn làm áo lông chim lông thú rồi gánh cam đến cung vua. Anh làm theo. Con chó theo anh và nhờ có chó anh mới vượt được sông rộng. Nhưng khi đến bờ bên kia thì chó tắt thở vì mệt quá. Lại đến lượt một đàn ong từ miệng chó bay ra đưa anh đi. Nhờ có ong báo tin, nàng Kháy biết chồng tới, từ đấy mới mở miệng nói cười. Trước đó vua đã cho nàng một thanh gươm và cho phép được giết ai tùy ý; khi vua thay đổi áo mũ cho người bán cam thì lập tức nàng Kháy ra lệnh chém chết.
Người Tày còn có truyện Lai lịch ông Sấm:
Xưa có một người đàn bà đẻ ra một người con trai không tay chân, toan bỏ cho chết, nhưng người làng bảo cứ nuôi. Đứa bé rất thông minh. Một hôm bố đi bừa về bảo con: – “Có một vị thần hỏi mỗi ngày bừa được bao nhiêu đường, bố không biết làm sao mà trả lời” – “Ông ta còn đấy nữa không?”, con hỏi – “Đi rồi” – “Nếu có đến hỏi nữa thì gọi con ngay”. Mai thần lại đến hỏi như trước. Hôm sau nữa, bố mang con theo, thần lại đến hỏi, con đáp: – “Tôi hỏi ông thế này nếu ông trả lời được thì tôi sẽ trả lời câu hỏi của ông: Tại sao trời không cho tôi làm đất, đá, cỏ, cây, mà lại bắt làm một người không tay không chân, thế thì tôi làm sao mà sống? Ai nuôi tôi?”. Thần ta không trả lời được, bèn bay về kể chuyện ấy với Trời. Trời bảo thần đưa đứa bé lên xem.
Đến nơi, Trời sai lấy khuôn dân bỏ dứa bé vào đúc, khi tháo khuôn thì thiếu mất chân. Lại bỏ vào khuôn quan thì thấy mất đầu. Lại bỏ vào khuôn vua thì thiếu tay. Trời bực mình bảo mang loại khuôn riêng của Trời ra đúc. Lần này thì thành công nhưng đứa bé bây giờ lại có quyền phép như Trời. Nó mới đuổi Trời đi chiếm lấy ngai vàng. Từ độ ấy, ông Trời cũ phiêu bạt đó đây.
Nhưng ông Trời mới vụng về không biết cách cai quản trần gian, nên mưa nắng nóng rét không phải thì, làm cho hạ giới mất mùa. Trời cũ thấy vậy giận, giẫm chân quát: – “Cái thằng không tay không chân không biếtt cách cai quản làm tội dân!”. Mỗi lần như thế hạ giới thấy có đá rơi và có tiếng sấm sét. Từ đó mới có ông Sấm[5].
Hai là truyện của đồng bào Ba-na (Bahnar) nhan đề là Vua Rơ, anh Hơ-rít và con thỏ. Vua Rơ thấy con bò cái nhà Hơ-rít đẻ được một con bê rất đẹp, mới manh tâm chiếm đoạt. Vua bắt lấy bê bảo là do bò đực của mình đẻ ra. Thỏ giúp Hơ-rít lấy lại bê, bèn kiếm mủ cây “rơ nghiêng” bôi vào áo rồi đến nhà vua Rơ, nói “cha tôi mới đẻ em bé tối hôm qua thành ra mất ngủ”. Thấy vua Rơ nói trên đời không thể có giống đực đẻ được, thỏ mới vặn lại: – “Sao bò đực nhà vua lại đẻ được bê?”. Vua Rơ cứng họng phải trả bê cho Hơ-rít, nhưng hắn bắt Hơ-rít mang chó đến đấu với chó mình, nếu thua thì phải làm tội. Chó vua Rơ chết. Lại bảo mang lợn đến đấu, lợn vua Rơ cũng chết. Đến lượt bò cũng thế. Vun Rơ tức giận bắt voi mình ra đấu với bò. Bò chết nhưng voi cũng không sống được. Trước khi chết, bò bảo chủ đem một nửa xác của mình bỏ xuống nước, một nửa bỏ lên núi và sau đó cả hai nửa con bò đã giúp Hơ-rít thoát những nạn do vua Rơ bày ra như: một mình phải ăn hết cả thịt voi, chặt cây 15 hòn núi, trỉa giống trên núi đá, v.v… Lần cuối cùng Hơ-rít phải làm một cái nhà trên mặt nước. Cá nghe lời bò giúp Hơ-rít làm một cái nhà rất lạ bằng tất cả giống thủy tộc kết lại mà thành. Vua Rơ thích quá ra đấy ở, nhưng đến khi nấu ăn loài thủy tộc sợ nóng nhảy xuống nước cả. Vua Rơ chết đuối, tài sản thuộc về Hơ-rít[6].
Ba là truyện của người Nga: Một người em nghèo có con ngựa cái vừa đẻ được một con. Con ngựa con chui sang nằm ở gầm cỗ xe của người anh. Sáng dậy người anh chiếm lấy, bảo là do xe mình đẻ ra. Kiện nhau lên quan. anh vì giàu có nên được kiện. Vụ kiện đưa lên vua, vua ra bốn câu đố. Câu trả lời của người em do con gái lên bảy tuổi gà hộ, được vua chú ý. Vua lại đố em bé nhiều câu oái oăm nữa, trong đó có lần giao cho 150 quả trứng bắt phải ấp trong một đêm nở con đem nộp. Cha nghe lời con luộc ăn tất cả rồi vào xin vua một thứ kể từ khi gieo đến khi có quả chỉ trong một ngày, để nuôi gà.
Vua chịu thua. Cuối cùng trước mặt vua, em bé gái nói cha mình làm nghề đánh cá trên mặt đất khô. Thấy vua ngạc nhiên “vì xưa nay chưa từng có cá sống trên đất bao giờ”, em bé gái hỏi vặn lại “xưa nay cũng chưa từng có xe đẻ ra ngựa bao giờ. Vua khen thông minh, bắt người anh trả lại ngựa và ban thưởng cho cha con em bé[7].
Người Nga còn có một truyện khác, truyện Người vợ thông minh.
Một hoàng tử đi săn lạc đường vào nhà một cô gái. Cô xin lỗi: – “Vườn không có tai, nhà không có mắt nên không biết có khách đến”. Hoàng tử hỏi: – “Bố mẹ và anh cô đi đâu?”. Đáp: – “Bố mẹ tôi đi khóc đổi, anh tôi đem 100 đồng đi lấy 5 hào”. Hoàng tử cầu khẩn cắt nghĩa, cô gái cho biết: – “Vườn không tai là nhà không có chó, nếu có nó sẽ sủa mỗi khi có người lạ tới. Nhà không mắt là không có trẻ con, nếu có nó sẽ báo tin. Còn bố mẹ tôi đi đưa đám ma người ta, lúc nào trăm tuổi người ta sẽ tới khóc chia buồn nên gọi là khóc đổi. Anh tôi thì cưỡi ngựa đáng giá 100 đồng để đi săn thỏ đáng giá 5 hào”.
Hoàng tử về nằng nặc đòi vua phải hỏi cô gái cho mình làm vợ. Thấy thế, vua ra ba điều kiện, cô gái thực hiện được mới cho lấy nhau. Lần thứ nhất vua giao một cây gai rất nhỏ bảo lấy sợi của nó dệt cho vua một cái áo. Cô gái bẻ một cái que bảo về đưa cho vua làm cho một khung cửi và thoi để dệt. Lần thứ hai như truyện trên, vua giao 100 trứng luộc bảo ấp để đến ngày cưới lấy đủ số gà dọn tiệc. Cô gái đưa một nhúm bột lúa mạch ở nồi cháo bảo vua gieo cho đủ thức ăn nuôi gà. Lần thứ ba vua bảo cô gái tới xem mặt nhưng không mặc áo mà cũng không cởi trần, không cưỡi ngựa mà cũng không đi không, có tặng vật mà cũng không có. Hôm ấy cô gái đến, trên người khoác một tấm lưới sắt nhỏ mắt, tay cầm dây cương nhỏ buộc vào một con thỏ và tặng vua một con chim nhưng mở bàn tay thì chim đã bay mất, vua chịu thua, đành phải cho con lấy cô gái đó.
Thứ tư là truyện của người Lô-bi (Lobis) (châu Phi):
Một người dàn bà tự nhiên có chửa nhưng không phải ở bụng mà ở đầu gối. Một hôm đang lấy nước ở suối, bỗng đầu gối mở ra, mặt đứa con trai rơi xuống. Thằng bé đứng dậy và nói được ngay, nó tự xưng tên mình là Xê-puốc-goa.
Khi theo mẹ nó đi qua đám cỏ tranh, nó hỏi: – “Của ai đám tranh này?”. “Của tù trưởng Tăng-goa đấy!” – “Có đốt được không?” – “Của người ta không thể đốt được?”. Xê-puốc-goa cứ đốt, đám cỏ tranh cháy hết.
Tăng-goa biết tin, giận lắm, gọi mọi người lại hỏi: – “Ai đốt?” Xê-puốc-goa trả lời: – “Tôi”. Tăng-goa giao cho em một hạt mì, bảo ngay ngày mai phải có rượu để cúng thần. Về nhà, Xê-puốc-goa tìm một hạt bầu đưa cho Tăng-goa bảo: – “Vậy mai phải có một bầu nậm từ hạt giống này để dựng thứ rượu tôi làm”. Tăng-goa đành thôi. Sau đó Tăng-goa lại giao cho em một con bò đực bôi mỡ ở đít, bảo Xe-puốc-goa nuôi, khi bò đẻ sẽ chia nhau. Mai lại, Xê-puôc-goa chặt một cây sào dài đi chọc lá cây bao-ba (loại cây có lá to dùng để lót ổ). Tăng-goa hỏi: “Lấy lá làm gì?” – “Tôi lấy lá về cho cha tôi mới đẻ đêm qua” – “Đàn ông sao lại đẻ được?” – “Thế bò đực của ông sao lại đẻ con được?”. Tăng-goa cứng họng, bảo: – “Mày giỏi hơn tao”. Bèn tha tội[8].
Thứ năm là truyện của người Ma-rốc (Maroc) Cô con gái người thợ mộc:
Một người thợ mộc, vợ chết để lại một cô con gái bé thông minh tên là Ai-sa. Hồi ấy có ông vua thường ra những câu đố hiểm hóc bắt phải trả lời. nếu đúng thì thưởng tiền, sai thì chặt đầu. Nhiều người đã bị chết oan. Đến lượt người thợ mộc nhờ con gái nên không việc gì. Lần đầu cô giúp bố trả lời hai câu đố của vua. Sau đó để thực hiện việc “đặt một vườn rau lên lưng lạc đà”, cô bảo bố lấy đất trộn phân bỏ trong một cái máng lợn gieo một số hạt rau để độ một tuần rồi cho lạc đà chở vào cho vua. Lần sau, vua bắt ông đến hầu “vừa cưỡi, vừa đi, vừa cười, vừa khóc”, cô bảo bố tìm một con lừa con ngồi lên lưng chân chấm đất, lại lấy hành bôi làm chảy nước mắt, rồi cứ thế đến trước vua mà cười. Lần sau nữa, vua lại bắt ông may một cái áo với một khối đá cẩm thạch. Cô bảo bố đòi vua đưa đến sợi chỉ bằng cát để may. Vua chịu. và thưởng hậu, đoạn hỏi: -“Ai bày cho ngươi”- “Con gái tôi”. Vua bèn lấy cô làm vợ chính.
Một hôm có hai người tranh nhau một con ngựa mới đẻ, một người chủ con ngựa đực, một người chủ con ngựa cái, hai con vật cùng ở một chuồng và hai người luân phiên chăm sóc. Khi đẻ thì đến lượt người chủ ngựa đực chăm. Hắn nói ngựa con do ngựa đực đẻ ra vì thấy ở dưới bụng ngựa đực. Vua xử cho hắn dược. Người chủ ngựa cái đứng khóc dưới cửa sổ buồng hoàng hậu ở ngay trên tòa án. Biết chuyện, hoàng hậu mách cho anh này tâu với vua: -“Tôi trỉa hạt lúa mì trên một đám đất ở bờ sông bị cá ăn mất cây”. – Vua hỏi: – Đời nào lại có cá ăn cây lúa”. Hắn tiếp luôn: – “Vậy làm sao lại có ngụa đực đẻ con”. Vua cứng họng hỏi: – “Ai bày cho đấy?”- “Tôi nghe có tiếng nói vọng qua cửa sổ, không rõ là ai”. Biết là hoàng hậu mớm, vua giận, đuổi hoàng hậu về nhà bố mẹ đẻ, chỉ cho phép mang một cái hòm về, bỏ gì vào hòm cũng được. Đêm lại hoàng hậu cho vua ăn một chất thuốc ngủ. Chờ vua ngủ say, nàng bỏ vua vào hòm, sai khiêng về nhà bố. Khi vua tỉnh dậy hoàng hậu nói: – “Theo lệnh của vua tôi chỉ được mang một cái hòm. Vậy thì tôi bỏ vào hòm cái mà tôi quý nhất”[9].
Thứ sáu là truyện của người Mèo Hoàng tử Cam:
Một ông vua có hai vợ. Thứ phi không có con thường bị vua ghét. Bà ta buồn, bỏ đi cầu tự. Một lần đi trẩy cam cùng mọi người. Thấy trên một cây cam có một quả chín mọng, bà hái ăn, từ đó có mang sinh được một hoàng tử thông minh, nhưng vì chính phi ghen vu cho bà chửa hoang nên mẹ con bị đuổi ra ngoài cung để chờ ngày xét xử.
Một hôm vua cho gọi các quan lại, phán: – “Hãy làm một bữa cỗ có thịt đàn bà có râu. Các quan không ai hiểu nổi ý vua. Một ông quan già trở về đi qua chỗ giam hai mẹ con thứ phi. Em bé chạy ra hỏi: – “Có gì mà ông có vẻ lo lắng?”. Ông này không đáp nhưng sau thấy em hỏi gặng bèn kể cho nghe: – “Cũng dễ tìm thôi”, em nói – “Tìm ở đâu?” – “Đàn bà có râu là con dê cái”. Về kể với vua, vua khen lão quan thông minh. Vua lại ra lệnh tìm hoa bốn mầu. Lão quan lại đi hỏi em bé – “Đó là hoa cây thuốc phiện (trắng, hồng, xanh, tím nhạt)”. Vua lại ra một câu khác: – “Món gì ăn có đủ năm vị ?”. Cũng nhờ có em bé mà lão quan trả lời được, đó là trầu (nồng, cay, đắng, chát, ngọt). Vua lại bắt tìm cho vua một thứ gì “tam biến hiện hóa”. Lão quan lại được em bé cho biết đó là mây. Cuối cùng vua lại đố. Cái gì nhọn nhất? Em bé giảng cho là nước nhọn nhất.
Mấy lần giải đáp thông suốt, lão quan được vua khen ngợi và ban cho quyền cao chức trọng. Sợ để em bé lại thì có ngày lộ chuyện, nên một hôm lão quan nhắc vua xử ngay vụ án thứ phi chửa hoang kẻo để lâu e mất danh giá. Vua bèn sai dọn tiệc linh đình mời hoàng tử (tức em bé) về dự, trong tiệc có chén rượu thuốc độc. Không ngờ hoàng tử uống xong bỗng lớn phổng như thổi làm cho vua quan sợ quá bỏ chạy ra ngoài thành. Cuối cùng bị hổ ăn thịt. Hoàng từ mời mẹ về cung[10].
Người Miêu (Trung-quốc) lại có truyện Nàng dâu thông minh hoàn toàn khác với truyện trên:
Một chàng trai lấy được vợ thông minh nhưng lại không được lòng mẹ chồng. Bà này cai quản trong nhà, thường buộc làm nhiều cái oái oăm. Một hôm bà bắt họ phải mua thịt nhưng “không nạc, không mỡ, không xương”. Nàng dâu bèn mua cỗ dạ dày. Lần khác, bà bảo làm một công việc “dưới sạch quang, trên vàng ánh”. Vợ bảo chồng đi nhổ cỏ vườn chè. Lần thứ ba bắt làm một việc mà “phía trên như mặt trời mọc, phía dưới như hoa tuyết rơi”. Vợ cùng chồng đi cưa gỗ (trên mặt gỗ trắng và nóng, dưới mùn cưa rơi). Lần khác, bà bảo phải đun cơm cho người ta ăn, những người này “qua sông bằng cầu nhưng không cất bước”. Nàng dâu bèn làm cơm nắm đưa cho người đi đò ngang ăn. Vào ngày Tết, bà bảo giã bột làm bánh nhưng phải dùng gạo nếp ba đấu ba, bốn đấu bốn, một đấu một, rồi lại một đấu hai. Nàng dâu đong vừa đúng một thạch (10 đấu) gạo nếp, đồ xôi rồi giã thành bánh giầy. Sau Tết, bà bảo dâu về thăm quê ngoại nhưng phải mang về ba thứ quà: củ cải trắng lòng đỏ, ba ba không chân, đầu tôm hàm không ngạnh. Nàng dâu trỏ về mang một giỏ trứng gà, một chiếc bánh giầy, và một nắm bánh phỗng.
Thấy dâu làm đúng không cãi được, mẹ chồng tức uất lên mà chết.
Nhưng lại đến lượt ông vua phải lòng cô gái thông minh. Để có cớ bắt nàng, lần đầu vua buộc nàng phải tìm một tấm vải che kín trời. Nàng nhận lời nhưng hỏi lại vua xem trời rộng và dài bao nhiêu để may cho đúng. Lần khác, vua bắt nộp một con lợn đầu to như đỉnh núi, mình dài như sườn núi. Nàng hỏi lại trọng lượng của đỉnh núi và chiều dài của sườn núi. Vua chịu, lại bắt nộp một con gà trống đẻ trứng. Cũng gần như truyện của ta và các truyện vừa kể, nàng theo lính về triều. Vua hỏi: – “Sao chồng nàng không cùng đến?”. Đáp: “Chồng tôi đang ở cữ”. – “Sao đàn ông lại đẻ con được?” -“Vậy thì làm gì lại có gà trống đẻ trứng”. Vua choáng váng, đành để người đàn bà tự do trở về[11].
Về chi tiết xâu chỉ qua đường ruột ốc, Trung-quốc có truyện Sứ giả vua Tạng đi cầu hôn, có nói đến tài trí của một viên sứ thần thay mặt vua cha đi cầu hôn con gái vua Đường. Vua Đường ngại xa không muốn gả công chúa nhưng cũng không tiện từ chối, mới ra những chuyện đố oái oăm để cho sứ ta nản chí. Nhưng qua năm lần đố là năm lần sứ giả được cuộc. Trong đó có một lần vua Đường sai đưa ra một viên ngọc trong có lỗ quanh co xuyên qua, bảo sứ thần hãy xâu cho được một sợi chỉ. Cũng như truyện của ta, sứ giả nước Tạng buộc chỉ vào lưng một con kiến càng, mặt kia bôi mật. Kiến quả ngửi thấy mùi mật bò sang, mang theo cả sợi chỉ[12].
Người Triều-tiên có truyện Khổng Tử và cô gái:
Một hôm Khổng Tử đi chơi có 3.000 học trò đi theo, thấy ở giữa đồng có một cây ăn quả, hai bên cây có hai cô gái ngồi hái quả ăn. Cô ngồi phía mặt trời lặn mặt trắng, đẹp, còn cô ngồi phía đối diện mặt vàng, nhan sắc kém thua. – “Ồ, chị này đẹp thật!”, Khổng Tử chỉ vào cô thứ nhất nói thế – “Vâng. nhưng khi phải xâu sợi chỉ qua 90 lỗ của một cái khóa thì sẽ biết là người phía Đông chứ không phải phía Tây”, cô kia đáp. – “Cô ấy da xấu lại có vẻ khờ dại”. Nói rồi ông đi. Nhưng khi vào chầu, không ngờ vua đưa cho ông một cái khóa đục 90 lỗ, bảo: – “Ông là bậc thánh hãy xâu sợi chỉ vào các lỗ này cho ta”. Khổng Tử bối rối, sực nhớ tới cô gái ngồi phía mặt trời lặn nhưng lúc đến thì cô này đi vắng. Khổng Tử nhờ cô kia giúp. Cô gái liền cầm lấy khóa nhúng vào mật. Đoạn buộc một sợi to vào cẳng kiến. Kết quả khi ăn mật kiến đã xâu qua các lỗ. Khổng Tử mừng hỏi: – “Cô là ai mà giải được bài toán khó này”. Cô kia đáp – “Tôi là người nhà Trời xuống giúp ông, vì ông phải là người trả lời được thông suốt những cái mà người ta hỏi”[13]. Đoạn cô bay lên trời trước mặt Khổng Tử.
Người Nhật-bản cũng có hai quyển cùng một chủ đề nhưng nhân vật chính không phải em bé mà là người già.
Truyện thứ nhất, từng chép trong sách Makura no sôshi (Thẩm thảo chỉ), ở thế kỷ X:
Ngày xưa có một ông vua không ưa người già, ra lệnh bắt những kể đến tuổi bốn mươi phải chết. Một ông tướng có hiếu thấy thế bèn đào lỗ trong nhà làm chỗ trốn của bố mẹ đã gần bảy mươi. Vua Trung-quốc toan chiếm nước này, trước hết tìm cách xem nước ấy có người tài hay không, mới đưa một khúc gỗ bào trơn, hai đầu bằng nhau, hỏi đằng nào ngọn đằng nào gốc? Không một ai trả lời được. Ông tướng nhờ bố mách nên tìm ra một cách là ném khúc gỗ xuống dòng nước chảy, đàng nào hướng ngược lại dòng nước là ngọn[14]. Vua Trung-quốc lại cho đưa sang hai con rắn giống nhau hỏi con nào cái con nào đực. Được bố mách, ông tướng lại bảo lấy cành lá nho cọ nhẹ vào đuôi, con nào cựa quậy là cái. Về sau vua Trung-quốc lại sai mang một viên ngọc bắt phải xâu một sợi chỉ qua đường ruột ốc. Ông tướng lại theo mưu kế của bố, buộc chỉ vào hai con kiến lớn, một đầu bôi mật và quả thành công.
Nhận thấy tài năng của ông, vua Nhật toan ban cho chức tước, nhưng ông ta chỉ xin phép cho bố mẹ mình đang trốn tránh được về ở kinh đô.
Trong truyện thứ hai cũng có một ông chúa ra lệnh thủ tiêu tất cả người già. Một chàng hiếu tử cõng mẹ vào rừng sâu đi trốn. Bà già thả cành lá ở những chỗ đường rẽ. Con hỏi mẹ, mẹ cười không đáp, nhưng khi con về nhờ có cành lá mới nhận ra đường.
Sau đó con lại cõng mẹ về giấu ở chạn lúa. Lúc này chúa ra lệnh phải nộp một dây bằng tro và một thân cây làm sao cho đầu và đuôi to nặng bằng nhau. Mọi người không làm sao nghĩ ra. Chàng hiếu tử hỏi bà mẹ. Mẹ bày cho con bện dây rơm rồi đốt để có dây bằng tro, và đánh nhiều vào đằng đầu cây, rồi đem nhúng nước, ngấm nước thân sẽ phồng to như đằng gốc, thả xuống nước nặng ngang như gốc. Khi đưa nộp, chúa hỏi ai bày, anh không dám giấu sự thực. Chúa mới nhận ra một sự thực: kinh nghiệm của người già giúp ích tho xã hội. Bèn bãi lệnh giết người già và bảo chàng hiếu tử về chăm sóc mẹ[15].
Giống với truyện Nhật-bản, người Bun-ga-ri (Bulgarie) cũng có truyện Tại sao phải kính trọng người già? Ở đây cũng có một ông vua tàn bạo hạ lệnh giết người già. Chỉ còn sót lại một người bố của một quý tộc giấu ở một nơi bí mật. Vua có con ngựa quý bất kham, theo lời mụ phù thủy, vua bắt các quý tộc phải nộp dây thòng lọng bằng cát mới thuần được. Nhờ người bố bày mưu “tâu với vua xin một cái làm mẫu”, nên vua đình chỉ lệnh ấy. Sau đó gặp đại hạn kho lẫm trống rỗng, vua ra lệnh tìm cho được hạt giống, nếu không sẽ xử tử. Nhờ người bố bày mưu bảo nông dân đi đào các tổ kiến nên kiếm được hạt giống. Vua khen, hỏi: – “Ai bầy?” – “Nếu tôi nói thật, bệ hạ sẽ giết tôi mất”. – “Ta sẽ không chạm đến sợi tóc của ngươi”.
Khi biết sự thật, vua bãi lệnh giết người già, lại bắt dân không được coi thường người già; ra đường phải nhường họ đi trước[16].
Ba truyện trên đều có nguồn gốc từ Ấn-độ. Trong Đại tạng kinh có kể: xưa có một nước tên là Khí-lão (loại bỏ người già). Một viên quan có hiếu cũng đào lỗ cho bố trốn tránh, có một vị thần bắt ông vua nước ấy phải giải đáp các câu hỏi, nếu không trả lời được thì trong bảy ngày sẽ phá tan tành cả nước.
Cũng như trên, ông vua ấy nhờ có bố viên quan mà giải đáp được: lần đầu chỉ đúng hai con rắn đực cái, lần thứ hai chỉ đúng gốc và ngọn của khúc gỗ. Và cũng nhờ đó cái lệnh đuổi người già bị bãi bỏ[17].
Trong Tập bảo tàng kinh có đến hai truyện cũng một chủ đề như trên nhưng ở đây lại dùng kinh điển tôn giáo để giải đáp một số các câu đố, v.v…[18].
Một loạt truyện khác tuy hình tượng không giống với các truyện trên nhưng lại cùng một chủ đề, tức là dùng thông minh để biện bạch giúp những người bị phân xử bất công. Sau đây là một vài truyện:
Truyện Mã-lai (Malaysia):
Một người mượn búa của người khác. Khi người này đòi, hắn nói búa đã bị mối ăn mất. Vua sai hoẵng Pơ-lăng-đốc xử. Hoẵng dội nước ướt lông rồi lăn lên trên tro. Vua hỏi: – “Sao lại bẩn thế?” – “Tôi đi tắm thấy biển nổi lửa, tôi phải dập cho tắt nên lông đầy tro”. – “làm sao lại có biển nổi lửa được nhỉ?”. Người kia nói theo: – “Tôi chưa từng thấy bao giờ”. Hoẵng liền đáp: – “Đúng thế. Cũng giống như búa sắt vậy, tôi chưa từng thấy mối ăn bao giờ”. Vua bắt người kia phải bồi.
Truyện Ấn-độ:
Một tên trộm bắt trộm một con ngựa đang buộc ở cây, người ta đưa nó ra quan tòa chồn, hắn đổ cho cây ăn mất ngựa. Quan tòa nói: – “Đêm qua biển nổi lửa ta phải ôm từng ôm rạ quẳng vào lửa để dập tắt, nay ta mệt không xử được hãy để đến mai”. Tên trộm nói: – “Làm sao ngài lại làm tắt lửa bằng rạ được?” – “Thế thì làm sao lại có cây nuốt ngựa được”.
Truyện Ấn-độ (vùng Păng-jáp (Pendjab)):
Một con ngựa con mới đẻ trong đêm. Sáng ra thấy nó đứng ở gần một cái máy ép dầu, chủ máy này nhận là của mình. Vua xử cho hắn được. Chủ ngựa cầu cứu với chồn. Chồn đến trước vua làm bộ ngã hai ba lần, ngất đi. Vua hỏi lý do. Đáp: – “Đêm qua biển bốc lửa, tôi phải múc nước dội để dập tắt nên mệt quá!” – “Mày nói gì lạ lùng vậy. Làm gì có biển bốc lửa”. – “Cũng vậy thôi! Làm gì có máy ép dầu đẻ ra ngựa”[19].
Truyện Căm-pu-chia:
Có hai người đặt bẫy thú: một người đặt dưới đất, một người đặt trên cây. Sáng dậy người sau đi thăm trước, thấy bẫy người trước được một con hươu, còn của mình không có gì cả. Bèn bắt hươu bỏ vào bẫy của mình. Việc đưa lên quan, quan xử cho người có bẫy trên cây được. Thỏ bày giúp người đặt bẫy dưới đất nói với quan rằng vì thấy một đàn cá leo lên cây hái quả ăn, nên đến hầu chậm. Quan đập bàn: – “Nói không thể tin được. Đời thuở nào có cá trèo cây”. – “Vậy thì, thỏ đáp, đời thuở nào có hươu trèo cây chui vào bẫy”[20].
Xem thêm truyện Trạng Hiền (số 81) sau đây, và truyện Gái ngoan dạy chồng (số 88).
[1] Theo Nguyễn Văn Ngọc. Sách đã dẫn.
[2] Theo lời kể của người miền Bắc.
[3] Xem Văn Tân. Văn học trào phúng, tập I.
[4] Theo Truyện cổ tích miền núi.
[5] Theo Đơ-jor-jơ (Degeorge), đã dẫn.
Về truyện này, người Lào và người Thái kể có khác về chi tiết. Người Lào kể: một vị thần Bơ-ra-ma đầu thai thành một đứa bé chân tay ngắn ngủn. Thần In-đơ-ra muốn cải tạo lại bèn mang lên trời giao cho Ngọc Hoàng (Then). Ngọc hoàng đúc khuôn đồng không thành. Lại đúc khuôn bạc, rồi vàng, rồi thủy tinh, đều không thành. Ngọc Hoàng trả lại. In-đơ-ra bèn đúc khuôn kim cương hóa ra tốt đẹp như In-đơ-ra. Mừng lắm bèn cho đầu thai vào lòng nàng Ma-li-ka 10 năm mới đẻ đặt tên là Ra-pha-na-xu-an. Lên ba hắn đã học hết khoa học. Hắn đòi vua một nước nọ phải gả công chúa cũng mới lên ba. Ông vua này thấy hắn hỗn xược, cũng đành phải gả nhưng xin thiên thần cho mình một đứa trai khác để chế ngự hắn. (Truyện Ramayana của Lào).
Người Thái kể đoạn đầu như của người Tày. Khi đứa bé (ở đây tên là Lan Phắc) gặp Thiên Thần (ở đây là Ngọc hoàng = Then) thì nó hỏi vặn lại: – “Ngựa của ông đã để lại bao nhiêu dấu ở dọc đường?”. Ngọc hoàng cứng họng bèn đến gần, nhìn rồi nói: – “Tại sao cục thịt này lại nghe được nói được?”. Lan Phắc đáp: – “Khi đã là người thì ai cũng muốn đẹp. Còn tôi thì rất xấu hổ. Vậy tôi muốn ông làm cho tôi tốt đẹp như như người”. Ngọc hoàng y lời đúc lại, lại cho hắn mượn ngựa cưỡi lên trời dạo chơi. Bọn trẻ con Ngọc hoàng nói với nhau: – “Sao có kẻ nào cưỡi ngựa của bố ta”. Lan Phắc quay trở về bảo Ngọc hoàng: – “Ông làm cho tôi được đẹp như ông”. Ngọc hoàng lại đúc lại. Hắn lên trời vẫn nghe bọn trẻ con thì thào: – “Người này giống bố nhưng không phải bố”. Hắn lại về xin làm cho giống Ngọc hoàng như đúc. Lần này lúc lên, Lan Phắc được vợ con Ngọc hoàng quấn quýt vì tường chính Ngọc hoàng đã về.
Sau đó Lan Phắc lại xuống bảo Ngọc hoàng: – “Ông hãy chịu khó ở dưới đó vì ông chưa phải là thần tối linh: người nghèo quá nghèo, người giàu quá giàu”. Đoạn trở về thừa hưởng mọi thứ của Ngọc hoàng.
Ngọc hoàng giận vì bị phản bội, giẫm chân thì đất sụt rơi xuống thế giới Diêm vương. Từ đó vì có cơn giận của Ngọc hoàng nên thỉnh thoảng lại có một lần động đất dữ dội. Về sau khi nghe có người nói: – “Xin ngài bớt giận, dầu sao Lan Phắc vẫn còn sống”. Ngọc hoàng thẹn không làm động đất dữ dội nữa. (Theo La-phông (Lafont): Cổ tích Phu-thai, BSEI, tập XLVI, số 1 – 1971).
[6] Theo Mọi Kon-tum của Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng Chi.
[7] Theo Gà đắt hơn trâu, bản dịch của Thục Đoan.
[8] La-bua-rê (Labourer). Những bộ lạc người Ra-mô (Lô-bi).
[9] Theo Mô-ha-mết En Pha-si (Mohamed El Fasi) và Đéc-men-ghem (Dermenghem). Truyện cổ tích xứ Phe-dơ (Ma-rốc).
[10] Theo Doãn Thanh. Sách đã dẫn.
[11] Theo Truyện dân gian Trung quốc (Thái Hoàng và Bùi Văn Nguyên dịch).
[12] Theo Trung quốc dân gian cố sự tuyển của Giả Chi và Tạ Kiếm Băng.
[13] Theo Ga-rin (Garine). Sách đã dẫn.
[14] Tình tiết này giống với tình tiết trong Truyện Trạng Quỳnh của Việt-nam.
[15] Theo Nắng Mai Hồng. Chàng láu giết rồng.
[16] Theo Nắng Mai Hồng. Chàng láu giết rồng.
[17] Theo BEFEO, tập XV, số 3 (1915).
[18] Theo Sa-van-nơ (Chavannes). Sách đã dẫn.
[19] Đều theo Các-đông (Cardon). Sách đã dẫn.
[20] Theo Truyện dân gian Căm pu-chia, đã dẫn.
Ngày xưa có một ông vua sai một viên quan đi dò la khắp nước tìm người tài giỏi. Viên quan ấy đã đi nhiều nơi, đến đâu cũng đưa ra những câu đố oái oăm để hút mọi người, nhưng tuy mất nhiều công mà chưa thấy có người nào thật lỗi lạc.
Một hôm, viên quan đi qua một cánh đồng làng kia, chợt thấy bên vệ đường có hai cha con nhà nọ đang làm ruộng: cha đánh trâu cày, con đập đất. Ông bèn dừng ngựa lại hỏi:
– Này ông lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?
Người cha đứng ngẩn ra chưa biết trả lời thế nào thì đứa con chừng bảy tám tuổi nhanh miệng hỏi vặn lại quan rằng:
– Thế xin hỏi ông câu này đã. Nếu ông trả lời được ngựa của ông đi một ngày được mấy bước, tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường.
Viên quan nghe hỏi lại như thế thì há hốc mồm sửng sốt, không biết đáp sao cho ổn. Ông thầm nghĩ bụng nhất định nhân tài ở đây rồi, chả phải tìm đâu nữa mất công. Quan bèn hỏi tên họ làng xã quê quán của hai cha con rồi phi ngựa một mạch về tâu vua.
Nghe nói, vua lấy làm mừng lắm. Nhưng để biết đích xác hơn nữa, vua bèn sai ban cho làng ấy ba thúng gạo nếp vài ba con trâu đực, ra lệnh phải nuôi làm sao cho ba con trâu ấy đẻ thành chín con, hẹn năm sau đem nộp đủ, nếu không thì cả làng phải tội.
Khi dân làng nhận được lệnh vua ai ấy đều tưng hửng và lo lắng, không thể hiểu thế là thế nào. Bao nhiêu cuộc họp làng, bao nhiêu lời bàn tán, vẫn không nghĩ ra được cách gì giải quyết cả. Từ trên xuống dưới mọi người đều coi là một tai vạ. Việc đến tai em bé con người thợ cày. Em liền bảo cha:
– Chả mấy khi được lộc vua ban, bố cứ thưa với làng ngả thịt hai trâu và đồ hai thúng gạo nếp để mọi người ăn một trận cho sướng miệng. Còn một trâu và một thúng gạo, ta sẽ xin làng làm phí tổn cho bố con ta trẩy kinh lo liệu việc đó.
– Đã ăn thịt còn lo liệu thế nào? Mày đừng có làm dại mà bay đầu đi đó con ạ!
Nhưng đứa con quả quyết:
– Cha cứ mặc con lo liệu, thế nào cũng xong xuôi.
Người cha vội ra đình trình bày câu chuyện. Cả làng nghe nói vẫn còn ngờ vực, bắt cha con phải làm giấy cam đoan, mới dám ngả trâu đánh chén.
Sau đó mấy hôm, hai cha con khăn gói tìm đường tiến kinh. Đến hoàng cung, con bảo cha đứng đợi ở ngoài, còn mình thì nhân lúc mấy tên lính canh vô ý, lẻn vào sân rồng khóc um lên. Vua sai lính điệu vào phán hỏi: – “Thằng bé kia mày có việc gì? Sao lại đến đây mà khóc?”. – “Tâu đức vua – em bé vờ vĩnh đáp – mẹ con chết sớm mà cha con thì không chịu đẻ em bé để chơi với con cho có bạn, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ”.
Nghe nói, vua và các triều thần đều bật cười. Vua lại phán:
– Mày muốn có em thì phải kiếm vợ khác cho bố mày, chứ bố mày là giống đực làm sao mà đẻ được!
Em bé bỗng tươi tỉnh:
– Thế sao làng chúng con lại có lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được kia chứ!
Vua cười bảo:
– Ta thử đấy thôi mà? Thế làng chúng mày không biết đem trâu ấy ra ngả thịt mà ăn với nhau à?
– Tâu đức vua, làng chúng con sau khi nhận được trâu và gạo nếp biết là lộc của đức vua, cho nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi.
Vua và đình thần chịu thằng bé là thông minh lỗi lạc[1], nhưng vua vẫn còn muốn thử cho đến cùng. Qua hôm sau, khi hai cha con đang ăn cơm ở nhà công quán, bỗng có sứ nhà vua mang tới một con chim sẻ và lệnh chỉ bắt họ phải dọn thành ba cỗ thức ăn. Em bé bảo cha lấy cho mình một cái kim may rồi đưa cho sứ giả, bảo:
– Ông cầm lấy cái này về tâu đức vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt chim.
Vua nghe nói, từ đó mới phục hẳn.
Lập tức vua cho gọi cả cha con vào ban thưởng rất hậu.
*
Hồi đó, có một nước láng giềng lăm le muốn chiếm bờ cõi của nhà vua. Để dò xem bên này có nhân tài hay không, họ mới sai sứ đưa sang một cái vỏ con ốc vặn rất dài, rỗng hai đầu, đố làm sao xâu một sợi chỉ mảnh xuyên qua đường ruột ốc.
Sau khi nghe sứ thần trình bày mục đích cuộc đi sứ, vua quan đưa mắt nhìn nhau. Không trả lời được câu đố oái oăm ấy tức là tỏ ra thua kém và phải thừa nhận sự lép vế của mình đối với nước láng giềng. Các đại thần đều vò đầu suy nghĩ. Có người dùng miệng hút mong cho sợi chỉ lọt qua, có người bôi sáp vào sợi chỉ cho cứng để cho dễ xâu. v.v… nhưng tất cả mọi cách đều vô hiệu. Bao nhiêu các ông trạng, các nhà thông thái triệu vào đều lắc đầu bó tay. Cuối cùng, triều đình đành tìm cách mời sứ thần tạm nghỉ ở công quán để có thì giờ đi hỏi ý kiến em bé thông minh ngày nọ.
Một viên quan mang dụ chỉ của vua đến nhà em bé vào lúc em còn đùa nghịch ở sau nhà. Nghe quan trình bày ngọn ngành câu đố của sứ giả ngoại quốc, em bé không đáp, chỉ hát lên một câu:
Tang tính tang! Tính tình tang!
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng,
Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang
Tang tình tang…
Rồi bảo: – Không cần tôi phải về triều làm gì. Cứ theo cách đó là xâu được ngay!”.
Viên quan sung sướng lật đật trở về tâu vua. Vua và các triều thần nghe nói như mở cờ trong bụng. Quả nhiên con kiến càng đã xâu được sợi chỉ xuyên qua đường ruột ốc hộ cho nhà vua trước con mắt kính phục của sứ giả nước láng giềng.
Rồi đó, vua phong cho em bé làm trạng nguyên. Vua sai xây dinh thự ở một bên hoàng cung cho em ở để tiện hỏi han[2].
KHẢO DỊ
Trong truyện Trạng Quỳnh của ta cũng có đoạn kể chuyện nuôi dê đực chửa và việc Trạng Quỳnh đối đáp với vua Lê y như đoạn đầu của truyện Em bé thông minh[3]. Truyện Thơ-mênh Chây của người Khơ-me (Khmer) cũng có một vài chi tiết tương tự, như đoạn vua bắt dọn ba mâm cỗ với một con chim.
Loại truyện có chủ đề em bé thông minh cũng là loại truyện phổ biến của một số đông dân tộc. Dưới đây, kể sơ lược vài truyện tiêu biểu:
Một là truyện Trạng của đồng bào Cham-pa:
Một ông vua chỉ sinh có một nàng công chúa, ra lệnh cho các quan đi tìm người tài giỏi để kén làm phò mã. Cũng như truyện của ta, gặp một người cày ruộng, quan hỏi: – “Từ sáng tới giờ được bao nhiêu đường cày?”. Người ấy không trả lời được bị quan đánh, rồi đi. Con người cày ruộng biết chuyện vội đuổi theo quan, hỏt vặn lại: – “Từ lúc ra đi đến nay các quan đã qua bao nhiêu làng, bao nhiêu cánh đồng và gặp bao nhiêu người?”, – “Ngựa quan phi được bao nhiêu nước đại, nước tiểu?”. Các quan không không trả lời được, bị em bé đánh trả.
Các quan về tâu vua, vua sai bắt em ấy phải nộp một sợi dây bằng tro dài 20 sải, “nếu không có thì chém ba họ”. Em bé bảo mẹ bện rơm thành dây khoanh vào chum cho thò hai đầu dây ra ngoài đốt cháy tất cả rồi mang đến cho vua. Vua lại sai đưa một con chim én cho em, bảo dọn mười món khác nhau mỗi món một đĩa. Em bé bảo mẹ đưa tới cho vua một cái kim nhỏ nhờ đánh cho một cây dao làm thịt chim.
Vua phục tài nhưng còn thử nữa. Từ đây trở xuống truyện khác với truyện của ta. Ví dụ vua bảo làm một bánh biết nói. Em bé bèn nằm khoanh trên mâm, úp lồng bàn lại ngoài dán giấy, bảo mẹ bưng lên cho vua. Hay là vua đố: – “Gai cam không ai vót mà sao lại nhọn?”. Em bé hỏi lại. – “Cây chuối không ai bào mà sao lại trơn?”. Tiếp đó vua bắt một con chim bỏ vào tay hỏi: – “Đố ngươi, ta muốn nắm con chim hay là thả?”. Em chạy đến ngưỡng cửa, hỏi lại: – “Đố bệ hạ tôi muốn vào hay ra?”. Vua ép lấy công chúa nhưng em không lấy, phải thả cho về.
Phần cuối, ngoài những lời đối đáp mưu trí khác của Trạng chọi lại những cuộc đố của vua và đại thần còn có việc Trạng đi tìm vợ. v.v… Trong phần này có chỗ giống với truyện Con vợ khôn lấy thằng chồng dại, như bông hoa lài cắm bãi cứt trâu và truyện Người đàn bà bị vu oan (xem Khảo dị truyện số 47 và 109)
Người Nùng cũng có một truyện Chiếc áo lông chim giống với cả hai truyện Ai mua hành tôi và Em bé thông minh của ta. Ở đây thông minh không phải là một em bé mà là người vợ đẹp của một anh nông dân. Anh có bức chân dung của vợ hàng ngày mang đi theo để ngắm. Một hôm bức chân dung bị gió bay mất, một tên chúa nhặt được đưa lên cho vua. Cả triều đình họp nhau để bàn cách chiếm lấy người đàn bà đẹp vẽ trong đó. Vua phái quan hỏi anh nông dân đang cày: – “Cày được bao nhiêu luống, không trả lời được thì phải nộp vợ, v.v…”. Vợ anh gà cho anh hỏi lại quan. – “Ngựa ông chạy được bao nhiêu bước?”. Vua lại ra lệnh phải sơn đen ba quả đồi. Vợ anh bảo anh đốt cháy trụi cây cối ba quả đồi đó. Vua lại ra lệnh xe một sợi dây bằng kiến. Vợ anh bảo bôi mật cho kiến bâu đầy dây. Vua lại ra lệnh bện một sợi dây thừng bằng tro. Vợ anh lấy giẻ bện giây đặt lên đá rồi đốt cháy.
Vua không đố nữa, sai lính bắt cóc người đàn bà về cung. Từ đây truyện chuyển hướng. Trước khi đi, vợ giao cho chồng lúa và táo tiên dặn trỉa lúa và trồng táo. Khi nào thu hoạch lúa đem cho chim ăn rồi xin mỗi con một cái lông làm thành một cái áo rồi gánh táo đi bán. Chồng làm theo lời, mặc áo lông chim và gánh táo đến cung vua. Người đàn bà đang câm bỗng nói được vì nghe tiếng rao của chồng. Vua cho gọi vào, và nghe lời người bán táo, vua đổi áo mình lấy cái áo lông chim mặc vào định bụng làm cho người đàn bà vui cười nhưng chó dữ trong cung tưởng ai lạ xông ra cắn chết[4].
Người Tày cũng kể như trên nhưng có thêm một đoạn đầu có mô-típ giống với truyện Tú Uyên (số 118, tập III).
Một anh chàng nhà nghèo thường đi làm thuê kiếm ăn. Anh có con chó khôn đi theo chủ khi làm việc. Một hôm chó bới ở bụi, anh tới nhìn thấy một quả trứng lạ, bèn đem về bỏ vào chĩnh. Từ đấy mỗi khi đi làm về lại thấy có cơm canh sẵn sàng. Một hôm lén về rình, anh bắt gặp một cô gái từ quả trứng chui ra làm công việc nội trợ. Anh ném vỡ chĩnh và trứng làm cho cô gái không có chỗ biến hình. Cô gái từ đấy là vợ anh, sau khi cho cô nuốt đũa cả và đũa con để làm xương, v.v… gọi là nàng Kháy (Kháy = trứng). Thấy vợ đẹp, anh cũng bỏ công ăn việc làm, vợ phải vẽ chân dung như truyện trên.
Về đoạn kết, ở đây vợ ra đi giao cho anh không phải táo mà là hạt giống cam và cũng dặn làm áo lông chim lông thú rồi gánh cam đến cung vua. Anh làm theo. Con chó theo anh và nhờ có chó anh mới vượt được sông rộng. Nhưng khi đến bờ bên kia thì chó tắt thở vì mệt quá. Lại đến lượt một đàn ong từ miệng chó bay ra đưa anh đi. Nhờ có ong báo tin, nàng Kháy biết chồng tới, từ đấy mới mở miệng nói cười. Trước đó vua đã cho nàng một thanh gươm và cho phép được giết ai tùy ý; khi vua thay đổi áo mũ cho người bán cam thì lập tức nàng Kháy ra lệnh chém chết.
Người Tày còn có truyện Lai lịch ông Sấm:
Xưa có một người đàn bà đẻ ra một người con trai không tay chân, toan bỏ cho chết, nhưng người làng bảo cứ nuôi. Đứa bé rất thông minh. Một hôm bố đi bừa về bảo con: – “Có một vị thần hỏi mỗi ngày bừa được bao nhiêu đường, bố không biết làm sao mà trả lời” – “Ông ta còn đấy nữa không?”, con hỏi – “Đi rồi” – “Nếu có đến hỏi nữa thì gọi con ngay”. Mai thần lại đến hỏi như trước. Hôm sau nữa, bố mang con theo, thần lại đến hỏi, con đáp: – “Tôi hỏi ông thế này nếu ông trả lời được thì tôi sẽ trả lời câu hỏi của ông: Tại sao trời không cho tôi làm đất, đá, cỏ, cây, mà lại bắt làm một người không tay không chân, thế thì tôi làm sao mà sống? Ai nuôi tôi?”. Thần ta không trả lời được, bèn bay về kể chuyện ấy với Trời. Trời bảo thần đưa đứa bé lên xem.
Đến nơi, Trời sai lấy khuôn dân bỏ dứa bé vào đúc, khi tháo khuôn thì thiếu mất chân. Lại bỏ vào khuôn quan thì thấy mất đầu. Lại bỏ vào khuôn vua thì thiếu tay. Trời bực mình bảo mang loại khuôn riêng của Trời ra đúc. Lần này thì thành công nhưng đứa bé bây giờ lại có quyền phép như Trời. Nó mới đuổi Trời đi chiếm lấy ngai vàng. Từ độ ấy, ông Trời cũ phiêu bạt đó đây.
Nhưng ông Trời mới vụng về không biết cách cai quản trần gian, nên mưa nắng nóng rét không phải thì, làm cho hạ giới mất mùa. Trời cũ thấy vậy giận, giẫm chân quát: – “Cái thằng không tay không chân không biếtt cách cai quản làm tội dân!”. Mỗi lần như thế hạ giới thấy có đá rơi và có tiếng sấm sét. Từ đó mới có ông Sấm[5].
Hai là truyện của đồng bào Ba-na (Bahnar) nhan đề là Vua Rơ, anh Hơ-rít và con thỏ. Vua Rơ thấy con bò cái nhà Hơ-rít đẻ được một con bê rất đẹp, mới manh tâm chiếm đoạt. Vua bắt lấy bê bảo là do bò đực của mình đẻ ra. Thỏ giúp Hơ-rít lấy lại bê, bèn kiếm mủ cây “rơ nghiêng” bôi vào áo rồi đến nhà vua Rơ, nói “cha tôi mới đẻ em bé tối hôm qua thành ra mất ngủ”. Thấy vua Rơ nói trên đời không thể có giống đực đẻ được, thỏ mới vặn lại: – “Sao bò đực nhà vua lại đẻ được bê?”. Vua Rơ cứng họng phải trả bê cho Hơ-rít, nhưng hắn bắt Hơ-rít mang chó đến đấu với chó mình, nếu thua thì phải làm tội. Chó vua Rơ chết. Lại bảo mang lợn đến đấu, lợn vua Rơ cũng chết. Đến lượt bò cũng thế. Vun Rơ tức giận bắt voi mình ra đấu với bò. Bò chết nhưng voi cũng không sống được. Trước khi chết, bò bảo chủ đem một nửa xác của mình bỏ xuống nước, một nửa bỏ lên núi và sau đó cả hai nửa con bò đã giúp Hơ-rít thoát những nạn do vua Rơ bày ra như: một mình phải ăn hết cả thịt voi, chặt cây 15 hòn núi, trỉa giống trên núi đá, v.v… Lần cuối cùng Hơ-rít phải làm một cái nhà trên mặt nước. Cá nghe lời bò giúp Hơ-rít làm một cái nhà rất lạ bằng tất cả giống thủy tộc kết lại mà thành. Vua Rơ thích quá ra đấy ở, nhưng đến khi nấu ăn loài thủy tộc sợ nóng nhảy xuống nước cả. Vua Rơ chết đuối, tài sản thuộc về Hơ-rít[6].
Ba là truyện của người Nga: Một người em nghèo có con ngựa cái vừa đẻ được một con. Con ngựa con chui sang nằm ở gầm cỗ xe của người anh. Sáng dậy người anh chiếm lấy, bảo là do xe mình đẻ ra. Kiện nhau lên quan. anh vì giàu có nên được kiện. Vụ kiện đưa lên vua, vua ra bốn câu đố. Câu trả lời của người em do con gái lên bảy tuổi gà hộ, được vua chú ý. Vua lại đố em bé nhiều câu oái oăm nữa, trong đó có lần giao cho 150 quả trứng bắt phải ấp trong một đêm nở con đem nộp. Cha nghe lời con luộc ăn tất cả rồi vào xin vua một thứ kể từ khi gieo đến khi có quả chỉ trong một ngày, để nuôi gà.
Vua chịu thua. Cuối cùng trước mặt vua, em bé gái nói cha mình làm nghề đánh cá trên mặt đất khô. Thấy vua ngạc nhiên “vì xưa nay chưa từng có cá sống trên đất bao giờ”, em bé gái hỏi vặn lại “xưa nay cũng chưa từng có xe đẻ ra ngựa bao giờ. Vua khen thông minh, bắt người anh trả lại ngựa và ban thưởng cho cha con em bé[7].
Người Nga còn có một truyện khác, truyện Người vợ thông minh.
Một hoàng tử đi săn lạc đường vào nhà một cô gái. Cô xin lỗi: – “Vườn không có tai, nhà không có mắt nên không biết có khách đến”. Hoàng tử hỏi: – “Bố mẹ và anh cô đi đâu?”. Đáp: – “Bố mẹ tôi đi khóc đổi, anh tôi đem 100 đồng đi lấy 5 hào”. Hoàng tử cầu khẩn cắt nghĩa, cô gái cho biết: – “Vườn không tai là nhà không có chó, nếu có nó sẽ sủa mỗi khi có người lạ tới. Nhà không mắt là không có trẻ con, nếu có nó sẽ báo tin. Còn bố mẹ tôi đi đưa đám ma người ta, lúc nào trăm tuổi người ta sẽ tới khóc chia buồn nên gọi là khóc đổi. Anh tôi thì cưỡi ngựa đáng giá 100 đồng để đi săn thỏ đáng giá 5 hào”.
Hoàng tử về nằng nặc đòi vua phải hỏi cô gái cho mình làm vợ. Thấy thế, vua ra ba điều kiện, cô gái thực hiện được mới cho lấy nhau. Lần thứ nhất vua giao một cây gai rất nhỏ bảo lấy sợi của nó dệt cho vua một cái áo. Cô gái bẻ một cái que bảo về đưa cho vua làm cho một khung cửi và thoi để dệt. Lần thứ hai như truyện trên, vua giao 100 trứng luộc bảo ấp để đến ngày cưới lấy đủ số gà dọn tiệc. Cô gái đưa một nhúm bột lúa mạch ở nồi cháo bảo vua gieo cho đủ thức ăn nuôi gà. Lần thứ ba vua bảo cô gái tới xem mặt nhưng không mặc áo mà cũng không cởi trần, không cưỡi ngựa mà cũng không đi không, có tặng vật mà cũng không có. Hôm ấy cô gái đến, trên người khoác một tấm lưới sắt nhỏ mắt, tay cầm dây cương nhỏ buộc vào một con thỏ và tặng vua một con chim nhưng mở bàn tay thì chim đã bay mất, vua chịu thua, đành phải cho con lấy cô gái đó.
Thứ tư là truyện của người Lô-bi (Lobis) (châu Phi):
Một người dàn bà tự nhiên có chửa nhưng không phải ở bụng mà ở đầu gối. Một hôm đang lấy nước ở suối, bỗng đầu gối mở ra, mặt đứa con trai rơi xuống. Thằng bé đứng dậy và nói được ngay, nó tự xưng tên mình là Xê-puốc-goa.
Khi theo mẹ nó đi qua đám cỏ tranh, nó hỏi: – “Của ai đám tranh này?”. “Của tù trưởng Tăng-goa đấy!” – “Có đốt được không?” – “Của người ta không thể đốt được?”. Xê-puốc-goa cứ đốt, đám cỏ tranh cháy hết.
Tăng-goa biết tin, giận lắm, gọi mọi người lại hỏi: – “Ai đốt?” Xê-puốc-goa trả lời: – “Tôi”. Tăng-goa giao cho em một hạt mì, bảo ngay ngày mai phải có rượu để cúng thần. Về nhà, Xê-puốc-goa tìm một hạt bầu đưa cho Tăng-goa bảo: – “Vậy mai phải có một bầu nậm từ hạt giống này để dựng thứ rượu tôi làm”. Tăng-goa đành thôi. Sau đó Tăng-goa lại giao cho em một con bò đực bôi mỡ ở đít, bảo Xe-puốc-goa nuôi, khi bò đẻ sẽ chia nhau. Mai lại, Xê-puôc-goa chặt một cây sào dài đi chọc lá cây bao-ba (loại cây có lá to dùng để lót ổ). Tăng-goa hỏi: “Lấy lá làm gì?” – “Tôi lấy lá về cho cha tôi mới đẻ đêm qua” – “Đàn ông sao lại đẻ được?” – “Thế bò đực của ông sao lại đẻ con được?”. Tăng-goa cứng họng, bảo: – “Mày giỏi hơn tao”. Bèn tha tội[8].
Thứ năm là truyện của người Ma-rốc (Maroc) Cô con gái người thợ mộc:
Một người thợ mộc, vợ chết để lại một cô con gái bé thông minh tên là Ai-sa. Hồi ấy có ông vua thường ra những câu đố hiểm hóc bắt phải trả lời. nếu đúng thì thưởng tiền, sai thì chặt đầu. Nhiều người đã bị chết oan. Đến lượt người thợ mộc nhờ con gái nên không việc gì. Lần đầu cô giúp bố trả lời hai câu đố của vua. Sau đó để thực hiện việc “đặt một vườn rau lên lưng lạc đà”, cô bảo bố lấy đất trộn phân bỏ trong một cái máng lợn gieo một số hạt rau để độ một tuần rồi cho lạc đà chở vào cho vua. Lần sau, vua bắt ông đến hầu “vừa cưỡi, vừa đi, vừa cười, vừa khóc”, cô bảo bố tìm một con lừa con ngồi lên lưng chân chấm đất, lại lấy hành bôi làm chảy nước mắt, rồi cứ thế đến trước vua mà cười. Lần sau nữa, vua lại bắt ông may một cái áo với một khối đá cẩm thạch. Cô bảo bố đòi vua đưa đến sợi chỉ bằng cát để may. Vua chịu. và thưởng hậu, đoạn hỏi: -“Ai bày cho ngươi”- “Con gái tôi”. Vua bèn lấy cô làm vợ chính.
Một hôm có hai người tranh nhau một con ngựa mới đẻ, một người chủ con ngựa đực, một người chủ con ngựa cái, hai con vật cùng ở một chuồng và hai người luân phiên chăm sóc. Khi đẻ thì đến lượt người chủ ngựa đực chăm. Hắn nói ngựa con do ngựa đực đẻ ra vì thấy ở dưới bụng ngựa đực. Vua xử cho hắn dược. Người chủ ngựa cái đứng khóc dưới cửa sổ buồng hoàng hậu ở ngay trên tòa án. Biết chuyện, hoàng hậu mách cho anh này tâu với vua: -“Tôi trỉa hạt lúa mì trên một đám đất ở bờ sông bị cá ăn mất cây”. – Vua hỏi: – Đời nào lại có cá ăn cây lúa”. Hắn tiếp luôn: – “Vậy làm sao lại có ngụa đực đẻ con”. Vua cứng họng hỏi: – “Ai bày cho đấy?”- “Tôi nghe có tiếng nói vọng qua cửa sổ, không rõ là ai”. Biết là hoàng hậu mớm, vua giận, đuổi hoàng hậu về nhà bố mẹ đẻ, chỉ cho phép mang một cái hòm về, bỏ gì vào hòm cũng được. Đêm lại hoàng hậu cho vua ăn một chất thuốc ngủ. Chờ vua ngủ say, nàng bỏ vua vào hòm, sai khiêng về nhà bố. Khi vua tỉnh dậy hoàng hậu nói: – “Theo lệnh của vua tôi chỉ được mang một cái hòm. Vậy thì tôi bỏ vào hòm cái mà tôi quý nhất”[9].
Thứ sáu là truyện của người Mèo Hoàng tử Cam:
Một ông vua có hai vợ. Thứ phi không có con thường bị vua ghét. Bà ta buồn, bỏ đi cầu tự. Một lần đi trẩy cam cùng mọi người. Thấy trên một cây cam có một quả chín mọng, bà hái ăn, từ đó có mang sinh được một hoàng tử thông minh, nhưng vì chính phi ghen vu cho bà chửa hoang nên mẹ con bị đuổi ra ngoài cung để chờ ngày xét xử.
Một hôm vua cho gọi các quan lại, phán: – “Hãy làm một bữa cỗ có thịt đàn bà có râu. Các quan không ai hiểu nổi ý vua. Một ông quan già trở về đi qua chỗ giam hai mẹ con thứ phi. Em bé chạy ra hỏi: – “Có gì mà ông có vẻ lo lắng?”. Ông này không đáp nhưng sau thấy em hỏi gặng bèn kể cho nghe: – “Cũng dễ tìm thôi”, em nói – “Tìm ở đâu?” – “Đàn bà có râu là con dê cái”. Về kể với vua, vua khen lão quan thông minh. Vua lại ra lệnh tìm hoa bốn mầu. Lão quan lại đi hỏi em bé – “Đó là hoa cây thuốc phiện (trắng, hồng, xanh, tím nhạt)”. Vua lại ra một câu khác: – “Món gì ăn có đủ năm vị ?”. Cũng nhờ có em bé mà lão quan trả lời được, đó là trầu (nồng, cay, đắng, chát, ngọt). Vua lại bắt tìm cho vua một thứ gì “tam biến hiện hóa”. Lão quan lại được em bé cho biết đó là mây. Cuối cùng vua lại đố. Cái gì nhọn nhất? Em bé giảng cho là nước nhọn nhất.
Mấy lần giải đáp thông suốt, lão quan được vua khen ngợi và ban cho quyền cao chức trọng. Sợ để em bé lại thì có ngày lộ chuyện, nên một hôm lão quan nhắc vua xử ngay vụ án thứ phi chửa hoang kẻo để lâu e mất danh giá. Vua bèn sai dọn tiệc linh đình mời hoàng tử (tức em bé) về dự, trong tiệc có chén rượu thuốc độc. Không ngờ hoàng tử uống xong bỗng lớn phổng như thổi làm cho vua quan sợ quá bỏ chạy ra ngoài thành. Cuối cùng bị hổ ăn thịt. Hoàng từ mời mẹ về cung[10].
Người Miêu (Trung-quốc) lại có truyện Nàng dâu thông minh hoàn toàn khác với truyện trên:
Một chàng trai lấy được vợ thông minh nhưng lại không được lòng mẹ chồng. Bà này cai quản trong nhà, thường buộc làm nhiều cái oái oăm. Một hôm bà bắt họ phải mua thịt nhưng “không nạc, không mỡ, không xương”. Nàng dâu bèn mua cỗ dạ dày. Lần khác, bà bảo làm một công việc “dưới sạch quang, trên vàng ánh”. Vợ bảo chồng đi nhổ cỏ vườn chè. Lần thứ ba bắt làm một việc mà “phía trên như mặt trời mọc, phía dưới như hoa tuyết rơi”. Vợ cùng chồng đi cưa gỗ (trên mặt gỗ trắng và nóng, dưới mùn cưa rơi). Lần khác, bà bảo phải đun cơm cho người ta ăn, những người này “qua sông bằng cầu nhưng không cất bước”. Nàng dâu bèn làm cơm nắm đưa cho người đi đò ngang ăn. Vào ngày Tết, bà bảo giã bột làm bánh nhưng phải dùng gạo nếp ba đấu ba, bốn đấu bốn, một đấu một, rồi lại một đấu hai. Nàng dâu đong vừa đúng một thạch (10 đấu) gạo nếp, đồ xôi rồi giã thành bánh giầy. Sau Tết, bà bảo dâu về thăm quê ngoại nhưng phải mang về ba thứ quà: củ cải trắng lòng đỏ, ba ba không chân, đầu tôm hàm không ngạnh. Nàng dâu trỏ về mang một giỏ trứng gà, một chiếc bánh giầy, và một nắm bánh phỗng.
Thấy dâu làm đúng không cãi được, mẹ chồng tức uất lên mà chết.
Nhưng lại đến lượt ông vua phải lòng cô gái thông minh. Để có cớ bắt nàng, lần đầu vua buộc nàng phải tìm một tấm vải che kín trời. Nàng nhận lời nhưng hỏi lại vua xem trời rộng và dài bao nhiêu để may cho đúng. Lần khác, vua bắt nộp một con lợn đầu to như đỉnh núi, mình dài như sườn núi. Nàng hỏi lại trọng lượng của đỉnh núi và chiều dài của sườn núi. Vua chịu, lại bắt nộp một con gà trống đẻ trứng. Cũng gần như truyện của ta và các truyện vừa kể, nàng theo lính về triều. Vua hỏi: – “Sao chồng nàng không cùng đến?”. Đáp: “Chồng tôi đang ở cữ”. – “Sao đàn ông lại đẻ con được?” -“Vậy thì làm gì lại có gà trống đẻ trứng”. Vua choáng váng, đành để người đàn bà tự do trở về[11].
Về chi tiết xâu chỉ qua đường ruột ốc, Trung-quốc có truyện Sứ giả vua Tạng đi cầu hôn, có nói đến tài trí của một viên sứ thần thay mặt vua cha đi cầu hôn con gái vua Đường. Vua Đường ngại xa không muốn gả công chúa nhưng cũng không tiện từ chối, mới ra những chuyện đố oái oăm để cho sứ ta nản chí. Nhưng qua năm lần đố là năm lần sứ giả được cuộc. Trong đó có một lần vua Đường sai đưa ra một viên ngọc trong có lỗ quanh co xuyên qua, bảo sứ thần hãy xâu cho được một sợi chỉ. Cũng như truyện của ta, sứ giả nước Tạng buộc chỉ vào lưng một con kiến càng, mặt kia bôi mật. Kiến quả ngửi thấy mùi mật bò sang, mang theo cả sợi chỉ[12].
Người Triều-tiên có truyện Khổng Tử và cô gái:
Một hôm Khổng Tử đi chơi có 3.000 học trò đi theo, thấy ở giữa đồng có một cây ăn quả, hai bên cây có hai cô gái ngồi hái quả ăn. Cô ngồi phía mặt trời lặn mặt trắng, đẹp, còn cô ngồi phía đối diện mặt vàng, nhan sắc kém thua. – “Ồ, chị này đẹp thật!”, Khổng Tử chỉ vào cô thứ nhất nói thế – “Vâng. nhưng khi phải xâu sợi chỉ qua 90 lỗ của một cái khóa thì sẽ biết là người phía Đông chứ không phải phía Tây”, cô kia đáp. – “Cô ấy da xấu lại có vẻ khờ dại”. Nói rồi ông đi. Nhưng khi vào chầu, không ngờ vua đưa cho ông một cái khóa đục 90 lỗ, bảo: – “Ông là bậc thánh hãy xâu sợi chỉ vào các lỗ này cho ta”. Khổng Tử bối rối, sực nhớ tới cô gái ngồi phía mặt trời lặn nhưng lúc đến thì cô này đi vắng. Khổng Tử nhờ cô kia giúp. Cô gái liền cầm lấy khóa nhúng vào mật. Đoạn buộc một sợi to vào cẳng kiến. Kết quả khi ăn mật kiến đã xâu qua các lỗ. Khổng Tử mừng hỏi: – “Cô là ai mà giải được bài toán khó này”. Cô kia đáp – “Tôi là người nhà Trời xuống giúp ông, vì ông phải là người trả lời được thông suốt những cái mà người ta hỏi”[13]. Đoạn cô bay lên trời trước mặt Khổng Tử.
Người Nhật-bản cũng có hai quyển cùng một chủ đề nhưng nhân vật chính không phải em bé mà là người già.
Truyện thứ nhất, từng chép trong sách Makura no sôshi (Thẩm thảo chỉ), ở thế kỷ X:
Ngày xưa có một ông vua không ưa người già, ra lệnh bắt những kể đến tuổi bốn mươi phải chết. Một ông tướng có hiếu thấy thế bèn đào lỗ trong nhà làm chỗ trốn của bố mẹ đã gần bảy mươi. Vua Trung-quốc toan chiếm nước này, trước hết tìm cách xem nước ấy có người tài hay không, mới đưa một khúc gỗ bào trơn, hai đầu bằng nhau, hỏi đằng nào ngọn đằng nào gốc? Không một ai trả lời được. Ông tướng nhờ bố mách nên tìm ra một cách là ném khúc gỗ xuống dòng nước chảy, đàng nào hướng ngược lại dòng nước là ngọn[14]. Vua Trung-quốc lại cho đưa sang hai con rắn giống nhau hỏi con nào cái con nào đực. Được bố mách, ông tướng lại bảo lấy cành lá nho cọ nhẹ vào đuôi, con nào cựa quậy là cái. Về sau vua Trung-quốc lại sai mang một viên ngọc bắt phải xâu một sợi chỉ qua đường ruột ốc. Ông tướng lại theo mưu kế của bố, buộc chỉ vào hai con kiến lớn, một đầu bôi mật và quả thành công.
Nhận thấy tài năng của ông, vua Nhật toan ban cho chức tước, nhưng ông ta chỉ xin phép cho bố mẹ mình đang trốn tránh được về ở kinh đô.
Trong truyện thứ hai cũng có một ông chúa ra lệnh thủ tiêu tất cả người già. Một chàng hiếu tử cõng mẹ vào rừng sâu đi trốn. Bà già thả cành lá ở những chỗ đường rẽ. Con hỏi mẹ, mẹ cười không đáp, nhưng khi con về nhờ có cành lá mới nhận ra đường.
Sau đó con lại cõng mẹ về giấu ở chạn lúa. Lúc này chúa ra lệnh phải nộp một dây bằng tro và một thân cây làm sao cho đầu và đuôi to nặng bằng nhau. Mọi người không làm sao nghĩ ra. Chàng hiếu tử hỏi bà mẹ. Mẹ bày cho con bện dây rơm rồi đốt để có dây bằng tro, và đánh nhiều vào đằng đầu cây, rồi đem nhúng nước, ngấm nước thân sẽ phồng to như đằng gốc, thả xuống nước nặng ngang như gốc. Khi đưa nộp, chúa hỏi ai bày, anh không dám giấu sự thực. Chúa mới nhận ra một sự thực: kinh nghiệm của người già giúp ích tho xã hội. Bèn bãi lệnh giết người già và bảo chàng hiếu tử về chăm sóc mẹ[15].
Giống với truyện Nhật-bản, người Bun-ga-ri (Bulgarie) cũng có truyện Tại sao phải kính trọng người già? Ở đây cũng có một ông vua tàn bạo hạ lệnh giết người già. Chỉ còn sót lại một người bố của một quý tộc giấu ở một nơi bí mật. Vua có con ngựa quý bất kham, theo lời mụ phù thủy, vua bắt các quý tộc phải nộp dây thòng lọng bằng cát mới thuần được. Nhờ người bố bày mưu “tâu với vua xin một cái làm mẫu”, nên vua đình chỉ lệnh ấy. Sau đó gặp đại hạn kho lẫm trống rỗng, vua ra lệnh tìm cho được hạt giống, nếu không sẽ xử tử. Nhờ người bố bày mưu bảo nông dân đi đào các tổ kiến nên kiếm được hạt giống. Vua khen, hỏi: – “Ai bầy?” – “Nếu tôi nói thật, bệ hạ sẽ giết tôi mất”. – “Ta sẽ không chạm đến sợi tóc của ngươi”.
Khi biết sự thật, vua bãi lệnh giết người già, lại bắt dân không được coi thường người già; ra đường phải nhường họ đi trước[16].
Ba truyện trên đều có nguồn gốc từ Ấn-độ. Trong Đại tạng kinh có kể: xưa có một nước tên là Khí-lão (loại bỏ người già). Một viên quan có hiếu cũng đào lỗ cho bố trốn tránh, có một vị thần bắt ông vua nước ấy phải giải đáp các câu hỏi, nếu không trả lời được thì trong bảy ngày sẽ phá tan tành cả nước.
Cũng như trên, ông vua ấy nhờ có bố viên quan mà giải đáp được: lần đầu chỉ đúng hai con rắn đực cái, lần thứ hai chỉ đúng gốc và ngọn của khúc gỗ. Và cũng nhờ đó cái lệnh đuổi người già bị bãi bỏ[17].
Trong Tập bảo tàng kinh có đến hai truyện cũng một chủ đề như trên nhưng ở đây lại dùng kinh điển tôn giáo để giải đáp một số các câu đố, v.v…[18].
Một loạt truyện khác tuy hình tượng không giống với các truyện trên nhưng lại cùng một chủ đề, tức là dùng thông minh để biện bạch giúp những người bị phân xử bất công. Sau đây là một vài truyện:
Truyện Mã-lai (Malaysia):
Một người mượn búa của người khác. Khi người này đòi, hắn nói búa đã bị mối ăn mất. Vua sai hoẵng Pơ-lăng-đốc xử. Hoẵng dội nước ướt lông rồi lăn lên trên tro. Vua hỏi: – “Sao lại bẩn thế?” – “Tôi đi tắm thấy biển nổi lửa, tôi phải dập cho tắt nên lông đầy tro”. – “làm sao lại có biển nổi lửa được nhỉ?”. Người kia nói theo: – “Tôi chưa từng thấy bao giờ”. Hoẵng liền đáp: – “Đúng thế. Cũng giống như búa sắt vậy, tôi chưa từng thấy mối ăn bao giờ”. Vua bắt người kia phải bồi.
Truyện Ấn-độ:
Một tên trộm bắt trộm một con ngựa đang buộc ở cây, người ta đưa nó ra quan tòa chồn, hắn đổ cho cây ăn mất ngựa. Quan tòa nói: – “Đêm qua biển nổi lửa ta phải ôm từng ôm rạ quẳng vào lửa để dập tắt, nay ta mệt không xử được hãy để đến mai”. Tên trộm nói: – “Làm sao ngài lại làm tắt lửa bằng rạ được?” – “Thế thì làm sao lại có cây nuốt ngựa được”.
Truyện Ấn-độ (vùng Păng-jáp (Pendjab)):
Một con ngựa con mới đẻ trong đêm. Sáng ra thấy nó đứng ở gần một cái máy ép dầu, chủ máy này nhận là của mình. Vua xử cho hắn được. Chủ ngựa cầu cứu với chồn. Chồn đến trước vua làm bộ ngã hai ba lần, ngất đi. Vua hỏi lý do. Đáp: – “Đêm qua biển bốc lửa, tôi phải múc nước dội để dập tắt nên mệt quá!” – “Mày nói gì lạ lùng vậy. Làm gì có biển bốc lửa”. – “Cũng vậy thôi! Làm gì có máy ép dầu đẻ ra ngựa”[19].
Truyện Căm-pu-chia:
Có hai người đặt bẫy thú: một người đặt dưới đất, một người đặt trên cây. Sáng dậy người sau đi thăm trước, thấy bẫy người trước được một con hươu, còn của mình không có gì cả. Bèn bắt hươu bỏ vào bẫy của mình. Việc đưa lên quan, quan xử cho người có bẫy trên cây được. Thỏ bày giúp người đặt bẫy dưới đất nói với quan rằng vì thấy một đàn cá leo lên cây hái quả ăn, nên đến hầu chậm. Quan đập bàn: – “Nói không thể tin được. Đời thuở nào có cá trèo cây”. – “Vậy thì, thỏ đáp, đời thuở nào có hươu trèo cây chui vào bẫy”[20].
Xem thêm truyện Trạng Hiền (số 81) sau đây, và truyện Gái ngoan dạy chồng (số 88).
[1] Theo Nguyễn Văn Ngọc. Sách đã dẫn.
[2] Theo lời kể của người miền Bắc.
[3] Xem Văn Tân. Văn học trào phúng, tập I.
[4] Theo Truyện cổ tích miền núi.
[5] Theo Đơ-jor-jơ (Degeorge), đã dẫn.
Về truyện này, người Lào và người Thái kể có khác về chi tiết. Người Lào kể: một vị thần Bơ-ra-ma đầu thai thành một đứa bé chân tay ngắn ngủn. Thần In-đơ-ra muốn cải tạo lại bèn mang lên trời giao cho Ngọc Hoàng (Then). Ngọc hoàng đúc khuôn đồng không thành. Lại đúc khuôn bạc, rồi vàng, rồi thủy tinh, đều không thành. Ngọc Hoàng trả lại. In-đơ-ra bèn đúc khuôn kim cương hóa ra tốt đẹp như In-đơ-ra. Mừng lắm bèn cho đầu thai vào lòng nàng Ma-li-ka 10 năm mới đẻ đặt tên là Ra-pha-na-xu-an. Lên ba hắn đã học hết khoa học. Hắn đòi vua một nước nọ phải gả công chúa cũng mới lên ba. Ông vua này thấy hắn hỗn xược, cũng đành phải gả nhưng xin thiên thần cho mình một đứa trai khác để chế ngự hắn. (Truyện Ramayana của Lào).
Người Thái kể đoạn đầu như của người Tày. Khi đứa bé (ở đây tên là Lan Phắc) gặp Thiên Thần (ở đây là Ngọc hoàng = Then) thì nó hỏi vặn lại: – “Ngựa của ông đã để lại bao nhiêu dấu ở dọc đường?”. Ngọc hoàng cứng họng bèn đến gần, nhìn rồi nói: – “Tại sao cục thịt này lại nghe được nói được?”. Lan Phắc đáp: – “Khi đã là người thì ai cũng muốn đẹp. Còn tôi thì rất xấu hổ. Vậy tôi muốn ông làm cho tôi tốt đẹp như như người”. Ngọc hoàng y lời đúc lại, lại cho hắn mượn ngựa cưỡi lên trời dạo chơi. Bọn trẻ con Ngọc hoàng nói với nhau: – “Sao có kẻ nào cưỡi ngựa của bố ta”. Lan Phắc quay trở về bảo Ngọc hoàng: – “Ông làm cho tôi được đẹp như ông”. Ngọc hoàng lại đúc lại. Hắn lên trời vẫn nghe bọn trẻ con thì thào: – “Người này giống bố nhưng không phải bố”. Hắn lại về xin làm cho giống Ngọc hoàng như đúc. Lần này lúc lên, Lan Phắc được vợ con Ngọc hoàng quấn quýt vì tường chính Ngọc hoàng đã về.
Sau đó Lan Phắc lại xuống bảo Ngọc hoàng: – “Ông hãy chịu khó ở dưới đó vì ông chưa phải là thần tối linh: người nghèo quá nghèo, người giàu quá giàu”. Đoạn trở về thừa hưởng mọi thứ của Ngọc hoàng.
Ngọc hoàng giận vì bị phản bội, giẫm chân thì đất sụt rơi xuống thế giới Diêm vương. Từ đó vì có cơn giận của Ngọc hoàng nên thỉnh thoảng lại có một lần động đất dữ dội. Về sau khi nghe có người nói: – “Xin ngài bớt giận, dầu sao Lan Phắc vẫn còn sống”. Ngọc hoàng thẹn không làm động đất dữ dội nữa. (Theo La-phông (Lafont): Cổ tích Phu-thai, BSEI, tập XLVI, số 1 – 1971).
[6] Theo Mọi Kon-tum của Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng Chi.
[7] Theo Gà đắt hơn trâu, bản dịch của Thục Đoan.
[8] La-bua-rê (Labourer). Những bộ lạc người Ra-mô (Lô-bi).
[9] Theo Mô-ha-mết En Pha-si (Mohamed El Fasi) và Đéc-men-ghem (Dermenghem). Truyện cổ tích xứ Phe-dơ (Ma-rốc).
[10] Theo Doãn Thanh. Sách đã dẫn.
[11] Theo Truyện dân gian Trung quốc (Thái Hoàng và Bùi Văn Nguyên dịch).
[12] Theo Trung quốc dân gian cố sự tuyển của Giả Chi và Tạ Kiếm Băng.
[13] Theo Ga-rin (Garine). Sách đã dẫn.
[14] Tình tiết này giống với tình tiết trong Truyện Trạng Quỳnh của Việt-nam.
[15] Theo Nắng Mai Hồng. Chàng láu giết rồng.
[16] Theo Nắng Mai Hồng. Chàng láu giết rồng.
[17] Theo BEFEO, tập XV, số 3 (1915).
[18] Theo Sa-van-nơ (Chavannes). Sách đã dẫn.
[19] Đều theo Các-đông (Cardon). Sách đã dẫn.
[20] Theo Truyện dân gian Căm pu-chia, đã dẫn.