Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam

Người lấy cóc

Tác giả: Nguyễn đổng Chi
Chọn tập

Ngày xưa có hai vợ chồng một người phú hộ hiếm hoi; mãi đến khi tuổi già xế bóng, người vợ mới có mang. Hai người bụng mừng khấp khởi nhưng đến khi giở dạ đẻ ra thì không phải người mà là một con cóc. Cả nhà toan đem ném đi cho khuất mắt. Bỗng cóc cất tiếng nói: – “Đừng ném con đi, cứ để lại, con cũng làm được việc”. Rồi cóc “một mẹ hai mẹ” luôn luôn làm cho mọi người vui lây. Thế là vợ chồng phú ông đành lòng nhận cóc làm con. Lớn lên cóc hay lam hay làm. Nó thường trò chuyện mua vui cho cả nhà, lại chăm sóc mọi việc giúp đỡ bố mẹ.

Hồi ấy ở gần làng có anh học trò nghèo, bố mẹ chết sớm. Hàng ngày anh cắp sách sang làng bên cạnh học ở trường cụ đồ Lê. Một hôm, qua đám ruộng lúa chín vàng rất đẹp mắt, thuận tay, anh cúi xuống bờ ngắt một bông để cắn chắt. Bỗng nghe một giọng nhỏ nhẹ từ phía góc ruộng phát ra:

– Chàng ơi chàng,

Sao chàng lại ngắt lúa vàng nhà em.

Giật mình, anh nhìn quanh nhìn quất hồi lâu nhưng chẳng thấy một ai cả. Cho rằng tai mình nghe nhầm nên anh lại tiếp tục đi học.

Chiều hôm ấy khi trở về đám ruộng cũ, anh lại cúi xuống chọn một bông lúa khác. Nhưng vừa ngắt xong thì câu nói mà ban sáng anh đã được nghe, bấy giờ lại từ dưới ruộng vọng lên. Lần này thì anh hết sức sửng sốt. Anh nhìn đi nhìn lại khắp nơi, lại lội xuống ruộng cố tìm quanh quẩn ở chỗ phát ra tiếng nói. Nhưng anh chẳng thấy gì hơn là một con cóc đang ngồi chồm hổm trên một mô đất cạnh một bụi lúa. Anh hỏi bâng quơ:

– Vừa rồi cóc nói hay là ai?

– Chính em nói đấy!

Rồi cóc thong thả kể tiếp cho anh biết tên tuổi, quê quán và bố mẹ mình. Đoạn lại nói thêm:

– Vì đám ruộng lúa nhà em chín sớm, lại ở bên đường cái, nên bố mẹ sai em ra đây canh giữ ban ngày. Xin anh khóa về nhà kẻo muộn, và từ nay đừng ngắt lúa nhà em.

Nghe giọng nói của cóc trong trẻo, dịu dàng, thái độ lại chân thật, vui vẻ, anh học trò bụng hảo dạ: – “Xấu hình nhưng tốt nết, thật là ít có!”. Mấy lần qua lại đám ruộng, anh đều thấy cóc đón chờ mình trò chuyện. Dần dần anh đâm ra phải lòng cóc.

Thế rồi, anh quả quyết nhờ mối đến nhà phú hộ để dạm cóc làm vợ. Đang lo con gái mình không có ai tưởng đến, nay bỗng có người tử tế đến dạm, hai vợ chồng ông lão sốt sắng nhận lời và tỏ ý chịu mọi phí tổn cưới xin. Ngày đưa dâu, cóc lạch hạch theo về với chồng.

Tin anh học trò lấy cóc chẳng bao lâu bay ra khắp nơi làm đầu đề cho những câu chuyện mua cười ở các gia đình. Ở nhà trường cụ đồ Lê, những người bạn học của anh luôn luôn xì xào dè bỉu: – “Chắc là vì hắn tham của”. Họ đoán như vậy và họ tìm đủ cách để cho anh bị nhục.

Nhưng mặc cho mọi người gièm pha, anh học trò vẫn vui vẻ như không có việc gì xảy ra. Sau cùng, họ quyết định làm cho anh một phen xấu hổ trước mặt thầy và bạn. Nhân nhà thầy sắp có giỗ, họ bàn với trưởng tràng tổ chức một cuộc thi dọn cỗ. Mỗi người học trò có vợ phải bảo vợ mình dọn một mâm cỗ dâng thầy, không được mượn người làm hộ. Cỗ nào ngon nhất sẽ được thầy khen. Bày ra chuyện này, họ định bụng xem xem cô vợ cóc của anh kia sẽ nấu nướng ra làm sao.

Biết như thế nên khi trở về nhà anh học trò chỉ một mực thở dài. Cóc hỏi chồng vì cơn cớ gì mà buồn. Ban đầu anh còn giấu quanh, nhưng sau vì vợ gạn hỏi mãi, anh đành kể lại cho nghe câu chuyện.

Nghe đoạn, cóc bảo:

– Tưởng là gì chứ dọn cỗ thì em cũng không đến nỗi vụng về đâu. Chàng đừng lo gì cả.

Nghe và nói thế, lòng anh cũng nguôi nguôi. Nhưng ngày một ngày hai, anh chẳng thấy vợ đi chợ sắm sửa gì lại sinh ra lo lắng. Mãi đến ngày cuối cùng, trong khi anh đi học vắng, cóc mới gọi các nàng tiên từ trên trời xuống, mỗi người một tay làm các món ăn. Chỉ trong chớp mắt, trên giá mâm đầy các thứ nem, mọc, giò, chả, bung, xào, v.v… mùi thơm phưng phức.

Chiều hôm ấy, anh học trò đội cỗ đến nhà thầy mặc kệ những câu đùa nghịch quen thuộc của các bạn. Nhưng họ không ngờ rằng sau khi nếm qua tất cả các cỗ, cụ đồ dừng lại bên cạnh mâm của anh, tấm tắc khen:

– Nấu ăn như người nào đây thật là tuyệt. Có những món ăn chưa bao giờ ta lại thấy ngon đến thế.

Kết quả lần ấy anh học trò thắng cuộc trước những con mắt ghen tỵ của bạn bè.

Ít lâu sau, nhân ngày sinh nhật của thầy, bọn học trò lại bàn nhau mở một cuộc thi may quần áo. Bộ quần áo nào mà thầy mặc vừa nhất và đẹp nhất sẽ được trúng giải. Nhưng không được một ai đo vào người thầy, và áo quần thì phải do vợ học trò may chứ không được thuê thợ. Bọn họ bảo nhau: – “Chuyến này, xem thử cóc may vá ra làm sao cho biết”.

Anh học trò lại bước cao bước thấp trở về. Thấy mặt anh buồn, cóc lại thủ thỉ:

– Có việc gì mà chàng có vẻ không vui?

Anh lại kể cho vợ nghe ý định của các bạn học. Nghe đoạn, cóc tươi cười:

– Tưởng là gì, chứ may vá thì em đây cũng không đến nỗi vụng về. Chàng đừng có lo gì cả.

Ngày hôm sau, đợi lúc chàng cắp sách ra khỏi cổng, cóc bèn vào buồng đóng kín các cửa lại rỗi hóa phép biến thành một con ruồi, ruồi bay ra đuổi theo chồng bám vào cổ áo. Khi đến trường, giữa lúc cụ đồ Lê bước ra giảng bài, ruồi ta bay đậu lên vai, lên cổ, lên lưng và lên mọi nơi trên áo quần cụ đồ, nhẩm thuộc tất cả kích tấc rồi mới bay lộn trở về.

Chiều hôm ấy, anh học trò đi học về đã thấy một bộ quần áo xếp gọn để ở đầu giường. Anh giở ra xem: đường kim mũi chỉ khó có ai ăn đứt. Nhưng anh chỉ lo không biết thầy mặc có vừa hay không.

Hôm sau là ngày nạp lễ, anh mang bộ quần áo đến trường, giữa lúc ấy các bạn anh đang giở áo quần cho thầy mặc thử. Nhưng chẳng bộ nào thầy mặc xứng ý: được quần thì hỏng áo, hay được áo lại hỏng quần. Anh học trò đưa bộ quần áo của mình cho thầy mặc thử sau cùng. Cụ đồ mặc vào thật là vừa vặn, áo cũng như quần không chê được một chỗ nào. Cuối cùng mọi người tiu nghỉu vì anh lấy vợ cóc đáng lý là cái đích để mà cười thì không ngờ lại trúng cuộc. Song họ vẫn chưa từ bỏ ý định trêu ghẹo anh.

Ít lâu sau nữa, nhân có hội mùa xuân, bọn học trò lại bàn nhau xin cụ đồ cho mở một cuộc thi vợ đẹp. Hẹn chiều hôm sau mỗi người phải thân hành đưa vợ mình đến cho thầy chấm giải. Bọn họ bảo nhau: – “Lần này thì tha hồ mà cười cho vỡ bụng!”.

Thật là một tin không hay cho anh chàng lấy vợ cóc. Anh cảm thấy tê tái và phải cố gắng lắm mới bước về được đến nhà. Thấy chồng nằm dài trên giường chẳng nói chẳng rằng, cóc gạn hỏi mãi mới biết được sự thật. Chồng kể xong, nói tiếp:

– Bắt nàng đến trường để thi… Chúng nó thật là ác độc!

Nhưng cóc thì vẫn tươi tỉnh:

– Chàng đừng lo. Thiếp xin vì chàng đến trường chào thầy và các bạn của chàng. Dầu thiếp xấu xí nhưng cũng có chỗ sánh được với người. Đừng ngại!

Chiều hôm sau, lúc anh học trò bước đi thất thểu đến trường thì cóc cũng lạch bạch nhảy theo chân. Mặt anh đỏ dừ, vừa ngượng vừa thương vợ. Anh cúi đầu không dám ngoảnh cổ nhìn mọi người. Cóc vẫn bình tĩnh nhảy theo chồng. Lúc sắp đến trường, cóc bảo:

– Chàng đợi thiếp một lát!

Nói xong cóc nhảy ngay vào một bụi cây rậm bên đường. Anh học trò vội chạy đến bụi cây rình xem. Nhưng chưa kịp ghé mắt nhìn, đã thấy từ bụi cây bước ra một cô gái da trắng môi son, mày ngài mắt phượng làm anh ngơ ngác. Ngoảnh vào bụi anh thấy một tấm da cóc vứt lại một đống lù lù ở gốc cây. Hiểu ra đó là lốt của vợ mình, lập tức anh chạy vào xé nát tấm da.

Rồi đó hai vợ chồng sánh vai bước vào cổng trường lúc bấy giờ đã chật ních những người. Mọi con mắt đều tròn xoe kinh ngạc vì vợ anh học trò mà họ tưởng là cóc, thì lại là người so với mọi người đàn bà khác như trời với vực. Quả đó là một vị tuyệt thế giai nhân.

Từ đó hai vợ chồng quấn quýt với nhau không rời[1].

KHẢO DỊ

Người Nghệ-an có truyện Vợ cóc là một dị bản của truyện trên nhưng không nói tới các cuộc thi, cũng không nói tới việc cóc đi canh lúa:

Vợ chồng một nhà nọ sinh được một con cóc và nuôi đến chín mười năm. Một hôm cả nhà đi vắng, cóc ở nhà hóa thành một người con gái xinh đẹp ngồi dệt vải lại dọn dẹp trong nhà sạch sẽ. Có một bọn học trò đi qua, cô gái đẹp ra cửa têm trầu mời khách ăn. Nhưng đến khi họ vào thì không thấy cô gái đẹp đâu nữa, mà chỉ thấy một con cóc, bèn bỏ di. Riêng có một anh học trò trong số đó, lúc về giục mẹ đi hỏi: – “Nó là cóc, con lấy làm gì?” – “Mẹ cứ hỏi cho con đi”. Bố mẹ cóc nhận lời gả con, không đòi hỏi gì. Ngày đưa dâu chẳng mấy ai dự, người ta bỏ cóc vào võng đưa về. Ai cũng chê cười: – “Người mà lấy cóc!”. Nhưng đến đêm thì cóc hóa thành người, sáng dậy lại trở lại hình dạng cóc. Được ba ngày, chồng bảo vợ: “Người ta cười quá lắm, nàng phải làm cho họ thôi cười mới được”. Cóc bèn hóa thành người ra mắt bà con làng xóm. Bố mẹ chồng thấy thế mừng quá, giết trâu bò mời họ mời làng. Người ta nói: “Ăn cưới không bằng lại mặt” là thế[2].

Trong truyện trên, chắc người kể đã lược đi nhiều tình tiết của truyện, nhưng vẫn giữ được một tình tiết đáng chú ý: vợ chàng học trò trước khi chuyển hóa thành người, đã có thời gian ngày là vật, đêm lại là người.

Một truyện khác phổ biến ở miền Nam là truyện Nàng Út có một số tình tiết giống và khác với truyện Lấy vợ cóc:

Hai vợ chồng nhà nọ hiếm con, hết lời cầu xin đức Phật để có một đứa. Người vợ sau đó tự nhiên có mang và đẻ ra ở đằng trán một cô bé bằng ngón tay nên đặt tên là Nàng Út. Cho là quái, bố mẹ chỉ những muốn vứt bỏ đi đâu cho khuất mắt. Một hôm, người bố đưa Út lên rừng sâu, bảo Út đứng chờ một chỗ, chờ chặt củi xong thì sẽ mang về. Nhưng sau đó ông ta theo đường khác lẻi về, bỏ con lại. Út cứ chờ bố hết ngày này qua ngày khác. Trước đó có một con quạ ăn dưa nhả hạt ở gần chỗ Út đứng. Hạt mọc thành cây. Út dùng lá dưa như một thứ mái để che sương gió. Cây có quả, Út nâng niu quả dưa, định bụng dành cho bố.

Bỗng có một hoàng tử đi săn qua đấy thấy quả dưa chín bèn hái ăn, quẳng vỏ lại. Út ăn dưa thừa, tự nhiên có mang, đẻ ra một đứa con trai cũng bé xíu như mẹ nó. Hai mẹ con ở trên cây đa. Sau đó một hôm nhớ tới quả dưa ăn lần trước, hoàng tử bèn tìm đến khu rừng cũ. Trông thấy mẹ con Út, hoàng tử bỏ cả vào hai túi đua về cung rồi lấy Út làm vợ. Vua cha thấy thế giận lắm, tìm cách chia rẽ.

Một hôm vua ra lệnh cho các cung nữ, ai may áo cho vua vừa vặn thì sẽ cho làm vợ hoàng tử. Bộ quần áo vua mặc vừa vặn và đẹp nhất là của nàng Út. Vua lại ra lệnh ai dọn cỗ mà vua nếm thấy ngon thì được làm vợ hoàng tử. Cỗ ngon nhất lại là của Út. Vua lại sai mở hội trong cung thi sắc đẹp, kén vợ cho hoàng tử. Trong khi hoàng tử lo lắng thì Út lập đàn cầu trời. Thần hiện xuống làm cho nàng lớn lên như người thường, nhan sắc tuyệt vời. Vua hài lòng cho phép hoàng tử lấy Nàng Út[3].

Lê Duy Thiện diễn ca truyện Nàng Út có kể lại nàng Út là tiên mà Ngọc Hoàng cho đầu thai. Khi sinh ra chỉ bằng con dế. Người bố mang lên nương để lại ở chòi. Có một thái tử nước Triệu đến tuổi lấy vợ, vua cha định hỏi công chúa các nước cho con, lại cho con mở hội kén vợ, chàng đều không màng. Đi săn vào chòi Út, thấy quả dưa, thái tử bèn ăn, ăn xong vứt vỏ, đái vào vỏ rồi trở về. Út từ chỗ nấp bước ra không biết, ăn phải vỏ dưa có mang sinh được một con trai “to lớn tức thời”. Sau ba năm thái tử nhớ chốn cũ lại đi, thấy đứa bé giống mình bèn nhận Út làm vợ, đưa về cung. Ở đây cũng có ba cuộc thi như trên. Lần thi thứ ba, thiên đình làm cho Út thành người lớn, xinh đẹp, lại cho một quạt, một đàn. Quạt đàn này khi các nước đến xâm lăng thì:

… Quạt vào giông tố liền ra.

Đá văng cây ngã xem đà dữ thay!

… Nghe đờn (đàn) liệt quốc suy lòng.

Âu làm hàng biểu cho xong mà về[4].

Một truyện khác Người lấy cóc lưu hành ở một địa phương miền Bắc, nhưng nội dung thì lại giống với truyện Lấy chồng dê (số 128), chỉ có khác nhân vật ở đây là cóc[5].

Đồng bào Tày (Thổ) có truyện Kim Quế:

Nàng Kim Quế, con gái đức Phật Thiên đàng vì tính tình phóng túng nên bị đày xuống trần, nhưng lại sinh lạc vào xã hội loài khỉ. Tuy vậy, nàng vẫn có tài nghệ hơn đời, thường ngày chẻ tre đan chiếu, chiếu đẹp như lụa thêu, gấm dệt.

Một hôm có bà lão tới nhận đem chiếu đi bán, bà lão bán cho hoàng tử Chúa Ba. Thấy chiếu đẹp, Chúa Ba lên rừng để gặp. Sau khi trò chuyện, mới biết tuy rằng đội lốt khỉ mà là người tiên, bèn rước về cùng nhau ăn ở như vợ chồng.

Muốn trêu tức Chúa Ba, vua ra lệnh cho hoàng tử phải làm cỗ yến, ngon thì sẽ nhường ngôi cho. Kim Quế nhờ chị em tiên xuống làm hộ nên cỗ Chúa Ba được giải nhất. Lần thứ hai thi may áo, lại đoạt giải nhất, nhờ sai ruồi vào cung đo người vua. Lần thứ ba thi vợ đẹp, Kim Quế gọi tiên nữ xuống mang “nha linh đơn” để tắm. Tắm xong, khỉ biến thành người đẹp, lại chiếm giải. Kết quả, Chúa Ba được vua nhường ngôi[6].

Người Mèo có truyện Nàng tiên khỉ cũng lấy khỉ thay cho cóc:

Một ông vua có ba hoàng tử, riêng hoàng tử thứ ba người xấu xí, một hôm đi lạc vào nước khỉ và yêu nàng công chúa khỉ vốn là một nàng tiên giáng trần. Khi đưa vợ về, hoàng tử bị mọi người dè bỉu, nhất là vua cha. Để buộc con bỏ vợ, vua cho tổ chức lần lượt ba cuộc thi giữa ba người vợ của ba hoàng tử, ai nhất thì chồng được vua nhường ngôi, ai kém thì phải đuổi. Lần đầu thi dọn cỗ, khỉ nhờ hai trăm bạn tiên xuống giúp cho mỗi người một món; lần thứ hai may áo quần, khỉ nhờ bạn tiên mang gấm vóc xuống may và tàng hình vào cung vua đo khổ người; lần thứ ba thi sắc đẹp, khỉ đến cung rùng mình hóa thành người đẹp tuyệt trần, áo quần như dát vàng dát bạc. Hoàng tử thứ ba quả được truyền ngôi như truyện của người Tày[7].

Người Miến-điện (Myanmar) có truyện Nàng Nhái:

Có hai vợ chồng già hiếm hoi, đẻ được một con nhái. Họ giữ lại nuôi, người ta gọi là “Cô bé nhái”. Mẹ cô chết, người bố lấy vợ kế có hai con riêng, chúng nó xấu bụng ghét nhái. Hồi ấy hoàng tử thứ tư làm lễ kén vợ bằng cách ném hoa. Các tiểu thư được gọi vào cung. Nhái cũng đòi đi, chúng chế giễu không cho vào cửa. Nhái nói khéo, được lính cho vào. Các cô tiểu thư xõa tóc, Hoàng tử tung hoa huệ lên trời, không ngờ hoa rơi trúng đầu nhái. Hoàng tử đành kết hôn với nhái, người ta gọi là “bà chúa nhái”. Một hôm vua cha muốn truyền ngôi cho con, mới mở một cuộc thi tìm bắt nai vàng. Các hoàng tử khác chỉ tìm dược những con nai thường, chỉ có chồng nhái nhờ có nhái, tìm được nai vàng. Vua cha lại mở cuộc thi đem đến thức ăn sống nhưng sau buổi lễ, gạo phải không mốc, thịt không ôi. Các hoàng lử khác đem gạo thịt nấu sẵn, chỉ có nhái đưa gạo thịt sống đến, trải qua mấy ngày mà vẫn tươi. Lần thứ ba vua thi vợ đẹp. Thấy hoàng tử lo lắng định đi tìm một cô gái đẹp, nhái bảo: “Cứ đưa em đến là đủ!”. Khi đến nhái bước lên điện, nhái vẫn là nhái. Hoàng tử thứ tư thẹn đỏ mặt khi vua hỏi: “Tiểu thư xinh đẹp của con dâu?” Nhưng nhái đã bước ra nói: “Thưa con đây!”. Nói rồi cởi da nhái hóa thành cô gái đẹp như tiên. Hoàng tử vội vàng chụp lấy tấm da ném vào lửa[8].

Người Pháp cũng có truyện Con nhái gần giống với truyện trên:

Một người đàn bà đang muốn tìm vợ cho hai con trai. Những cô gái xung quanh đều từ chối. Một hôm hai anh em bàn nhau bói vợ bằng cách mỗi người bắn một phát tên, gặp ai lấy nấy. Mũi lên của người anh rơi vào một chuồng gà, gần đấy có cô gái xinh đẹp mười tám tuổi. Còn mũi tên của em không may rơi xuống bùn, một con nhái nhảy ra.

Em đành phải lấy nhái làm vợ. Nhái đưa chồng về sống chung trong một căn lầu, không có ai lai vãng. Một hôm hai anh em tìm đến nhà chú là một vị vua cai trị nhiều nước. Người chú ra một cuộc thi vui nhộn, hẹn mỗi người đem chó đến, chó của ai chạy qua mấy hàng chai lọ mà không đổ thì cho cai quản một nước. Nhái đưa cho chồng một cái hộp, mở ra có một con chó con, chó chạy lon xon tránh né rất gọn, không có một chai lọ nào đổ cả, trong khi đó chó của người anh thì làm đổ lung tung. Thế là chồng nhái được cai quản một nước. Lần thứ hai chú lại mở cuộc thi: ai đưa đến một sợi dây nắm gọn trong tay, nhưng có thể quấn quanh lâu dài ba vòng thì cho cai quản một nước khác. Dây của người anh chỉ quấn được hai vòng, còn dây của chồng nhái quấn đến năm vòng. Lần thứ ba người chú lại thi vợ đẹp. Vợ nhái chuẩn bị một cái xe to bằng quả quýt có bốn con chuột kéo và một con mối (thạch sùng) cầm cương. Trước khi lên đường, nhái nhảy xuống bùn một lát, bước lên là một cô gái rất xinh, mặc áo đẹp, xe của nhái hoá thành cỗ xe bốn ngựa có người xà-ích ăn mặc sang trọng. Thế là được chú cho cai quản một nước thứ ba[9].

Truyện của người Ả-rập vùng sông Nin (Nil):

Một ông vua có ba người con. Khi con đến tuổi lấy vợ, người bố bảo họ trèo lên nền của một lâu dài, mỗi người bắn một phát tên, trúng vào đâu thì lấy vợ ở đó. Mũi tên của hoàng tử cả rơi xuống nhà một viên đại thần, được kết duyên với con gái ông ta. Mũi tên của hoàng tử thứ hai rơi vào nhà một viên tướng, cũng được lấy con ông này. Mũi tên của hoàng tử thứ ba rơi vào một gian nhà có một con rùa lớn. Hoàng tử đành phải lấy rùa làm vợ như lời vua cha đã giao ước.

Sau đó, một hôm vua ăn không ngon, ra lệnh cho mỗi hoàng tử phải mang đến một mâm thức ăn. Hai mâm thức ăn của hai người chị dâu đưa đến trở nên tanh tưởi hôi hám (do rùa làm ra như thế), còn mâm của rùa được vua khen ngợi vì ăn ngon. Vua sai dọn tiệc mời vợ các hoàng tử tới dự. Rùa bảo chồng đưa mình đến. Sắp tới nơi, rùa trút vỏ hóa thành một cô gái áo quần rực rỡ, cử chỉ lịch sự. Còn hai chị do rùa hóa phép làm cho áo quần trở nên lố lăng, đã thế lại bắt chước cử chỉ của rùa nên làm trò cười cho mọi người. Trong khi đó thì hoàng tử út bí mật ra đốt cái vỏ rùa, để cho vợ khỏi trở lại kiếp vật.

Truyện của người Thổ Thát-đát ở núi An-tai (Altai):

Một người lái buôn có ba người con, một hôm bảo họ: “Đứa nào mộng thấy vợ như thế nào thì lấy người như thế ấy”. Người anh cả lấy con gái một lái buôn, người thứ hai lấy con một viên chức; còn người thứ ba mộng thấy được làm chồng nhái, đành phải lấy một con nhái.

Một hôm bố chồng sắp đi chầu vua, bảo nàng dâu thứ nhất may một cái áo, nàng dâu thứ hai may một cái quần, còn nàng dâu thứ ba khâu một đôi ủng. Nhái đưa cho chồng một đôi ủng thêu rất đẹp. Còn công trình của hai người kia không đáng kể. Sau đó, bố chồng bảo ba nàng dâu làm bánh. Bánh của nhái ăn rất ngon, còn của hai người kia rất dở. Sau đó, bố chồng lại bắt ba nàng dâu tới hát trước mặt mình. Dâu nhái xuất hiện dưới dạng một cô gái, hát những bài hay đến nỗi bố chồng nói với mọi người rằng chưa bao giờ ông thấy có một người thanh sắc tuyệt vời như vậy. Bèn gầy dựng cho con út thành một lái buôn lớn, còn hai người con kia trở thành kẻ chăn cừu, vợ của họ thành đầu bếp.

Truyện của một địa phương ở Đức:

Một ông vua bảo ba hoàng tử ai mang về một tấm thảm đẹp nhất, sẽ cho thừa kế ngai vàng. Đoạn vua cho thổi lên trời lần lượt ba cái lông chim, để lông chỉ cho từng đứa con hướng đi tìm. Chiếc lông thổi cho hoàng tử thứ ba rơi trúng một cửa hầm, hoàng tử nhấc cửa hầm lên thấy có tam cấp đi xuống đất rất sâu, bèn cứ thế trèo xuống, cuối cùng thấy có một con cóc lớn, xung quanh là một bầy cóc con. Biết được cái mà hoàng tử cần, cóc cho hoàng tử một tấm thảm. Đưa về, thảm ấy đẹp vượt xa của các anh. Lần thứ hai, vua bảo các con đi tìm một cái nhẫn. Cũng tại đáy hầm, nhờ cóc, hoàng tử lấy được nhẫn thần đưa về cho vua cha. Lần thứ ba vua bảo mỗi người đi tìm một cô vợ, ai có vợ đẹp nhất sẽ được nối ngôi. Cũng tại đáy hầm, cóc cho hoàng tử một con cóc con, lúc về hóa thành cô gái đẹp[10].

Một loạt truyện sau đây cũng cùng một chủ đề và hình tượng như các truyện trên (người lấy vợ là vật, khi đưa về thì ngày là vật, đêm là người, lại có nhiều phép huyền diệu nhờ đó giành thắng lợi trong các cuộc thi). Nhưng do chồng làm tiết lộ bí mật của vợ, hoặc nôn nóng muốn vợ sớm hóa thành người nên đã gây ra sự chia ly vĩnh viễn (hoặc tạm thời nhờ có sự nỗ lực cứu vãn của chồng qua nhiều thử thách).

Truyện của người Nga Công chúa ếch:

Một ông vua cũng có ba hoàng tử, lúc họ đến tuổi lấy vợ cũng có cuộc bói vợ bằng cách bắn mỗi người một phát tên, hễ cô nào nhặt được tên của ai thì sẽ là vợ của người ấy. Kết quả, có hai cô gái nhặt được mũi tên của hai hoàng tử anh, còn mũi tên của hoàng tử thứ ba thì cũng như truyện trên, do một con ếch nhặt được, đành phải tuân theo số mệnh. Một hôm vua cha muốn biết tài may vá của các nàng dâu, lần thứ hai muốn biết tài nấu nướng và lần cuối cùng là tài khiêu vũ trong dạ hội. Hai lần thi đấu, nàng dâu ếch làm đẹp lòng vua cha. Lần thứ ba, thấy chồng buồn, ếch bảo đừng lo, rồi trút lốt thành một cô gái tuyệt đẹp sánh vai chồng vào dự hội. Khi ăn tiệc, ếch bỏ những miếng xương và rượu thừa vào ống tay áo. Hai chị dâu cũng bắt chước. Khi nhảy, ếch vung tay áo, có hàng đàn chim bay ra cùng cảnh núi sông xuất hiện rất đẹp mắt. Khi hai chị vung tay áo thì xương xẩu cùng những giọt nước tung tóe vào khách. Hết dạ hội, hoàng tử thứ ba đi tìm lốt ếch đốt đi. Vợ về nhà tìm mãi không được, chỉ kịp cho chồng biết rằng một khi mất lốt, hai người sẽ phải chịu cảnh chia lìa, đoạn biến mất.

Được hơn một năm, chồng nhớ vợ bỏ nhà đi tìm. Tìm mãi mới biết vợ mình đang bị biến thành một chiếc quạt vàng của một bà tiên. Hoàng tử cướp được quạt, bẻ gãy chuôi thì công chúa ếch hiện ra. Ếch cho chồng biết chỉ một tý nữa là mình sẽ bị buộc đi lấy chồng. Lập tức hai vợ chồng ngồi lên một tấm thảm bay. Bay được một chốc, chú rể mới biết tin đuổi theo. Đuổi gần kịp thì tấm thảm đã đưa hai vợ chồng vào nước Nga, mọi người ở đây đổ xô ra đón tiếp hai vợ chồng. Từ đấy không có gì làm cho họ chia lìa nhau nữa[11].

Một truyện của Ấn-độ:

Một ông vua cũng mở cuộc bắn tên cho bảy hoàng tử bói vợ. Mũi lên của người thứ nhất rơi vào nhà của một viên đại thần, năm mũi khác đều lọt vào lầu của các nhà quý tộc, còn một mũi tên của hoàng tử út thì rơi trúng vào một cây me. Theo quyết định của vua cha, hoàng tử út phải lấy một con khỉ sống ở cây me, nhưng các nhà tiên tri đều biết rằng vợ hoàng tử là một nàng tiên. Tuy là khỉ, nhưng vợ hoàng tử lại nói khéo, giỏi âm nhạc và có nhiều tài nghệ (ở đây gần giống với tình tiết trong truyện Kim Quế của đồng bào Tày).

Các chị dâu tò mò đòi mở một cuộc lễ cho các nàng dâu tới dự. Vợ hoàng tử thứ bảy thấy chồng buồn, bèn an ủi chồng, nói mình có thể đi dự được. Nói rồi cởi lốt khỉ thành một cô gái đẹp, mặc áo quần đẹp. Đoạn bảo chồng: – “Hãy giữ cẩn thận cái lốt này nếu mất nó chúng ta sẽ gặp chuyện bất hạnh”. Trong cuộc lễ, nàng dâu út đang lúc được mọi người trầm trồ ca ngợi thì bỗng quằn quại kêu lên mấy tiếng: “Tôi cháy! Tôi cháy!” rồi biến mất. Chính lúc đó ở nhà hoàng tử đang đốt cái lốt khỉ. Thế là hoàng tử mất vợ, mất luôn cả lâu đài do vợ hóa phép hiện ra, chỉ còn tìm được có mỗi một chiếc sáo bạc. Hoàng tử cầm sáo bạc đi tìm vợ, cuối cùng gặp một vị thần chỉ đường cho vào vườn nhà trời. Ở đây chồng thấy vợ đang ngồi trên một cái ngai bằng kim cương, bèn mang sáo ra thổi lên một bài: vợ nhận ra chồng. Nhờ vua nhà trời say mê tiếng sáo nên chàng được cùng vợ sum họp và sống trên đó.

Truyện của Phần-lan (Finlande):

Túc-ki-mô là con trai út của một ông vua. Ở đây cũng có một cuộc bói vợ bằng cách bắn tên của ba hoàng tử. Khi Túc-ki-mô đi tìm mũi tên ở trong rừng thì thấy ngồi lên đó là một con nhái: – “Chào hoàng tử, nhái nói, tôi bây giờ là vợ chưa cưới của chàng”. Túc-ki-mô mang nhái về không vui một chút nào.

Một hôm vua bảo các nàng dâu: – “Mai ta sẽ đến xem các cô nấu ăn ra làm sao?”. Khi trở về, nhái bảo chồng ngủ, để mình còn sửa soạn bữa ăn. Hoàng từ giả vờ ngủ thì thấy vợ đã cởi lốt, hóa thành một cô gái đẹp bước ra cửa sổ gọi lớn: – “Hỡi giống nòi hùng mạnh, gia đình danh tiếng! Hãy tới giúp tôi dọn bữa tiệc cho vua!”. Tự nhiên có tám con thiên nga đỗ xuống, treo bộ cánh ở tường và hóa thành những cô gái đẹp. Cùng với vợ nhái, các cô dệt những khăn ăn đẹp và nấu những món ăn tuyệt phẩm làm cho lòng kiêu căng của các chị dâu xẹp xuống. Lần thứ hai, hoàng tử mang đến cho vua một sơ-mi do vợ mình dệt tuyệt đẹp. Lần thứ ba trong hội khiêu vũ, vợ nhái đã nhảy những điệu kỳ diệu. Túc-ki-mô đi hỏi một bà thầy bói làm sao để cho vợ sẽ là người mãi mãi. – “Phải trộm cái áo da nhái và đốt đi!”. Hoàng tử nghe theo. Trở về, vợ trách chồng hết lời: – “Đáng lý đợi ba hôm nữa, tôi sẽ thành người vĩnh viễn, còn như thế này thì đành phải chia tay”. Đoạn biến thành thiên nga bay mất.

Một số truyện sau đây cũng là dị bản của truyện Người lấy cóc nhưng kết cấu có biến dạng: một phần kết hợp với hình tượng của truyện Giáp Hải (số 149, tập IV), (cô gái trong con vật hiện ra lúc vắng người, nấu ăn quét dọn nhà của cho ân nhân) và một phần nữa thì tương tự với truyện Hoàng tử A-mét với nàng Pa-ri Ba-nu trong Nghìn lẻ một đêm (xem Khảo dị truyện số 107, tập III).

Truyện của Ác-mê-ni (Armenie):

Một ông vua có ba hoàng tử. Khi đến tuổi kết hôn, theo phong tục, họ phải đến dự một đám hội và quẳng quả táo vào đám đông để bói vợ. Hai quả táo của hai hoàng tử anh trúng hai cô gái, còn của hoàng tử út rơi vào một cái giếng trong có một con nhái. Coi là định mệnh, hoàng tử đành phải đem nhái về. Mấy ngày đầu mỗi khi hoàng tử về nhà đều thấy bàn ăn đã dọn sẵn. Để ý rình xem, hoàng tử thấy một cô gái đẹp từ lốt nhái bước ra làm bếp. Hoàng tử bèn đột ngột xông vào ôm lấy cô gái, và mặc dù cô cho biết rằng sẽ phải hối hận, hoàng tử cũng xé lốt nhái để cho cô thành người.

Một hôm vua ra lệnh cho các con phải mang một tấm thảm lớn có thể cả một đội quân ngồi lên mà vẫn còn thừa. Hoàng tử về khóc với vợ. Vợ nói: – “Thấy chưa! Tôi đã bảo đừng xé lốt của tôi. Nhưng đừng có làm ầm lên. Hãy đến cái giếng mà anh vớt tôi về, gọi to: “Con gái ông bảo tôi đến thưa với ông gửi lên cho nó một tấm thảm bé nhất của ông”. Đưa thảm về, vua rất vừa ý. Lần thứ hai lại một thử thách mới, và nhờ bố vợ, hoàng tử cũng làm xong. Thử thách thứ ba là “tìm một con người cao một gang, râu dài hai gang”. Vẫn theo lời vợ dặn, hoàng từ đến giếng gọi to: – “Con gái ông bảo đưa lên cho nó một người lùn nhỏ của ông”. Đưa đến cung vua, người lùn nhỏ mắng vua sa sả về những đòi hỏi ngu ngốc và tặng cho vua những quả đấm. Đến quả đấm cuối cùng, vua vỡ đầu. Hoàng tử út bèn lên ngôi.

Một truyện khác cũng của người Ác-mê-ni (Armenie):

Một chàng trai theo lời bà dặn mỗi buổi sáng ném xuống biển một tấm bánh. Anh làm việc đó không nản. Bỗng một buổi chiều đi chợ về, anh thấy nhà mình đã được quét tước dọn dẹp sạch sẽ, một hôm khác thì thấy thịt sống mua làm thức ăn đã được nấu lên. Cũng như hành động của nhân vật Giáp Hải hay Tú Uyên, anh giả vờ đi nửa đường lộn về nấp rình thì thấy một con cá từ dưới nước hiện lên trút lốt thành cô gái tới làm bếp cho anh. Anh từ chỗ nấp xông ra bắt lấy, và sau đó được sự đồng ý của người bà của con cá, lấy nàng làm vợ.

Thấy vợ chàng xinh đẹp ít có, nhà vua lập tâm chiếm đoạt. Vua bèn đưa ra những đòi hỏi không thể thực hiện được buộc anh phải làm nếu không thì giết chết. Trước hết, anh phải đi tìm một cái nhà bạt có thể che cho tất cả lính tráng và dân cư trong thành phổ mà vẫn còn thừa chỗ. Cô vợ cá thấy chàng kêu khóc, bèn đến bờ biển gọi to: – “Bà ơi, bà mang cho cháu cái nhà bạt bé nhất!”. Thấy việc thứ nhất làm xong, vua lại đòi một tấm thảm rộng trải trong nhà bạt. Sự việc cũng diễn ra như lần trước. Sau cùng nhà vua bắt đưa đến một đứa trẻ lên một biết nói biết đi. – “Bà ơi! Cô vợ cá gọi, bà đưa em cháu lên đây để cháu bế tý!”. Đứa bé lên gặp vua, nó liền vạch thói xấu của vua, vả vào mặt vua. Vua phải xin lỗi và hứa chừa[12].

Về loại truyện có mô-típ đặc biệt: người nữ ăn thức ăn thừa của người nam và có mang, kho tàng cổ tích ở Đông nam Á hầu như rất phổ biến. Sau đây là một số truyện tiêu biểu:

  1. Truyền thuyết của người Thái-lan.

Ngày xưa, có một người đầy mụn lở (gọi là ông chúa Trăm-ngàn-mụn-lở) không biết từ đâu đến vỡ hoang một miệng đất trên bờ sông. Ông trồng nhiều ớt và dưa chuột làm kế sinh nhai. Ở gần nhà có một cây dưa chuột có một quả lớn phi thường nhờ nước giải của ông thường ngày bón cho cây.

Quả dưa chuột ấy sau đó về tay công chúa con vua Trai-trung. Công chúa ăn và tự nhiên có mang. Vua cho người dò la xem con gái mình quan hệ với ai nhưng không tìm ra. Vì thế đứa con trai công chúa sinh ra lên ba tuổi mà không có cha. Vua nghĩ ra một cách để biết ai là bố đẻ của nó, tức là bắt tất cả đàn ông ở Trai-trung mỗi người cầm một món thức ăn ở tay, hễ đứa bé đến xin ăn ở người nào thì người ấy là bố nó. Bèn đánh trống hội họp toàn mường lại, ban cho mỗi người một vật ăn được như người này cái bánh, người kia quả cây, v.v… không sót một ai. Vua bảo vú nuôi đặt đứa bé ở cửa lầu trước mặt mọi người. Lúc ấy ông chúa Trăm-ngàn-mụn-lở trong tay đang cầm miếng cơm nguội. Đứa trẻ đi khắp nơi không xin ăn ở ai cả mà đến xin ăn ở ông. Vua lập lức gả công chúa cho người ấy và sai đóng bè đuổi cả hai vợ chồng ra khỏi thị trấn.

Chiếc bè dừng lại ở vườn dưa, hai vợ chồng ở lại đây. Thần Đế Thích (In-dơ-ra) hiện ra cho họ một cái trống thần bảo hễ ước cái gì thì đánh một tiếng trống, sẽ được ngay. Lời ước đầu tiên của ông là làm sao cho mình được đẹp. Tự nhiêu bao nhiêu mụn lở biến mất. Thấy vậy công chúa mừng rỡ, lại ước có vàng đủ đúc cho con trai một cái nôi. Vì vậy mà có tên là hoàng tử Nôi vàng. Về sau họ làm vua, xây dựng thành phố ở đấy[13].

  1. Truyện của người Cham-pa:

Ta-bong là một chàng lười bẩm sinh, một hôm đi câu. Ba lần câu được cá thì ba lần bị quạ tha mất. Đến con thứ tư hắn đái vào đầu cá. Quạ lại tha cá đi nhưng đánh rơi vào bể nước ở cung vua. Công chúa thứ ba bắt đước cá đem về nấu ăn, không ngờ có mang. Vua muốn tìm ra bố đứa bé, bèn sai công chúa ném khăn trầu vào đám hội có đông đủ dân chúng đến dự xem khăn rơi vào người nào, nhưng khăn lại không rơi vào người nào cả. Vua hỏi xem còn sót những ai. Người ta cho biết chỉ sót anh chàng Ta-bong vì lười mà không đến. Vua cho đi gọi. Ta-bong vẫn không đi. Vua phải cho người cáng hắn đến đám hội. Lần này khăn trầu của công chúa rơi đúng vào khố Ta-bong. Vua sai lính giết cả hai nhưng lính lén lút tha cho họ, rồi lấy máu chó bôi vào gươm để tâu dối với vua.

Nằm thẳng cẳng dưới cây xoài. Ta-bong chờ cho quả rơi vào miệng mới ăn. Vua quạ đến ăn xoài thấy anh, tưởng là cái xác chết bèn sà xuống mổ, liền bị anh tóm cổ. Quạ phải cho anh hòn đá ước. Nhờ có đá, anh ước ra lâu đài nhà cửa, trâu bò và kẻ hầu người hạ ở trên phía nguồn. Một hôm anh sai quân đắp chắn nguồn nước. Thấy dân khổ vì sông khô cạn không có nước dùng, nhà vua sai người lên phía nguồn thăm dò, thì thấy lâu đài nguy nga, trên có cắm một lá cờ đề chữ “Vua mới”. Quân đội nhà vua kéo lên định đánh. Nhưng trên thành lại treo một lá cờ khác bảo vua cũ hãy nhường ngôi cho vua mới, dân sẽ có nước uống. Sau khi nghĩ ngợi, vua thuận nhường ngôi cho con rể[14].

[1] Theo lời kể của người miền Bắc, và Lăng-đờ (Landes), sách đã dẫn.

[2] Theo Bản khai của sách Hữu-tập, sách Vĩnh-lại, sách Nhiêu-hợp, tập I.

[3] Theo Lăng-đờ (Landes), sách đã dẫn.

[4] Theo Thơ Nàng Út.

[5] Theo Sê-ông (Chéon). Sưu tầm một trăm bài tiếng An-nam.

[6] Theo lời kể của người Thái-nguyên, Cao-bằng.

[7] Theo Truyện cổ dân tộc Mèo.

[8] Theo Miến-điện dân gian cố sự, sách đã dẫn.

[9] Theo Truyện kể Ni-véc-ne (Nivernais), Pháp.

[10] Một dị bản sưu tầm ở đảo Xi-ra (Syra) (Hy-lạp) đại thể cũng có một ông vua bảo ba người con bắn tên để bói vợ. Kết quả hoàng tử cả lấy được công chúa ở một nước khác, hoàng tử thứ hai lấy con gái một hoàng tử nọ. Còn hoàng tử ba thì mũi tên cắm vào một đống phân, moi ra thì thấy ở dưới có một tấm đá cẩm thạch lật lên, thấy có đường tam cấp dẫn xuống một cái hang. Ở đây thay cho cóc là những con khỉ ngồi xung quanh một con khỉ mẹ. Mẹ khỉ bảo hoàng tử lấy một trong số con gái mình làm vợ… Tiếp đó là những công việc do vua cha ấn định: vua hứa sẽ nhường ngôi cho người nào trang hoàng nhà cửa đẹp, đưa đến một giỏ trái cây tươi ngon; có người vợ trong ngày hội được tôn là đẹp nhất. Vợ khỉ bảo chồng nhờ mẹ mình làm tốt hai việc trên, còn việc thứ ba thì vợ khỉ mặc áo quần đẹp, cưỡi ngựa đẹp và dĩ nhiên đã biến thành cô gái đẹp, nên được mọi người trằm trồ khen ngợi.

[11] Theo Truyện dân gian Nga (bản dịch của Nguyễn Hải Sa).

[12] Một số truyện trên đều theo Cô-xcanh (Cosquin). Những truyện cổ tích Ấ-độ và phương Tây.

[13] Theo La-jông-ki-e-rơ (Lajonquière): Nước Xiêm và người Xiêm. Về loại truyện như truyện trên với tình tiết vô tình có thai, Prơ-di-luýt-xki (Przylusski) cho biết có nhiều truyền thuyết tương tự trong Nàng công chúa tanh mùi cá và con rắn thần trong các truyền thuyết ở Đông á, Nghiên cứu châu Á, tập II (1925).

Có thể xem thêm một số truyện trong Nghiên cứu những lễ tiết nông nghiệp của người Cao-miên của Ê-vơ-lin Pô-rê Mát-xpê-rô (Eveline Poret Maspéro).

[14] Theo Lăng-đờ (Landes): Truyện cổ tích Cham-pa. Người Mèo cũng có một truyện tương tự: Một anh chàng lười bẩm sinh. Bị bố mẹ đuổi, hắn nằm trên thuyền, thuyền giạt vào một gốc sung. Từ đấy hắn sống bằng cách há miệng chờ sung, ăn đấy ỉa đấy. Cá và quạ rủ nhau đến ăn, chúng cắn nhau, cuối cùng quạ quắp cá mang đi, tình cờ đánh rơi vào vườn vua. Công chúa thấy cá bắt lấy nướng ăn, từ đấy có mang đẻ ra một con trai: thằng bé khóc lóc luôn canh, ai dỗ cũng không nín. Để tìm ra bố đứa bé, vua ra lệnh cho dân chúng mỗi người đến dỗ một lần. Lười không đến, nhưng rồi vua cũng sai lính khiêng đến. Đứa bé quả nín. Vua gả công chúa cho Lười và đuổi đi. Hắn lại đến chỗ cũ sống bằng sung rụng. Một con quạ tưởng là xác chết định rỉa thịt, bị hắn bắt được. Quạ phải cho hắn một cái trống có ba mặt: một mặt đánh ra cơm thịt, một mặt đánh ra áo quần tiền bạc, một mặt đánh ra cuốc và đồ dùng. Dùng trống càng lâu càng phải đánh nhiều mới nghiệm. Nhờ đó mà Lười bỏ được tật lười (Truyện cổ dân tộc Mèo). Giống truyện trên, người Dao Thanh-y có truyện Vua Quạ. Ở đây trống vua Quạ cho có 4 mặt: một mặt đánh ra mưa, một mặt ra nắng, một mặt ra gạo, một mặt ra vàng bạc. Khi giàu rồi, chồng bảo vợ đón bố về chơi. Bố vợ (vua) bảo phải có vàng rải đường mới chịu đi. Chồng gõ trống có ngay. Bố vợ ngốt cả người, mải ngắm, đầu đập vào tường, chết (Đức Hùng, Phù Ninh: Nàng Ái Kao).

Ngày xưa có hai vợ chồng một người phú hộ hiếm hoi; mãi đến khi tuổi già xế bóng, người vợ mới có mang. Hai người bụng mừng khấp khởi nhưng đến khi giở dạ đẻ ra thì không phải người mà là một con cóc. Cả nhà toan đem ném đi cho khuất mắt. Bỗng cóc cất tiếng nói: – “Đừng ném con đi, cứ để lại, con cũng làm được việc”. Rồi cóc “một mẹ hai mẹ” luôn luôn làm cho mọi người vui lây. Thế là vợ chồng phú ông đành lòng nhận cóc làm con. Lớn lên cóc hay lam hay làm. Nó thường trò chuyện mua vui cho cả nhà, lại chăm sóc mọi việc giúp đỡ bố mẹ.

Hồi ấy ở gần làng có anh học trò nghèo, bố mẹ chết sớm. Hàng ngày anh cắp sách sang làng bên cạnh học ở trường cụ đồ Lê. Một hôm, qua đám ruộng lúa chín vàng rất đẹp mắt, thuận tay, anh cúi xuống bờ ngắt một bông để cắn chắt. Bỗng nghe một giọng nhỏ nhẹ từ phía góc ruộng phát ra:

– Chàng ơi chàng,

Sao chàng lại ngắt lúa vàng nhà em.

Giật mình, anh nhìn quanh nhìn quất hồi lâu nhưng chẳng thấy một ai cả. Cho rằng tai mình nghe nhầm nên anh lại tiếp tục đi học.

Chiều hôm ấy khi trở về đám ruộng cũ, anh lại cúi xuống chọn một bông lúa khác. Nhưng vừa ngắt xong thì câu nói mà ban sáng anh đã được nghe, bấy giờ lại từ dưới ruộng vọng lên. Lần này thì anh hết sức sửng sốt. Anh nhìn đi nhìn lại khắp nơi, lại lội xuống ruộng cố tìm quanh quẩn ở chỗ phát ra tiếng nói. Nhưng anh chẳng thấy gì hơn là một con cóc đang ngồi chồm hổm trên một mô đất cạnh một bụi lúa. Anh hỏi bâng quơ:

– Vừa rồi cóc nói hay là ai?

– Chính em nói đấy!

Rồi cóc thong thả kể tiếp cho anh biết tên tuổi, quê quán và bố mẹ mình. Đoạn lại nói thêm:

– Vì đám ruộng lúa nhà em chín sớm, lại ở bên đường cái, nên bố mẹ sai em ra đây canh giữ ban ngày. Xin anh khóa về nhà kẻo muộn, và từ nay đừng ngắt lúa nhà em.

Nghe giọng nói của cóc trong trẻo, dịu dàng, thái độ lại chân thật, vui vẻ, anh học trò bụng hảo dạ: – “Xấu hình nhưng tốt nết, thật là ít có!”. Mấy lần qua lại đám ruộng, anh đều thấy cóc đón chờ mình trò chuyện. Dần dần anh đâm ra phải lòng cóc.

Thế rồi, anh quả quyết nhờ mối đến nhà phú hộ để dạm cóc làm vợ. Đang lo con gái mình không có ai tưởng đến, nay bỗng có người tử tế đến dạm, hai vợ chồng ông lão sốt sắng nhận lời và tỏ ý chịu mọi phí tổn cưới xin. Ngày đưa dâu, cóc lạch hạch theo về với chồng.

Tin anh học trò lấy cóc chẳng bao lâu bay ra khắp nơi làm đầu đề cho những câu chuyện mua cười ở các gia đình. Ở nhà trường cụ đồ Lê, những người bạn học của anh luôn luôn xì xào dè bỉu: – “Chắc là vì hắn tham của”. Họ đoán như vậy và họ tìm đủ cách để cho anh bị nhục.

Nhưng mặc cho mọi người gièm pha, anh học trò vẫn vui vẻ như không có việc gì xảy ra. Sau cùng, họ quyết định làm cho anh một phen xấu hổ trước mặt thầy và bạn. Nhân nhà thầy sắp có giỗ, họ bàn với trưởng tràng tổ chức một cuộc thi dọn cỗ. Mỗi người học trò có vợ phải bảo vợ mình dọn một mâm cỗ dâng thầy, không được mượn người làm hộ. Cỗ nào ngon nhất sẽ được thầy khen. Bày ra chuyện này, họ định bụng xem xem cô vợ cóc của anh kia sẽ nấu nướng ra làm sao.

Biết như thế nên khi trở về nhà anh học trò chỉ một mực thở dài. Cóc hỏi chồng vì cơn cớ gì mà buồn. Ban đầu anh còn giấu quanh, nhưng sau vì vợ gạn hỏi mãi, anh đành kể lại cho nghe câu chuyện.

Nghe đoạn, cóc bảo:

– Tưởng là gì chứ dọn cỗ thì em cũng không đến nỗi vụng về đâu. Chàng đừng lo gì cả.

Nghe và nói thế, lòng anh cũng nguôi nguôi. Nhưng ngày một ngày hai, anh chẳng thấy vợ đi chợ sắm sửa gì lại sinh ra lo lắng. Mãi đến ngày cuối cùng, trong khi anh đi học vắng, cóc mới gọi các nàng tiên từ trên trời xuống, mỗi người một tay làm các món ăn. Chỉ trong chớp mắt, trên giá mâm đầy các thứ nem, mọc, giò, chả, bung, xào, v.v… mùi thơm phưng phức.

Chiều hôm ấy, anh học trò đội cỗ đến nhà thầy mặc kệ những câu đùa nghịch quen thuộc của các bạn. Nhưng họ không ngờ rằng sau khi nếm qua tất cả các cỗ, cụ đồ dừng lại bên cạnh mâm của anh, tấm tắc khen:

– Nấu ăn như người nào đây thật là tuyệt. Có những món ăn chưa bao giờ ta lại thấy ngon đến thế.

Kết quả lần ấy anh học trò thắng cuộc trước những con mắt ghen tỵ của bạn bè.

Ít lâu sau, nhân ngày sinh nhật của thầy, bọn học trò lại bàn nhau mở một cuộc thi may quần áo. Bộ quần áo nào mà thầy mặc vừa nhất và đẹp nhất sẽ được trúng giải. Nhưng không được một ai đo vào người thầy, và áo quần thì phải do vợ học trò may chứ không được thuê thợ. Bọn họ bảo nhau: – “Chuyến này, xem thử cóc may vá ra làm sao cho biết”.

Anh học trò lại bước cao bước thấp trở về. Thấy mặt anh buồn, cóc lại thủ thỉ:

– Có việc gì mà chàng có vẻ không vui?

Anh lại kể cho vợ nghe ý định của các bạn học. Nghe đoạn, cóc tươi cười:

– Tưởng là gì, chứ may vá thì em đây cũng không đến nỗi vụng về. Chàng đừng có lo gì cả.

Ngày hôm sau, đợi lúc chàng cắp sách ra khỏi cổng, cóc bèn vào buồng đóng kín các cửa lại rỗi hóa phép biến thành một con ruồi, ruồi bay ra đuổi theo chồng bám vào cổ áo. Khi đến trường, giữa lúc cụ đồ Lê bước ra giảng bài, ruồi ta bay đậu lên vai, lên cổ, lên lưng và lên mọi nơi trên áo quần cụ đồ, nhẩm thuộc tất cả kích tấc rồi mới bay lộn trở về.

Chiều hôm ấy, anh học trò đi học về đã thấy một bộ quần áo xếp gọn để ở đầu giường. Anh giở ra xem: đường kim mũi chỉ khó có ai ăn đứt. Nhưng anh chỉ lo không biết thầy mặc có vừa hay không.

Hôm sau là ngày nạp lễ, anh mang bộ quần áo đến trường, giữa lúc ấy các bạn anh đang giở áo quần cho thầy mặc thử. Nhưng chẳng bộ nào thầy mặc xứng ý: được quần thì hỏng áo, hay được áo lại hỏng quần. Anh học trò đưa bộ quần áo của mình cho thầy mặc thử sau cùng. Cụ đồ mặc vào thật là vừa vặn, áo cũng như quần không chê được một chỗ nào. Cuối cùng mọi người tiu nghỉu vì anh lấy vợ cóc đáng lý là cái đích để mà cười thì không ngờ lại trúng cuộc. Song họ vẫn chưa từ bỏ ý định trêu ghẹo anh.

Ít lâu sau nữa, nhân có hội mùa xuân, bọn học trò lại bàn nhau xin cụ đồ cho mở một cuộc thi vợ đẹp. Hẹn chiều hôm sau mỗi người phải thân hành đưa vợ mình đến cho thầy chấm giải. Bọn họ bảo nhau: – “Lần này thì tha hồ mà cười cho vỡ bụng!”.

Thật là một tin không hay cho anh chàng lấy vợ cóc. Anh cảm thấy tê tái và phải cố gắng lắm mới bước về được đến nhà. Thấy chồng nằm dài trên giường chẳng nói chẳng rằng, cóc gạn hỏi mãi mới biết được sự thật. Chồng kể xong, nói tiếp:

– Bắt nàng đến trường để thi… Chúng nó thật là ác độc!

Nhưng cóc thì vẫn tươi tỉnh:

– Chàng đừng lo. Thiếp xin vì chàng đến trường chào thầy và các bạn của chàng. Dầu thiếp xấu xí nhưng cũng có chỗ sánh được với người. Đừng ngại!

Chiều hôm sau, lúc anh học trò bước đi thất thểu đến trường thì cóc cũng lạch bạch nhảy theo chân. Mặt anh đỏ dừ, vừa ngượng vừa thương vợ. Anh cúi đầu không dám ngoảnh cổ nhìn mọi người. Cóc vẫn bình tĩnh nhảy theo chồng. Lúc sắp đến trường, cóc bảo:

– Chàng đợi thiếp một lát!

Nói xong cóc nhảy ngay vào một bụi cây rậm bên đường. Anh học trò vội chạy đến bụi cây rình xem. Nhưng chưa kịp ghé mắt nhìn, đã thấy từ bụi cây bước ra một cô gái da trắng môi son, mày ngài mắt phượng làm anh ngơ ngác. Ngoảnh vào bụi anh thấy một tấm da cóc vứt lại một đống lù lù ở gốc cây. Hiểu ra đó là lốt của vợ mình, lập tức anh chạy vào xé nát tấm da.

Rồi đó hai vợ chồng sánh vai bước vào cổng trường lúc bấy giờ đã chật ních những người. Mọi con mắt đều tròn xoe kinh ngạc vì vợ anh học trò mà họ tưởng là cóc, thì lại là người so với mọi người đàn bà khác như trời với vực. Quả đó là một vị tuyệt thế giai nhân.

Từ đó hai vợ chồng quấn quýt với nhau không rời[1].

KHẢO DỊ

Người Nghệ-an có truyện Vợ cóc là một dị bản của truyện trên nhưng không nói tới các cuộc thi, cũng không nói tới việc cóc đi canh lúa:

Vợ chồng một nhà nọ sinh được một con cóc và nuôi đến chín mười năm. Một hôm cả nhà đi vắng, cóc ở nhà hóa thành một người con gái xinh đẹp ngồi dệt vải lại dọn dẹp trong nhà sạch sẽ. Có một bọn học trò đi qua, cô gái đẹp ra cửa têm trầu mời khách ăn. Nhưng đến khi họ vào thì không thấy cô gái đẹp đâu nữa, mà chỉ thấy một con cóc, bèn bỏ di. Riêng có một anh học trò trong số đó, lúc về giục mẹ đi hỏi: – “Nó là cóc, con lấy làm gì?” – “Mẹ cứ hỏi cho con đi”. Bố mẹ cóc nhận lời gả con, không đòi hỏi gì. Ngày đưa dâu chẳng mấy ai dự, người ta bỏ cóc vào võng đưa về. Ai cũng chê cười: – “Người mà lấy cóc!”. Nhưng đến đêm thì cóc hóa thành người, sáng dậy lại trở lại hình dạng cóc. Được ba ngày, chồng bảo vợ: “Người ta cười quá lắm, nàng phải làm cho họ thôi cười mới được”. Cóc bèn hóa thành người ra mắt bà con làng xóm. Bố mẹ chồng thấy thế mừng quá, giết trâu bò mời họ mời làng. Người ta nói: “Ăn cưới không bằng lại mặt” là thế[2].

Trong truyện trên, chắc người kể đã lược đi nhiều tình tiết của truyện, nhưng vẫn giữ được một tình tiết đáng chú ý: vợ chàng học trò trước khi chuyển hóa thành người, đã có thời gian ngày là vật, đêm lại là người.

Một truyện khác phổ biến ở miền Nam là truyện Nàng Út có một số tình tiết giống và khác với truyện Lấy vợ cóc:

Hai vợ chồng nhà nọ hiếm con, hết lời cầu xin đức Phật để có một đứa. Người vợ sau đó tự nhiên có mang và đẻ ra ở đằng trán một cô bé bằng ngón tay nên đặt tên là Nàng Út. Cho là quái, bố mẹ chỉ những muốn vứt bỏ đi đâu cho khuất mắt. Một hôm, người bố đưa Út lên rừng sâu, bảo Út đứng chờ một chỗ, chờ chặt củi xong thì sẽ mang về. Nhưng sau đó ông ta theo đường khác lẻi về, bỏ con lại. Út cứ chờ bố hết ngày này qua ngày khác. Trước đó có một con quạ ăn dưa nhả hạt ở gần chỗ Út đứng. Hạt mọc thành cây. Út dùng lá dưa như một thứ mái để che sương gió. Cây có quả, Út nâng niu quả dưa, định bụng dành cho bố.

Bỗng có một hoàng tử đi săn qua đấy thấy quả dưa chín bèn hái ăn, quẳng vỏ lại. Út ăn dưa thừa, tự nhiên có mang, đẻ ra một đứa con trai cũng bé xíu như mẹ nó. Hai mẹ con ở trên cây đa. Sau đó một hôm nhớ tới quả dưa ăn lần trước, hoàng tử bèn tìm đến khu rừng cũ. Trông thấy mẹ con Út, hoàng tử bỏ cả vào hai túi đua về cung rồi lấy Út làm vợ. Vua cha thấy thế giận lắm, tìm cách chia rẽ.

Một hôm vua ra lệnh cho các cung nữ, ai may áo cho vua vừa vặn thì sẽ cho làm vợ hoàng tử. Bộ quần áo vua mặc vừa vặn và đẹp nhất là của nàng Út. Vua lại ra lệnh ai dọn cỗ mà vua nếm thấy ngon thì được làm vợ hoàng tử. Cỗ ngon nhất lại là của Út. Vua lại sai mở hội trong cung thi sắc đẹp, kén vợ cho hoàng tử. Trong khi hoàng tử lo lắng thì Út lập đàn cầu trời. Thần hiện xuống làm cho nàng lớn lên như người thường, nhan sắc tuyệt vời. Vua hài lòng cho phép hoàng tử lấy Nàng Út[3].

Lê Duy Thiện diễn ca truyện Nàng Út có kể lại nàng Út là tiên mà Ngọc Hoàng cho đầu thai. Khi sinh ra chỉ bằng con dế. Người bố mang lên nương để lại ở chòi. Có một thái tử nước Triệu đến tuổi lấy vợ, vua cha định hỏi công chúa các nước cho con, lại cho con mở hội kén vợ, chàng đều không màng. Đi săn vào chòi Út, thấy quả dưa, thái tử bèn ăn, ăn xong vứt vỏ, đái vào vỏ rồi trở về. Út từ chỗ nấp bước ra không biết, ăn phải vỏ dưa có mang sinh được một con trai “to lớn tức thời”. Sau ba năm thái tử nhớ chốn cũ lại đi, thấy đứa bé giống mình bèn nhận Út làm vợ, đưa về cung. Ở đây cũng có ba cuộc thi như trên. Lần thi thứ ba, thiên đình làm cho Út thành người lớn, xinh đẹp, lại cho một quạt, một đàn. Quạt đàn này khi các nước đến xâm lăng thì:

… Quạt vào giông tố liền ra.

Đá văng cây ngã xem đà dữ thay!

… Nghe đờn (đàn) liệt quốc suy lòng.

Âu làm hàng biểu cho xong mà về[4].

Một truyện khác Người lấy cóc lưu hành ở một địa phương miền Bắc, nhưng nội dung thì lại giống với truyện Lấy chồng dê (số 128), chỉ có khác nhân vật ở đây là cóc[5].

Đồng bào Tày (Thổ) có truyện Kim Quế:

Nàng Kim Quế, con gái đức Phật Thiên đàng vì tính tình phóng túng nên bị đày xuống trần, nhưng lại sinh lạc vào xã hội loài khỉ. Tuy vậy, nàng vẫn có tài nghệ hơn đời, thường ngày chẻ tre đan chiếu, chiếu đẹp như lụa thêu, gấm dệt.

Một hôm có bà lão tới nhận đem chiếu đi bán, bà lão bán cho hoàng tử Chúa Ba. Thấy chiếu đẹp, Chúa Ba lên rừng để gặp. Sau khi trò chuyện, mới biết tuy rằng đội lốt khỉ mà là người tiên, bèn rước về cùng nhau ăn ở như vợ chồng.

Muốn trêu tức Chúa Ba, vua ra lệnh cho hoàng tử phải làm cỗ yến, ngon thì sẽ nhường ngôi cho. Kim Quế nhờ chị em tiên xuống làm hộ nên cỗ Chúa Ba được giải nhất. Lần thứ hai thi may áo, lại đoạt giải nhất, nhờ sai ruồi vào cung đo người vua. Lần thứ ba thi vợ đẹp, Kim Quế gọi tiên nữ xuống mang “nha linh đơn” để tắm. Tắm xong, khỉ biến thành người đẹp, lại chiếm giải. Kết quả, Chúa Ba được vua nhường ngôi[6].

Người Mèo có truyện Nàng tiên khỉ cũng lấy khỉ thay cho cóc:

Một ông vua có ba hoàng tử, riêng hoàng tử thứ ba người xấu xí, một hôm đi lạc vào nước khỉ và yêu nàng công chúa khỉ vốn là một nàng tiên giáng trần. Khi đưa vợ về, hoàng tử bị mọi người dè bỉu, nhất là vua cha. Để buộc con bỏ vợ, vua cho tổ chức lần lượt ba cuộc thi giữa ba người vợ của ba hoàng tử, ai nhất thì chồng được vua nhường ngôi, ai kém thì phải đuổi. Lần đầu thi dọn cỗ, khỉ nhờ hai trăm bạn tiên xuống giúp cho mỗi người một món; lần thứ hai may áo quần, khỉ nhờ bạn tiên mang gấm vóc xuống may và tàng hình vào cung vua đo khổ người; lần thứ ba thi sắc đẹp, khỉ đến cung rùng mình hóa thành người đẹp tuyệt trần, áo quần như dát vàng dát bạc. Hoàng tử thứ ba quả được truyền ngôi như truyện của người Tày[7].

Người Miến-điện (Myanmar) có truyện Nàng Nhái:

Có hai vợ chồng già hiếm hoi, đẻ được một con nhái. Họ giữ lại nuôi, người ta gọi là “Cô bé nhái”. Mẹ cô chết, người bố lấy vợ kế có hai con riêng, chúng nó xấu bụng ghét nhái. Hồi ấy hoàng tử thứ tư làm lễ kén vợ bằng cách ném hoa. Các tiểu thư được gọi vào cung. Nhái cũng đòi đi, chúng chế giễu không cho vào cửa. Nhái nói khéo, được lính cho vào. Các cô tiểu thư xõa tóc, Hoàng tử tung hoa huệ lên trời, không ngờ hoa rơi trúng đầu nhái. Hoàng tử đành kết hôn với nhái, người ta gọi là “bà chúa nhái”. Một hôm vua cha muốn truyền ngôi cho con, mới mở một cuộc thi tìm bắt nai vàng. Các hoàng tử khác chỉ tìm dược những con nai thường, chỉ có chồng nhái nhờ có nhái, tìm được nai vàng. Vua cha lại mở cuộc thi đem đến thức ăn sống nhưng sau buổi lễ, gạo phải không mốc, thịt không ôi. Các hoàng lử khác đem gạo thịt nấu sẵn, chỉ có nhái đưa gạo thịt sống đến, trải qua mấy ngày mà vẫn tươi. Lần thứ ba vua thi vợ đẹp. Thấy hoàng tử lo lắng định đi tìm một cô gái đẹp, nhái bảo: “Cứ đưa em đến là đủ!”. Khi đến nhái bước lên điện, nhái vẫn là nhái. Hoàng tử thứ tư thẹn đỏ mặt khi vua hỏi: “Tiểu thư xinh đẹp của con dâu?” Nhưng nhái đã bước ra nói: “Thưa con đây!”. Nói rồi cởi da nhái hóa thành cô gái đẹp như tiên. Hoàng tử vội vàng chụp lấy tấm da ném vào lửa[8].

Người Pháp cũng có truyện Con nhái gần giống với truyện trên:

Một người đàn bà đang muốn tìm vợ cho hai con trai. Những cô gái xung quanh đều từ chối. Một hôm hai anh em bàn nhau bói vợ bằng cách mỗi người bắn một phát tên, gặp ai lấy nấy. Mũi lên của người anh rơi vào một chuồng gà, gần đấy có cô gái xinh đẹp mười tám tuổi. Còn mũi tên của em không may rơi xuống bùn, một con nhái nhảy ra.

Em đành phải lấy nhái làm vợ. Nhái đưa chồng về sống chung trong một căn lầu, không có ai lai vãng. Một hôm hai anh em tìm đến nhà chú là một vị vua cai trị nhiều nước. Người chú ra một cuộc thi vui nhộn, hẹn mỗi người đem chó đến, chó của ai chạy qua mấy hàng chai lọ mà không đổ thì cho cai quản một nước. Nhái đưa cho chồng một cái hộp, mở ra có một con chó con, chó chạy lon xon tránh né rất gọn, không có một chai lọ nào đổ cả, trong khi đó chó của người anh thì làm đổ lung tung. Thế là chồng nhái được cai quản một nước. Lần thứ hai chú lại mở cuộc thi: ai đưa đến một sợi dây nắm gọn trong tay, nhưng có thể quấn quanh lâu dài ba vòng thì cho cai quản một nước khác. Dây của người anh chỉ quấn được hai vòng, còn dây của chồng nhái quấn đến năm vòng. Lần thứ ba người chú lại thi vợ đẹp. Vợ nhái chuẩn bị một cái xe to bằng quả quýt có bốn con chuột kéo và một con mối (thạch sùng) cầm cương. Trước khi lên đường, nhái nhảy xuống bùn một lát, bước lên là một cô gái rất xinh, mặc áo đẹp, xe của nhái hoá thành cỗ xe bốn ngựa có người xà-ích ăn mặc sang trọng. Thế là được chú cho cai quản một nước thứ ba[9].

Truyện của người Ả-rập vùng sông Nin (Nil):

Một ông vua có ba người con. Khi con đến tuổi lấy vợ, người bố bảo họ trèo lên nền của một lâu dài, mỗi người bắn một phát tên, trúng vào đâu thì lấy vợ ở đó. Mũi tên của hoàng tử cả rơi xuống nhà một viên đại thần, được kết duyên với con gái ông ta. Mũi tên của hoàng tử thứ hai rơi vào nhà một viên tướng, cũng được lấy con ông này. Mũi tên của hoàng tử thứ ba rơi vào một gian nhà có một con rùa lớn. Hoàng tử đành phải lấy rùa làm vợ như lời vua cha đã giao ước.

Sau đó, một hôm vua ăn không ngon, ra lệnh cho mỗi hoàng tử phải mang đến một mâm thức ăn. Hai mâm thức ăn của hai người chị dâu đưa đến trở nên tanh tưởi hôi hám (do rùa làm ra như thế), còn mâm của rùa được vua khen ngợi vì ăn ngon. Vua sai dọn tiệc mời vợ các hoàng tử tới dự. Rùa bảo chồng đưa mình đến. Sắp tới nơi, rùa trút vỏ hóa thành một cô gái áo quần rực rỡ, cử chỉ lịch sự. Còn hai chị do rùa hóa phép làm cho áo quần trở nên lố lăng, đã thế lại bắt chước cử chỉ của rùa nên làm trò cười cho mọi người. Trong khi đó thì hoàng tử út bí mật ra đốt cái vỏ rùa, để cho vợ khỏi trở lại kiếp vật.

Truyện của người Thổ Thát-đát ở núi An-tai (Altai):

Một người lái buôn có ba người con, một hôm bảo họ: “Đứa nào mộng thấy vợ như thế nào thì lấy người như thế ấy”. Người anh cả lấy con gái một lái buôn, người thứ hai lấy con một viên chức; còn người thứ ba mộng thấy được làm chồng nhái, đành phải lấy một con nhái.

Một hôm bố chồng sắp đi chầu vua, bảo nàng dâu thứ nhất may một cái áo, nàng dâu thứ hai may một cái quần, còn nàng dâu thứ ba khâu một đôi ủng. Nhái đưa cho chồng một đôi ủng thêu rất đẹp. Còn công trình của hai người kia không đáng kể. Sau đó, bố chồng bảo ba nàng dâu làm bánh. Bánh của nhái ăn rất ngon, còn của hai người kia rất dở. Sau đó, bố chồng lại bắt ba nàng dâu tới hát trước mặt mình. Dâu nhái xuất hiện dưới dạng một cô gái, hát những bài hay đến nỗi bố chồng nói với mọi người rằng chưa bao giờ ông thấy có một người thanh sắc tuyệt vời như vậy. Bèn gầy dựng cho con út thành một lái buôn lớn, còn hai người con kia trở thành kẻ chăn cừu, vợ của họ thành đầu bếp.

Truyện của một địa phương ở Đức:

Một ông vua bảo ba hoàng tử ai mang về một tấm thảm đẹp nhất, sẽ cho thừa kế ngai vàng. Đoạn vua cho thổi lên trời lần lượt ba cái lông chim, để lông chỉ cho từng đứa con hướng đi tìm. Chiếc lông thổi cho hoàng tử thứ ba rơi trúng một cửa hầm, hoàng tử nhấc cửa hầm lên thấy có tam cấp đi xuống đất rất sâu, bèn cứ thế trèo xuống, cuối cùng thấy có một con cóc lớn, xung quanh là một bầy cóc con. Biết được cái mà hoàng tử cần, cóc cho hoàng tử một tấm thảm. Đưa về, thảm ấy đẹp vượt xa của các anh. Lần thứ hai, vua bảo các con đi tìm một cái nhẫn. Cũng tại đáy hầm, nhờ cóc, hoàng tử lấy được nhẫn thần đưa về cho vua cha. Lần thứ ba vua bảo mỗi người đi tìm một cô vợ, ai có vợ đẹp nhất sẽ được nối ngôi. Cũng tại đáy hầm, cóc cho hoàng tử một con cóc con, lúc về hóa thành cô gái đẹp[10].

Một loạt truyện sau đây cũng cùng một chủ đề và hình tượng như các truyện trên (người lấy vợ là vật, khi đưa về thì ngày là vật, đêm là người, lại có nhiều phép huyền diệu nhờ đó giành thắng lợi trong các cuộc thi). Nhưng do chồng làm tiết lộ bí mật của vợ, hoặc nôn nóng muốn vợ sớm hóa thành người nên đã gây ra sự chia ly vĩnh viễn (hoặc tạm thời nhờ có sự nỗ lực cứu vãn của chồng qua nhiều thử thách).

Truyện của người Nga Công chúa ếch:

Một ông vua cũng có ba hoàng tử, lúc họ đến tuổi lấy vợ cũng có cuộc bói vợ bằng cách bắn mỗi người một phát tên, hễ cô nào nhặt được tên của ai thì sẽ là vợ của người ấy. Kết quả, có hai cô gái nhặt được mũi tên của hai hoàng tử anh, còn mũi tên của hoàng tử thứ ba thì cũng như truyện trên, do một con ếch nhặt được, đành phải tuân theo số mệnh. Một hôm vua cha muốn biết tài may vá của các nàng dâu, lần thứ hai muốn biết tài nấu nướng và lần cuối cùng là tài khiêu vũ trong dạ hội. Hai lần thi đấu, nàng dâu ếch làm đẹp lòng vua cha. Lần thứ ba, thấy chồng buồn, ếch bảo đừng lo, rồi trút lốt thành một cô gái tuyệt đẹp sánh vai chồng vào dự hội. Khi ăn tiệc, ếch bỏ những miếng xương và rượu thừa vào ống tay áo. Hai chị dâu cũng bắt chước. Khi nhảy, ếch vung tay áo, có hàng đàn chim bay ra cùng cảnh núi sông xuất hiện rất đẹp mắt. Khi hai chị vung tay áo thì xương xẩu cùng những giọt nước tung tóe vào khách. Hết dạ hội, hoàng tử thứ ba đi tìm lốt ếch đốt đi. Vợ về nhà tìm mãi không được, chỉ kịp cho chồng biết rằng một khi mất lốt, hai người sẽ phải chịu cảnh chia lìa, đoạn biến mất.

Được hơn một năm, chồng nhớ vợ bỏ nhà đi tìm. Tìm mãi mới biết vợ mình đang bị biến thành một chiếc quạt vàng của một bà tiên. Hoàng tử cướp được quạt, bẻ gãy chuôi thì công chúa ếch hiện ra. Ếch cho chồng biết chỉ một tý nữa là mình sẽ bị buộc đi lấy chồng. Lập tức hai vợ chồng ngồi lên một tấm thảm bay. Bay được một chốc, chú rể mới biết tin đuổi theo. Đuổi gần kịp thì tấm thảm đã đưa hai vợ chồng vào nước Nga, mọi người ở đây đổ xô ra đón tiếp hai vợ chồng. Từ đấy không có gì làm cho họ chia lìa nhau nữa[11].

Một truyện của Ấn-độ:

Một ông vua cũng mở cuộc bắn tên cho bảy hoàng tử bói vợ. Mũi lên của người thứ nhất rơi vào nhà của một viên đại thần, năm mũi khác đều lọt vào lầu của các nhà quý tộc, còn một mũi tên của hoàng tử út thì rơi trúng vào một cây me. Theo quyết định của vua cha, hoàng tử út phải lấy một con khỉ sống ở cây me, nhưng các nhà tiên tri đều biết rằng vợ hoàng tử là một nàng tiên. Tuy là khỉ, nhưng vợ hoàng tử lại nói khéo, giỏi âm nhạc và có nhiều tài nghệ (ở đây gần giống với tình tiết trong truyện Kim Quế của đồng bào Tày).

Các chị dâu tò mò đòi mở một cuộc lễ cho các nàng dâu tới dự. Vợ hoàng tử thứ bảy thấy chồng buồn, bèn an ủi chồng, nói mình có thể đi dự được. Nói rồi cởi lốt khỉ thành một cô gái đẹp, mặc áo quần đẹp. Đoạn bảo chồng: – “Hãy giữ cẩn thận cái lốt này nếu mất nó chúng ta sẽ gặp chuyện bất hạnh”. Trong cuộc lễ, nàng dâu út đang lúc được mọi người trầm trồ ca ngợi thì bỗng quằn quại kêu lên mấy tiếng: “Tôi cháy! Tôi cháy!” rồi biến mất. Chính lúc đó ở nhà hoàng tử đang đốt cái lốt khỉ. Thế là hoàng tử mất vợ, mất luôn cả lâu đài do vợ hóa phép hiện ra, chỉ còn tìm được có mỗi một chiếc sáo bạc. Hoàng tử cầm sáo bạc đi tìm vợ, cuối cùng gặp một vị thần chỉ đường cho vào vườn nhà trời. Ở đây chồng thấy vợ đang ngồi trên một cái ngai bằng kim cương, bèn mang sáo ra thổi lên một bài: vợ nhận ra chồng. Nhờ vua nhà trời say mê tiếng sáo nên chàng được cùng vợ sum họp và sống trên đó.

Truyện của Phần-lan (Finlande):

Túc-ki-mô là con trai út của một ông vua. Ở đây cũng có một cuộc bói vợ bằng cách bắn tên của ba hoàng tử. Khi Túc-ki-mô đi tìm mũi tên ở trong rừng thì thấy ngồi lên đó là một con nhái: – “Chào hoàng tử, nhái nói, tôi bây giờ là vợ chưa cưới của chàng”. Túc-ki-mô mang nhái về không vui một chút nào.

Một hôm vua bảo các nàng dâu: – “Mai ta sẽ đến xem các cô nấu ăn ra làm sao?”. Khi trở về, nhái bảo chồng ngủ, để mình còn sửa soạn bữa ăn. Hoàng từ giả vờ ngủ thì thấy vợ đã cởi lốt, hóa thành một cô gái đẹp bước ra cửa sổ gọi lớn: – “Hỡi giống nòi hùng mạnh, gia đình danh tiếng! Hãy tới giúp tôi dọn bữa tiệc cho vua!”. Tự nhiên có tám con thiên nga đỗ xuống, treo bộ cánh ở tường và hóa thành những cô gái đẹp. Cùng với vợ nhái, các cô dệt những khăn ăn đẹp và nấu những món ăn tuyệt phẩm làm cho lòng kiêu căng của các chị dâu xẹp xuống. Lần thứ hai, hoàng tử mang đến cho vua một sơ-mi do vợ mình dệt tuyệt đẹp. Lần thứ ba trong hội khiêu vũ, vợ nhái đã nhảy những điệu kỳ diệu. Túc-ki-mô đi hỏi một bà thầy bói làm sao để cho vợ sẽ là người mãi mãi. – “Phải trộm cái áo da nhái và đốt đi!”. Hoàng tử nghe theo. Trở về, vợ trách chồng hết lời: – “Đáng lý đợi ba hôm nữa, tôi sẽ thành người vĩnh viễn, còn như thế này thì đành phải chia tay”. Đoạn biến thành thiên nga bay mất.

Một số truyện sau đây cũng là dị bản của truyện Người lấy cóc nhưng kết cấu có biến dạng: một phần kết hợp với hình tượng của truyện Giáp Hải (số 149, tập IV), (cô gái trong con vật hiện ra lúc vắng người, nấu ăn quét dọn nhà của cho ân nhân) và một phần nữa thì tương tự với truyện Hoàng tử A-mét với nàng Pa-ri Ba-nu trong Nghìn lẻ một đêm (xem Khảo dị truyện số 107, tập III).

Truyện của Ác-mê-ni (Armenie):

Một ông vua có ba hoàng tử. Khi đến tuổi kết hôn, theo phong tục, họ phải đến dự một đám hội và quẳng quả táo vào đám đông để bói vợ. Hai quả táo của hai hoàng tử anh trúng hai cô gái, còn của hoàng tử út rơi vào một cái giếng trong có một con nhái. Coi là định mệnh, hoàng tử đành phải đem nhái về. Mấy ngày đầu mỗi khi hoàng tử về nhà đều thấy bàn ăn đã dọn sẵn. Để ý rình xem, hoàng tử thấy một cô gái đẹp từ lốt nhái bước ra làm bếp. Hoàng tử bèn đột ngột xông vào ôm lấy cô gái, và mặc dù cô cho biết rằng sẽ phải hối hận, hoàng tử cũng xé lốt nhái để cho cô thành người.

Một hôm vua ra lệnh cho các con phải mang một tấm thảm lớn có thể cả một đội quân ngồi lên mà vẫn còn thừa. Hoàng tử về khóc với vợ. Vợ nói: – “Thấy chưa! Tôi đã bảo đừng xé lốt của tôi. Nhưng đừng có làm ầm lên. Hãy đến cái giếng mà anh vớt tôi về, gọi to: “Con gái ông bảo tôi đến thưa với ông gửi lên cho nó một tấm thảm bé nhất của ông”. Đưa thảm về, vua rất vừa ý. Lần thứ hai lại một thử thách mới, và nhờ bố vợ, hoàng tử cũng làm xong. Thử thách thứ ba là “tìm một con người cao một gang, râu dài hai gang”. Vẫn theo lời vợ dặn, hoàng từ đến giếng gọi to: – “Con gái ông bảo đưa lên cho nó một người lùn nhỏ của ông”. Đưa đến cung vua, người lùn nhỏ mắng vua sa sả về những đòi hỏi ngu ngốc và tặng cho vua những quả đấm. Đến quả đấm cuối cùng, vua vỡ đầu. Hoàng tử út bèn lên ngôi.

Một truyện khác cũng của người Ác-mê-ni (Armenie):

Một chàng trai theo lời bà dặn mỗi buổi sáng ném xuống biển một tấm bánh. Anh làm việc đó không nản. Bỗng một buổi chiều đi chợ về, anh thấy nhà mình đã được quét tước dọn dẹp sạch sẽ, một hôm khác thì thấy thịt sống mua làm thức ăn đã được nấu lên. Cũng như hành động của nhân vật Giáp Hải hay Tú Uyên, anh giả vờ đi nửa đường lộn về nấp rình thì thấy một con cá từ dưới nước hiện lên trút lốt thành cô gái tới làm bếp cho anh. Anh từ chỗ nấp xông ra bắt lấy, và sau đó được sự đồng ý của người bà của con cá, lấy nàng làm vợ.

Thấy vợ chàng xinh đẹp ít có, nhà vua lập tâm chiếm đoạt. Vua bèn đưa ra những đòi hỏi không thể thực hiện được buộc anh phải làm nếu không thì giết chết. Trước hết, anh phải đi tìm một cái nhà bạt có thể che cho tất cả lính tráng và dân cư trong thành phổ mà vẫn còn thừa chỗ. Cô vợ cá thấy chàng kêu khóc, bèn đến bờ biển gọi to: – “Bà ơi, bà mang cho cháu cái nhà bạt bé nhất!”. Thấy việc thứ nhất làm xong, vua lại đòi một tấm thảm rộng trải trong nhà bạt. Sự việc cũng diễn ra như lần trước. Sau cùng nhà vua bắt đưa đến một đứa trẻ lên một biết nói biết đi. – “Bà ơi! Cô vợ cá gọi, bà đưa em cháu lên đây để cháu bế tý!”. Đứa bé lên gặp vua, nó liền vạch thói xấu của vua, vả vào mặt vua. Vua phải xin lỗi và hứa chừa[12].

Về loại truyện có mô-típ đặc biệt: người nữ ăn thức ăn thừa của người nam và có mang, kho tàng cổ tích ở Đông nam Á hầu như rất phổ biến. Sau đây là một số truyện tiêu biểu:

Ngày xưa, có một người đầy mụn lở (gọi là ông chúa Trăm-ngàn-mụn-lở) không biết từ đâu đến vỡ hoang một miệng đất trên bờ sông. Ông trồng nhiều ớt và dưa chuột làm kế sinh nhai. Ở gần nhà có một cây dưa chuột có một quả lớn phi thường nhờ nước giải của ông thường ngày bón cho cây.

Quả dưa chuột ấy sau đó về tay công chúa con vua Trai-trung. Công chúa ăn và tự nhiên có mang. Vua cho người dò la xem con gái mình quan hệ với ai nhưng không tìm ra. Vì thế đứa con trai công chúa sinh ra lên ba tuổi mà không có cha. Vua nghĩ ra một cách để biết ai là bố đẻ của nó, tức là bắt tất cả đàn ông ở Trai-trung mỗi người cầm một món thức ăn ở tay, hễ đứa bé đến xin ăn ở người nào thì người ấy là bố nó. Bèn đánh trống hội họp toàn mường lại, ban cho mỗi người một vật ăn được như người này cái bánh, người kia quả cây, v.v… không sót một ai. Vua bảo vú nuôi đặt đứa bé ở cửa lầu trước mặt mọi người. Lúc ấy ông chúa Trăm-ngàn-mụn-lở trong tay đang cầm miếng cơm nguội. Đứa trẻ đi khắp nơi không xin ăn ở ai cả mà đến xin ăn ở ông. Vua lập lức gả công chúa cho người ấy và sai đóng bè đuổi cả hai vợ chồng ra khỏi thị trấn.

Chiếc bè dừng lại ở vườn dưa, hai vợ chồng ở lại đây. Thần Đế Thích (In-dơ-ra) hiện ra cho họ một cái trống thần bảo hễ ước cái gì thì đánh một tiếng trống, sẽ được ngay. Lời ước đầu tiên của ông là làm sao cho mình được đẹp. Tự nhiêu bao nhiêu mụn lở biến mất. Thấy vậy công chúa mừng rỡ, lại ước có vàng đủ đúc cho con trai một cái nôi. Vì vậy mà có tên là hoàng tử Nôi vàng. Về sau họ làm vua, xây dựng thành phố ở đấy[13].

Ta-bong là một chàng lười bẩm sinh, một hôm đi câu. Ba lần câu được cá thì ba lần bị quạ tha mất. Đến con thứ tư hắn đái vào đầu cá. Quạ lại tha cá đi nhưng đánh rơi vào bể nước ở cung vua. Công chúa thứ ba bắt đước cá đem về nấu ăn, không ngờ có mang. Vua muốn tìm ra bố đứa bé, bèn sai công chúa ném khăn trầu vào đám hội có đông đủ dân chúng đến dự xem khăn rơi vào người nào, nhưng khăn lại không rơi vào người nào cả. Vua hỏi xem còn sót những ai. Người ta cho biết chỉ sót anh chàng Ta-bong vì lười mà không đến. Vua cho đi gọi. Ta-bong vẫn không đi. Vua phải cho người cáng hắn đến đám hội. Lần này khăn trầu của công chúa rơi đúng vào khố Ta-bong. Vua sai lính giết cả hai nhưng lính lén lút tha cho họ, rồi lấy máu chó bôi vào gươm để tâu dối với vua.

Nằm thẳng cẳng dưới cây xoài. Ta-bong chờ cho quả rơi vào miệng mới ăn. Vua quạ đến ăn xoài thấy anh, tưởng là cái xác chết bèn sà xuống mổ, liền bị anh tóm cổ. Quạ phải cho anh hòn đá ước. Nhờ có đá, anh ước ra lâu đài nhà cửa, trâu bò và kẻ hầu người hạ ở trên phía nguồn. Một hôm anh sai quân đắp chắn nguồn nước. Thấy dân khổ vì sông khô cạn không có nước dùng, nhà vua sai người lên phía nguồn thăm dò, thì thấy lâu đài nguy nga, trên có cắm một lá cờ đề chữ “Vua mới”. Quân đội nhà vua kéo lên định đánh. Nhưng trên thành lại treo một lá cờ khác bảo vua cũ hãy nhường ngôi cho vua mới, dân sẽ có nước uống. Sau khi nghĩ ngợi, vua thuận nhường ngôi cho con rể[14].

[1] Theo lời kể của người miền Bắc, và Lăng-đờ (Landes), sách đã dẫn.

[2] Theo Bản khai của sách Hữu-tập, sách Vĩnh-lại, sách Nhiêu-hợp, tập I.

[3] Theo Lăng-đờ (Landes), sách đã dẫn.

[4] Theo Thơ Nàng Út.

[5] Theo Sê-ông (Chéon). Sưu tầm một trăm bài tiếng An-nam.

[6] Theo lời kể của người Thái-nguyên, Cao-bằng.

[7] Theo Truyện cổ dân tộc Mèo.

[8] Theo Miến-điện dân gian cố sự, sách đã dẫn.

[9] Theo Truyện kể Ni-véc-ne (Nivernais), Pháp.

[10] Một dị bản sưu tầm ở đảo Xi-ra (Syra) (Hy-lạp) đại thể cũng có một ông vua bảo ba người con bắn tên để bói vợ. Kết quả hoàng tử cả lấy được công chúa ở một nước khác, hoàng tử thứ hai lấy con gái một hoàng tử nọ. Còn hoàng tử ba thì mũi tên cắm vào một đống phân, moi ra thì thấy ở dưới có một tấm đá cẩm thạch lật lên, thấy có đường tam cấp dẫn xuống một cái hang. Ở đây thay cho cóc là những con khỉ ngồi xung quanh một con khỉ mẹ. Mẹ khỉ bảo hoàng tử lấy một trong số con gái mình làm vợ… Tiếp đó là những công việc do vua cha ấn định: vua hứa sẽ nhường ngôi cho người nào trang hoàng nhà cửa đẹp, đưa đến một giỏ trái cây tươi ngon; có người vợ trong ngày hội được tôn là đẹp nhất. Vợ khỉ bảo chồng nhờ mẹ mình làm tốt hai việc trên, còn việc thứ ba thì vợ khỉ mặc áo quần đẹp, cưỡi ngựa đẹp và dĩ nhiên đã biến thành cô gái đẹp, nên được mọi người trằm trồ khen ngợi.

[11] Theo Truyện dân gian Nga (bản dịch của Nguyễn Hải Sa).

[12] Một số truyện trên đều theo Cô-xcanh (Cosquin). Những truyện cổ tích Ấ-độ và phương Tây.

[13] Theo La-jông-ki-e-rơ (Lajonquière): Nước Xiêm và người Xiêm. Về loại truyện như truyện trên với tình tiết vô tình có thai, Prơ-di-luýt-xki (Przylusski) cho biết có nhiều truyền thuyết tương tự trong Nàng công chúa tanh mùi cá và con rắn thần trong các truyền thuyết ở Đông á, Nghiên cứu châu Á, tập II (1925).

Có thể xem thêm một số truyện trong Nghiên cứu những lễ tiết nông nghiệp của người Cao-miên của Ê-vơ-lin Pô-rê Mát-xpê-rô (Eveline Poret Maspéro).

[14] Theo Lăng-đờ (Landes): Truyện cổ tích Cham-pa. Người Mèo cũng có một truyện tương tự: Một anh chàng lười bẩm sinh. Bị bố mẹ đuổi, hắn nằm trên thuyền, thuyền giạt vào một gốc sung. Từ đấy hắn sống bằng cách há miệng chờ sung, ăn đấy ỉa đấy. Cá và quạ rủ nhau đến ăn, chúng cắn nhau, cuối cùng quạ quắp cá mang đi, tình cờ đánh rơi vào vườn vua. Công chúa thấy cá bắt lấy nướng ăn, từ đấy có mang đẻ ra một con trai: thằng bé khóc lóc luôn canh, ai dỗ cũng không nín. Để tìm ra bố đứa bé, vua ra lệnh cho dân chúng mỗi người đến dỗ một lần. Lười không đến, nhưng rồi vua cũng sai lính khiêng đến. Đứa bé quả nín. Vua gả công chúa cho Lười và đuổi đi. Hắn lại đến chỗ cũ sống bằng sung rụng. Một con quạ tưởng là xác chết định rỉa thịt, bị hắn bắt được. Quạ phải cho hắn một cái trống có ba mặt: một mặt đánh ra cơm thịt, một mặt đánh ra áo quần tiền bạc, một mặt đánh ra cuốc và đồ dùng. Dùng trống càng lâu càng phải đánh nhiều mới nghiệm. Nhờ đó mà Lười bỏ được tật lười (Truyện cổ dân tộc Mèo). Giống truyện trên, người Dao Thanh-y có truyện Vua Quạ. Ở đây trống vua Quạ cho có 4 mặt: một mặt đánh ra mưa, một mặt ra nắng, một mặt ra gạo, một mặt ra vàng bạc. Khi giàu rồi, chồng bảo vợ đón bố về chơi. Bố vợ (vua) bảo phải có vàng rải đường mới chịu đi. Chồng gõ trống có ngay. Bố vợ ngốt cả người, mải ngắm, đầu đập vào tường, chết (Đức Hùng, Phù Ninh: Nàng Ái Kao).

Chọn tập
Bình luận