Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Xác Thịt Về Đâu

Chương 4

Tác giả: Samuel Butler

Trận Waterloo xảy ra sau đó một hoặc hai năm, và rồi hòa bình đến âu châu. Ông George được xuất ngoại nhiều lần. Tôi nhớ là nhiều năm sau đó, ở Battersby, tôi đã được đọc quyển nhật ký mà ông mang theo trong suốt chuyến đi đầu tiên. Đó là một quyển sổ rất đặc biệt. Tôi có cảm giác rằng ông George đã chuẩn bị cho mình một tư tưởng chỉ ái mộ những gì ông cho là đáng ái mộ, chỉ nhìn vào tự nhiên và nghệ thuật qua những lăng kính mà ông học được từ những kẻ mạo danh và hợm hĩnh vốn truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Lần đầu tiên nhìn thấy đỉnh mont Blanc khiến ông ngất ngây như thói thường người ta vẫn vậy. ‘Tôi không thể diễn tả nổi cảm giác của mình. Lúc chớm thấy tòa tu viện trên rặng núi, tôi đã há hốc mồm, và thậm chí còn không dám thở ra hơi. Dường như tôi thấy thần linh đang ngồi trên chiếc ngai kì diệu, vươn cao khỏi những người anh em đang mong mỏi Người, và dường như sự cô độc của Người bất chấp cả vũ trụ này. Cảm xúc tràn ngập trong tôi đến nỗi tôi gần như mất tự chủ và ngoại trừ tiếng kêu bật lên lúc mắt mới nhìn thấy ngọn núi, tôi không dám thốt lên một lời nào cho đến khi dòng nước mắt tuôn trào xoa dịu khoảng hồn thao thức của tôi. Tôi đau đớn bật khóc khi nghĩ đến việc lần đầu tiên được chứng kiến cảnh tượng siêu phàm này từ khoảng không mờ mờ ảo ảo (mặc dù tôi cảm thấy tâm hồn và đôi mắt mình đã cuốn theo nó mất rồi).’ Sau khi đã xem cận cảnh dãy Alpes từ Geneva, và đi được chín trên mười hai dặm đường dốc xuống, ông viết: ‘Tâm trí và tâm hồn tôi tràn ngập quá đỗi, đến mức tôi không thể ngồi nghỉ, và chỉ thấy nhẹ nhõm được đôi chút sau khi chuyến đi bộ đã vắt kiệt xúc cảm của mình.’ một lúc sau, ông đến được thị trấn Chamonix và rồi dành ngày Chủ nhật để lên đỉnh Montanvert ngắm biển băng Mer de Glace. Tại đó, ông viết những dòng thơ sau trong quyển sổ tham quan, và ông xem những dòng đó thật ‘hợp với thời gian và cảnh vật’.

‘Lạy Chúa con, những kiệt tác tay Ngài Khi trông thấy, linh hồn con kính phục.

Cô tịch siêu vời và yên bình kinh hãi

Tháp tuyết vươn lên tinh khôi hùng vĩ

Đây đỉnh vút nhọn, kia đồng bằng êm

Mặt biển chìm trong mùa đông bất diệt

Hết thảy đều do tay Ngài tác tạo

Và lúc lặng ngắm những kỳ công đó

Trong thinh không, con nghe lời tán tụng vang vang’

Một vài nhà thơ luôn bắt đầu chới với sau bảy hoặc tám dòng. Ông Pontifex đã rất vất vả với hai dòng cuối, và gần như mọi chữ đều bị xóa đi viết lại ít nhất một lần. Dù vậy, trong quyển sổ tham quan tại Montanvert, hẳn ông đã phải đắm mình vào những dòng thơ đó. Xem qua những dòng thơ này, tôi có thể nói rằng ông đã đúng khi cho rằng chúng hòa hợp với thời gian; nhưng tôi không muốn quá bắt bẻ về chuyện biển băng, nên tôi sẽ không bình luận gì về việc chúng có phù hợp với cảnh vật hay không. Rồi ông Pontifex đến đèo Great St. Bernard và tại đây ông cũng viết một vài dòng thơ nữa, lần này tôi e là bằng tiếng Latin. Ông cũng ấn tượng với nhà nghỉ hospice cùng vị thế của nó. ‘Toàn bộ chuyến hành trình vô cùng đặc biệt này như thể một giấc mơ, nó tóm lược thật kì diệu một xã hội hào hoa, với sự êm ái và hài hòa ẩn trong cả những khối đá thô cứng nhất và trong cả một vùng đất quanh năm tuyết phủ. Ý nghĩ rằng mình đang ngủ trong một tu viện và nằm trên chiếc giường của chính Napoleon, rằng tôi đang được ở trên đỉnh cao nhất của thế giới, trong một chốn đầy danh tiếng, khiến nhiều lần tôi phải giật mình tỉnh giấc trong đêm.’ Để thấy được một thứ trái ngược với cảm giác của ông, có lẽ tôi nên trích dẫn lá thư mà cháu nội ông, Ernest đã viết cho tôi, trong đó có câu: ‘Con lên đến đèo Great St. Bernard, và trông thấy những con chó.’ rồi sau đó, ông Pontifex tìm qua nước Ý, chìm đắm trong tột đỉnh ngưỡng mộ sự trang nhã của những họa phẩm và các tác phẩm nghệ thuật, những thứ ít nhất đang là xu thế thời thượng thời bấy giờ. Ông viết về phòng trưng bày Uffizi ở Florence như sau: ‘Tôi dành trọn ba tiếng sáng nay trong nhà triển lãm, và xác quyết với mình rằng nếu được chọn một trong số những kho báu của Ý quốc, thì tôi sẽ chọn ngay gian phòng triển lãm này. Nó lưu giữ bức tượng Vệ Nữ của Medici, tượng Nhà Thám hiểm, bức tượng Đấu sỹ, tượng Thần Nông Nhảy múa và một bức tượng thần Apollo thật đẹp. Những bức tượng này còn giá trị hơn cả tượng Laocoon và tượng Belvedere Apollo ở Rome. Ngoài ra, trong phòng này còn có họa ảnh thánh John do Raphael vẽ và nhiều kiệt tác của những nghệ nhân vĩ đại nhất thế giới’. Tôi thấy khá hay khi so sánh tình cảm dạt dào của ông Pontifex với sự hào hứng tột bậc của những nhà phê bình nghệ thuật ở thời đại này. Gần đây, một ngòi bút đáng kính tuyên cáo với thế giới rằng ông ta sẵn sàng khóc trong vui sướng trước một tác phẩm của Michael Angelo. Tôi tự hỏi rằng nếu như những nhà phê bình nhận xét rằng Michael không phải là một thiên tài, hay nếu như lúc đó Michael chưa có được danh tiếng gì, thì liệu ông ta có sẵn sàng làm vậy trước một Michael Angelo bằng xương bằng thịt hay không. Nhưng tôi cho rằng một kẻ hợm hĩnh đầu ngập tiền vào sáu mươi, bảy mươi năm về trước cũng sẽ làm giống hệt như ông ta bây giờ vậy.

Hãy xem cách Mendelssohn nói về gian phòng mà ông Pontifex đã cảm thấy quá xứng đáng để gắn liền danh tiếng của mình với tư cách là một con người của văn hóa và thẩm mỹ. Mendelssohn thấy như thế không đáng cho lắm và viết ra những dòng sau, ‘rồi tôi đến gian phòng Tribune. Nó là một gian phòng đầy thú vị và chỉ rộng khoảng mười lăm bước chân, nhưng lại chứa đựng cả một thế giới nghệ thuật. Một lần nữa, tôi lại tìm thấy chiếc ghế tay dựa yêu thích của tôi đặt dưới bức tượng ‘Người nô lệ mài dao’ (bức l’arrotino), và tự thưởng cho mình được ngồi vào đó trong hai giờ đồng hồ; rồi từ đây, tôi nhìn ngắm được bức ‘Madonna del Cardellino’ của giáo hoàng Julius II, một bức chân dung phụ nữ do Raphael vẽ, và trên nó là một bức ảnh Thánh gia đẹp đẽ của họa sỹ Perugino; và gần bên tôi đến nỗi tôi có thể chạm vào được là tượng Venus của Medici; xa hơn nữa là những tác phẩm của Titian… Phần còn lại trong gian phòng treo những họa ảnh khác của Raphael, Titian, hay Domenichino, vân vân và vân vân. Tất cả đều đặt trọn trong một chu vi hình bán nguyệt nhỏ bằng một gian phòng của bạn mà thôi. Đây là nơi con người ta có thể cảm thấy sự tầm thường của mình cũng như sẽ học được cách cư xử khiêm cung.’ Đối với những người như Mendelssohn, gian phòng Tribune không phải là một nơi để nhận biết sự thấp hèn của chính mình. Nói chung những người như thế càng lại gần gian phòng này thì lại càng rời xa nó hơn. Tôi tự hỏi Mendelssohn đã tự thán phục mình đến mức nào về việc ngồi hai tiếng đồng hồ trên chiếc ghế đó. Tôi cũng không biết liệu trong hai tiếng ngồi ở đó, bao nhiêu lần ông đã xem đồng hồ và tự cho phép mình được sánh ngang với những nghệ sỹ có họa phẩm trưng bày trong gian phòng này, và cũng không biết bao nhiêu lần ông tự hỏi có khách tham quan nào nhận ra ông và ngưỡng mộ ông vì đã ngồi ở chiếc ghế đó lâu đến vậy không, và bao nhiêu lần ông bực tức vì người ta đi ngang qua mà chẳng thèm chú ý đến ông. Nhưng có lẽ thực sự thì ông chẳng ngồi đó được hai giờ đồng hồ đâu.

Lại nói về ông Pontifex, không biết liệu ông có thích thứ mà ông tin là những kiệt tác của nghệ thuật Hy Lạp và Ý quốc hay không, nhưng ông đã mang về một vài bản sao của các nghệ nhân Ý, những họa bản mà tôi tin là ông đã tự hài lòng rằng chúng cực kỳ giống với bản gốc. Theobald thừa kế hai trong số những bản sao này, và tôi thường thấy chúng mỗi khi đến Battersby thăm vợ chồng anh. Chúng là bức họa Madonna của Sassoferrato với chiếc mũ trùm màu xanh trên đầu Đức mẹ làm mờ đi phân nửa bức tranh, và còn lại là bức Magdalena của Carlo Dolci với mái tóc đẹp cầm chiếc bình ngọc trên tay. Thời thanh niên, tôi đã từng nghĩ rằng những bức họa này thật đẹp, nhưng mỗi lần viếng thăm Battersby, tôi lại càng thấy chúng khó ưa hơn bởi phải nhìn thấy cái tên ‘George Pontifex’ ký trên đó. Cuối cùng tôi liều lĩnh giả vờ đòi xóa chúng đi, nhưng Theobald và vợ anh cùng nhau nổi nóng với tôi ngay lập tức. Họ không thích cha của mình, nhưng lại tin tưởng vào uy thế và khả năng của ông, cũng như tin tưởng khiếu thẩm mỹ tuyệt vời của ông đối với văn học và nghệ thuật – rõ ràng là quyển nhật ký hành trình xuất ngoại của ông đã chứng tỏ điều đó. Tôi sẽ trích dẫn quyển nhật ký này thêm một câu ngắn nữa thôi. Đó là trong thời gian ở Florence, ông Pontifex có viết: ‘Tôi đã vừa nhìn thấy Đại Công tước và gia đình ngài trên hai cỗ xe ngựa, nhưng người ta chỉ chú ý họ hơn chú ý tôi, một kẻ hoàn toàn vô danh ở đây.’ Ông tin là mình hoàn toàn vô danh ở Florence hay ở bất kỳ nơi nào khác ư? Tôi không nghĩ như thế!

Bình luận
× sticky