Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm. Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản

Xác Thịt Về Đâu

Chương 49

Tác giả: Samuel Butler

Lần trở lại Cambridge vào tháng năm 1858, Ernest và một vài người bạn cùng chung định hướng làm mục sư đều đi đến kết luận rằng chúng phải nhìn nhận nghiêm túc hơn về vị thế của mình. Bởi vậy, chúng đến nhà nguyện nhiều hơn trước đây, và hội nhau về đêm để học hỏi Tân Ước. Thậm chí chúng còn bắt đầu học cho thuộc các thư của thánh Phaolo bằng tiếng Hy Lạp. Và chúng nghiên cứu quyển ‘Diễn giải Bản ba mươi chín điều’ của Beveridge, cũng như quyển ‘Diễn giải kinh Tin Kính’ của giám mục Pearson; còn trong giờ giải trí, chúng chúi đầu vào quyển ‘mầu nhiệm lòng sùng kính’ của More, một quyển mà Ernest thấy rất hấp dẫn, cùng với quyển ‘Sống thánh chết lành’ của Taylor vốn cũng gây ấn tượng sâu sắc với nó bằng thứ ngôn ngữ mà theo nó là đầy vẻ huy hoàng. Chúng cậy vào những chú giải của Trưởng khoa Alford về bản Kinh Thánh Hy Lạp, thứ mà nhờ chúng, Ernest hiểu được ý nghĩa thực sự của từ ‘khó khăn,’ nhưng cũng khiến cho nó thấy là những từ ngữ German thật nông cạn và bất lực biết bao. Có vài người trong nhóm này học tại trường thánh John, và do đó các buổi gặp gỡ thường được tổ chức tại đó.

Tôi không biết làm thế nào mà những người nhóm Simeon lại nghe được về những buổi họp kín này, nhưng dù gì thì họ cũng đã biết, bởi dù nhóm Ernest đã tạm dừng buổi họp được vài tuần rồi, nhưng lại xuất hiện những lá thư gởi đến từng người trong nhóm, báo rằng Đức ông Gideon Hawke, một thầy giảng phái Phúc âm khá nổi tiếng ở London với những bài giảng được người ta truyền tụng nhiều, sẽ đến ghé thăm anh bạn Badcock ở trường thánh John, và rất vui lòng nói vài lời với những ai mong muốn được nghe, tại phòng của Badcock vào một buổi tối cụ thể trong tháng năm.

Badcock là một trong những kẻ đáng ghét nhất của phái Simeon. Không chỉ bởi nó xấu xí, nhớp nhúa, ăn vận tồi tàn, tự phụ và có thể nói là hoàn toàn khó ưa, mà còn bởi cái dáng đi méo mó và lấp lửng của nó, đến mức được gán cho cái biệt danh mà tôi chỉ có thể diễn giải ra là ‘lưng lắc lư cả bên này lẫn bên kia,’ bởi trong mỗi bước đi, phần lưng dưới của nó cứ đung đưa quá mức như thể muốn bay theo những hướng khác nhau hệt như hai nốt đỉnh của quảng sáu tăng vậy. Bởi thế chúng ta có thể đoán được là những lá thư mời này khiến những kẻ nhận nó phải đờ người ra một lúc, ngạc nhiên vì sao có ai lại mời chúng một việc như thế kia chứ. Lời mời quả thật là một ngạc nhiên láo lếu, nhưng cũng như những kẻ méo mó khác, Badcock là một đứa ngạo mạn và khó lường, nó là một đứa xấc xược mà sự hiện diện của nó chỉ là dịp để gây sự với kẻ nó không ưa mà thôi.

Ernest và đồng bạn của nó phải bàn với nhau về vấn đề này. Bởi nhận thức rằng mình đang chuẩn bị trở thành giáo sỹ, chúng thấy không nên cứ khăng khăng về vấn đề địa vị xã hội như trước, và cũng có thể là do mong muốn được gặp riêng với một thầy giảng trứ danh, nên chúng quyết định chấp nhận lời mời này. Khi thời điểm buổi gặp mặt đến, với chút rối trí và cảm giác đang tự khiến mình mất thể diện, chúng đến phòng của Badcock, kẻ mà đến nay chúng vẫn xem là thấp kém hơn chúng nhiều, và là một kẻ cách đây vài tuần chúng chẳng thể tin nổi mình có thể nói được chuyện gì đó với nó.

Vẻ ngoài của Đức ông Hawke khác xa so với Badcock. Ông là một người đặc biệt điển trai, ngoại trừ môi quá mỏng, và cái nhìn thì kiên quyết cứng rắn quá mức. Nét mặt của ông có gì đó giống với Leonardo da Vinci, ngoài ra ông còn ăn mặc tươm tất gọn gàng, và da dẻ hồng hào trông thật tráng kiện. Ông cư xử hết mực nhã nhặn, và chú ý nhiều đến Badcock, người dường như được ông đánh giá cao. Những cậu bé của chúng ta bị sốc với việc này và bắt đầu nghĩ mình thấp kém hơn, còn Badcock thì nổi trội hơn, và thấy khó chịu với sự yếu đuối cằn cỗi của chính mình. Một vài người nhóm Simeon khá có tiếng từ trường thánh John và những trường khác cũng đến nhưng không đủ để lấn át hết nhóm Ernest, tôi sẽ gọi chúng như vậy cho ngắn gọn.

Sau vài câu chuyện trò mào đầu nhẹ nhàng, việc chính của đêm này bắt đầu khi ông Hawke đứng trên một chiếc bàn và nói ‘Chúng ta hãy cầu nguyện.’ Nhóm Ernest không thích kiểu này, nhưng chẳng thể làm gì khác, chúng đành phải quỳ gối và lặp lại kinh lạy Cha cùng vài kinh khác theo giọng đọc kinh tuyệt vời của ông Hawke. Rồi khi tất cả đã yên vị, ông Hawke bắt đầu diễn thuyết cho chúng nghe, ông nói mà không cần cầm giấy và điểm mấu chốt cho bài giảng của ông là câu này, ‘Saolo, Saolo, sao ngươi ngược đãi ta?’ Không biết do cách thể hiện quá ấn tượng của ông Hawke, hay do danh tiếng quá lớn của ông, hay do sự thực mà mọi người trong nhóm Ernest đều biết rằng chính nó là kẻ đã ngược đãi những người nhóm Simeon, và như thế xét cho cùng thì nhóm Simeon lại giống với những tín hữu Kitô tiên khởi hơn là Ernest, và bài đọc này, dù rất quen thuộc với chúng, nhưng lần này lại được Ernest và đồng bạn nhận thức theo một cách hoàn toàn khác biệt. Nếu dừng lại ngang đây, thì cũng có thể nói là bài giảng của ông đã đủ ấn tượng rồi, bởi khi lướt qua những khuôn mặt đang chăm chú nhìn lên mình với một ấn tượng rõ ràng đối với bài giảng này, có lẽ ông nghĩ rằng thậm chí mình chẳng cần phải lên tiếng nữa cũng được, nhưng ông đã chấn chỉnh lại và tiếp tục bài giảng như sau. Tôi sẽ trình bày đầy đủ bài giảng này, bởi nó là một bài chuẩn mực, và sẽ diễn tả được một tâm thức mà có lẽ là đến một hai thế hệ sau vẫn còn cần được giảng giải về nó.

‘Các bạn trẻ của tôi ơi,’ ông Hawke lên tiếng, ‘tôi tin rằng chẳng ai trong số các bạn hoài nghi về sự hiện hữu của một Thiên Chúa mang thân phận con người. Nếu có ai như vậy, thì chắc chắn đó là người mà tôi phải nhắm đến trước tiên. Nếu như tôi đã nhầm khi tin rằng tất cả những người ở đây đều thừa nhận có một Thiên Chúa hiện diện giữa chúng ta dù chúng ta không thấy Ngài, và là Đấng nhìn thấu tâm can bí mật nhất của chúng ta, thì tôi khẩn thiết xin người đó hãy đến nói chuyện với tôi trước khi chúng ta nói lời giã từ ở đây. Tôi sẽ trao cho người đó những điều mà Thiên Chúa nhân từ đã rộng lượng mạc khải cho tôi, những điều thâm sâu nhất mà một con người có thể nhận biết được, và là những điều mà nhờ đó tôi có thể cho những người đang sống trong ngờ vực được đón nhận sự bình an thanh thản trong tâm hồn.

Tôi cho rằng chẳng ai ở đây lại hoài nghi sự thật rằng Thiên Chúa này, Đấng đã tạo thành chúng ta theo hình mẫu của Ngài, trong suốt dòng thời gian đã thương xót cho sự mù tối của nhân loại chúng ta, và đã mặc lấy bản tính loài người, mang thân xác phàm, đã hạ thế và cư ngụ giữa chúng ta với một thân xác hoàn toàn chẳng có gì khác biệt với chúng ta. Thiên Chúa, Đấng đã tạo thành mặt trời, mặt trăng và các tinh tú, thế giới cùng muôn loài muôn vật trong đó, Ngài đã xuống khỏi Trời trong thân xác Con Người, với một mục đích rõ ràng là để sống một đời sống bị khinh miệt, và chết một cái chết khủng khiếp nhất và hổ thẹn nhất mà quỷ dữ từng nghĩ ra.

Lúc tại thế, Ngài đã làm nhiều phép lạ. Ngài đã cho người mù sáng mắt, cho kẻ chết sống lại, đã cho hàng ngàn người ăn chỉ với vài chiếc bánh và vài con cá, cũng như đã bước đi trên sóng nước, nhưng đến thời đến điểm, Ngài đã chết, và theo như đã định, chết trên cậy thập giá, rồi được vài đồng bạn trung thành đem đi chôn cất. Nhưng những kẻ đã chung tay giết Ngài vẫn nhìn vào ngôi mộ đó với đầy sự ghen tức trong lòng.’

Tôi thấy chắc rằng không một ai trong phòng này lại hoài nghi về những sự tôi vừa nói trên, nhưng nếu có, thì một lần nữa, tôi khẩn khoản nài xin người đó hãy đến nói chuyện riêng với tôi và tôi chắc rằng nhờ ơn Chúa, người đó sẽ được giải thoát khỏi mọi ngờ vực.

Tôi xin tiếp tục. Sau khi Chúa chúng ta được chôn cất vào mộ đá, quân thù ghen tức liền cho lính đến canh mồ, nhưng một thiên thần với trang phục chói lòa và dung nhan bừng lửa đã từ Trời hạ xuống, lăn tảng đá ra khỏi mồ, và Chúa chúng ta bước ra, phục sinh từ cõi chết. Hỡi các bạn trẻ của tôi, đây không phải là một câu chuyện tưởng tượng như kiểu kể về các thần linh cổ đại, mà là một sự thật lịch sử rõ ràng như việc bạn và tôi đang cùng ngồi ở đây vậy. Nếu có điều gì xứng đáng nhất để bảo đảm toàn bộ những điều này, đó chính là sự Phục Sinh của Chúa Jesus Kitô; và một điều nữa cũng không kém phần chắc chắn đó là vài tuần sau khi sống lại, hàng trăm người cả đàn ông và phụ nữ đã chứng kiến Chúa chúng ta bay giữa đoàn Thiên sứ mà thăng thiên về trời cho đến khi mây trời che phủ và họ không còn được nhìn thấy Ngài nữa.

Có những kẻ nói rằng những điều này là sai lầm, nhưng tôi hỏi các bạn, có ai dám đứng lên chất vấn những điều này hay không, và giờ chúng ở đâu nào. Chúng ta có nghe gì về chúng hay nhìn thấy chúng? Chúng có giữ nổi dù chỉ một chút những gì mà chúng đã nói trong suốt thế kỷ qua hay không? Có ai trong số cha mẹ, bạn bè của các bạn lại không thấy rõ mưu toan của chúng? Có một thầy giáo hay giảng viên nào trong một trường đại học danh tiếng lại không thẩm xét những lời của chúng, và thấy rằng đó chỉ là những lời vô giá trị hay không? Các bạn đã từng gặp ai trong số chúng hay từng thấy một quyển sách nào của chúng được những người có thẩm quyền tôn trọng hay không? Tôi nghĩ là không, và tôi nghĩ các bạn cũng như tôi, biết được tại sao chúng phải lặn mất tăm ngay khi vừa chớm nổi lên: đó là vì sau khi những trí tuệ có khả năng phán đoán công tư nhất trong nhiều quốc gia đã xem xét đầy cẩn thận và kiên nhẫn, họ đi đến kết luận rằng những phát ngôn của chúng không thể đứng vững, và rồi chúng phải rút lại những lời ấy. Chúng tháo chạy thảm hại, bại chí, và khẩn xin được yên ổn, cũng như chúng chẳng tái xuất hiện lần nào ở những nước văn minh nữa.

Các bạn đều biết tất cả những sự này. Vậy tại sao tôi lại phải nhấn mạnh chúng với các bạn? Hỡi các bạn trẻ yêu quý của tôi, nhận thức của các bạn sẽ tự cho các bạn câu trả lời, và đó là bởi dù các bạn biết rõ rằng những điều này đã thực sự xảy ra, nhưng các bạn cũng biết rằng các bạn lại chẳng xem chúng là trách nhiệm của chính mình, cũng như không nhìn ra được cái ngụ ý hết sức thiết yếu trong đó.

Và bây giờ tôi sẽ nói xa hơn về việc này. Tất cả các bạn đều biết rằng một ngày nào đó các bạn sẽ chết, hoặc giả như không chết, bởi không thiếu những dấu hiệu cho chúng ta hy vọng rằng Thiên Chúa sẽ tái quang lâm lúc một vài người trong chúng ta vẫn còn sống, thì chúng ta sẽ được biến đổi, bởi tiếng kèn sẽ vang lên, và kẻ chết sẽ được sống lại nguyên tuyền, bởi sự mục nát sẽ mặc lấy sự nguyên vẹn, và sự hư mất sẽ mang lấy sự bất diệt, và người ta sẽ thấy những gì đã được ghi trong sách, ‘Trong chiến thắng vinh quang này, sự chết sẽ phải biến mất.’

Các bạn có tin hay không tin rằng một ngày nào đó các bạn sẽ phải đứng trước Ngai tòa Phán xét của Chúa Kitô hay không? Các bạn có tin hay không tin rằng bạn sẽ phải giải trình cho mọi lời lẽ vớ vẩn các bạn từng nói hay không? Các bạn có tin hay không tin rằng các bạn đã được kêu gọi không phải để sống theo ý muốn nhục thể con người, mà là sống theo ý muốn của Chúa Kitô, Đấng đã hạ trần vì yêu thương các bạn, đã chịu đau khổ và chết vì các bạn, đã kêu gọi các bạn và mong mỏi các bạn sẽ lưu tâm đến những lời Ngài đã nói, nhưng nếu các bạn không biết lưu tâm, thì Ngài, Đấng bất biến, sẽ lên tiếng phán xét bạn, hay không?

Các bạn trẻ thân mến, lối đi và cửa hẹp sẽ dẫn chúng ta đến Sự sống bất diệt, và ít người tìm được nó. Ít thôi, rất ít, quá ít người như thế, bởi ai không biết từ bỏ TẤT CẢ vì Chúa Kitô, thì cũng là chẳng từ bỏ chút gì.

Nếu bạn sống trong đời này với đầy người thương mến, tất nhiên bạn sẽ chẳng chuẩn bị để từ bỏ tất cả mọi thứ mà bạn vốn yêu quý hết mực, nếu Chúa có đòi bạn phải từ bỏ, thì tôi cho rằng, bạn sẽ chủ tâm gạt ý tưởng này qua một bên. Khi bạn cố giữ cho được những tình thân đời này bằng hết khả năng mình còn có, thì chính lúc đó bạn đang phỉ nhổ, đánh đập, và treo Chúa Kitô lên thập giá thêm một lần nữa, những lạc thú của cuộc đời chóng qua này có thể không đáng để bạn phải trả giá bằng hình phạt đời đời, nhưng một khi còn tồn tại, chúng vẫn sẽ gán cho bạn một cái giá nào đó. Nếu bạn sống trong tình thân với Thiên Chúa và thuộc số những người vẫn còn hy vọng được cứu rỗi, nói ngắn gọn là nếu bạn trân trọng hạnh phúc đời đời, thì hãy từ bỏ những tình thân đời này, chắc chắn bạn phải chọn lựa giữa Thiên Chúa và Tiền tài, bởi chẳng ai có thể làm tôi hai chủ.

Điều tôi nói với các bạn đây, nếu có gì quá đáng thì mong các bạn bỏ qua, nhưng nó thực sự và rõ ràng là một việc buộc phải làm. Vấn đề này hoàn toàn không tầm thường và bất xứng như suy nghĩ mới đây của vài người, bởi toàn bộ bản tính chỉ cho chúng ta thấy rằng chẳng có gì khiến Thiên Chúa hài lòng hơn lúc chúng ta biết nhìn nhận sự vị kỷ của mình theo ánh sáng đức tin, đừng bao giờ để ai lừa dối bạn về điểm này, đơn giản đó là một vấn đề thực tế rằng liệu những việc này có xảy đến hay là không? Nếu chúng xảy đến, liệu có hợp lý khi cho rằng bạn sẽ khiến cho mình và những người khác được hạnh phúc hơn nếu biết hành xử đạo đức theo kiểu này hay kiểu khác?

Và bây giờ cho phép tôi hỏi các bạn rằng từ trước đến nay các bạn trả lời như thế nào về vấn đề này? Các bạn lựa chọn tình thân nào? Nếu khi đã biết những điều tôi vừa nói ra đây, mà các bạn vẫn bình chân không muốn bắt đầu hành động theo nhận thức to lớn bạn đang có, thì bạn hệt như một kẻ xây nhà và đặt kho tàng của mình trên miệng núi lửa dung nham sôi sùng sục vậy. Điều tôi nói đây không phải là một kiểu hình tượng phóng đại để hù dọa các bạn đâu, mà là một lời hoàn toàn xác thực, không có chút gì cường điệu, và cả bạn cũng như tôi sẽ phải đồng ý ngay về sự thực này.’

Và đức ông Hawke, người cho đến thời điểm này vẫn dùng một giọng nhẹ nhàng êm ả, lại đột nhiên đổi giọng mạnh mẽ hơn nhiều.

‘Hỡi ôi, các bạn trẻ của tôi, hãy chuyển biến, hãy thay đổi, khi các bạn được Thiên Chúa kêu gọi ngay hôm nay, ngay giờ này, và ngay giây phút này, đừng ngồi yên mà hãy xắn tay áo lên sẵn sàng, đừng nhìn lại phía sau mà hãy lao mình vào lòng Chúa Kitô Đấng luôn hiện đến cho những kẻ tìm kiếm Ngài, còn đối với những kẻ không nhận biết được những gì là an bình đối với nó thì cơn thịnh nộ khủng khiếp của Thiên Chúa sẽ sẵn sàng giáng xuống đầu kẻ đó. Bởi Con Người đến như một kẻ trộm trong đêm, và chẳng ai trong chúng ta có thể biết là ngày hôm nay, Ngài muốn gì nơi kẻ không nhận biết Ngài. Nếu ở đây, có một ai lưu tâm đến lời của tôi,’ và ông đảo mắt nhìn quanh tất cả những thính giả của mình, đặc biệt là nhóm Ernest, ‘thì tôi biết đó hẳn phải do những điều mà tôi đã cảm nhận được về tiếng gọi của Thiên Chúa, và tôi đã nghe được một tiếng gọi trong đêm thúc đẩy tôi nhanh chóng đến đây, bởi ở đây, có người cần đến sự hiện diện của tôi.’

Đến đây, ông Hawke kết thúc bài giảng một cách đột ngột. Dáng điệu tha thiết, vẻ mặt ấn tượng và cách nói hoàn hảo của ông đã khiến bài giảng đầy sức tác động hơn nhiều, hiệu lực nằm trong con người ông hơn là ở những lời ông nói, còn vài lời cuối cùng đầy bí ẩn về tiếng gọi ông nghe được trong đêm đã gây nên một tác động kỳ lạ, mọi người trong phòng đều cúi mặt xuống đất, và ai ai cũng nửa tin nửa ngờ rằng mình chính là người đã khiến Chúa gởi đức ông Hawke đến Cambridge này. Thậm chí nếu không phải như vậy, thì từng người một đều có cảm tưởng rằng lúc này lần đầu tiên chúng được gặp tận mặt một người đã từng được trò chuyện trực tiếp với Đấng Toàn Năng, và do đó đột nhiên chúng thấy mình gần lại với những phép lạ thời Tân Ước gấp trăm lần. Nhóm Ernest đầy kinh ngạc, nếu không nói là sợ hãi, và như ngầm hiểu với nhau, chúng tụ lại cảm ơn ông Hawke về bài giảng, chào tạm biệt Badcock và những người nhóm Simeon với vẻ khép nép và tôn trọng, rồi cùng rời khỏi gian phòng. Những gì chúng đã được nghe chính là cả cuộc đời của chúng, và rồi những lời đó khiến chúng bàng hoàng đến câm lặng. Tôi cho rằng việc này phần nào do bởi gần đây chúng đã suy nghĩ cách nghiêm túc hơn, và tình trạng của chúng hiện giờ dễ bị tác động mạnh, một phần nữa là do bài giảng chỉ diễn ra trong gian phòng khiến chúng thấy dường như nó nhắm trực tiếp đến từng người trong chúng, và hơn thế bài giảng này có sự hợp lý hài hòa, không khoa trương sáo ngữ, và mang đậm một niềm tin vững mạnh xuất phát từ đức ông Hawke. Sự đơn giản và lòng sốt sắng rõ ràng của ông Hawke đã gây ấn tượng cho chúng thậm chí trước khi ông nói bóng gió về cái nhiệm vụ ông mang theo đến Cambridge này, nhưng chính đó là điểm chốt cho mọi vấn đề, và những lời ‘lạy Chúa, có phải con không?’ cứ vang lên trong lòng mỗi người lúc chúng trầm ngâm bước về phòng dưới những hành lang và sân vườn ngập ánh trăng.

Tôi không biết sau khi nhóm Ernest rời đi, nhóm Simeon có làm gì nữa hay không, nhưng nếu họ không thấy quá đỗi hào hứng vì kết quả của buổi tối này thì chắc hẳn họ phải là thánh mất rồi. Tại sao ư? Một trong số bạn bè của Ernest nằm trong nhóm ưu tú của trường, cũng có mặt tại phòng của Badcock hôm đó và cũng đã lặng lẽ chào ra về một cách ngoan ngoãn hiền lành hệt như nhóm của Ernest vậy. Đối với nhóm Simeon, có được một thắng lợi như thế không phải là một điều đơn giản.

Bình luận