Ernest về nhà và giam mình trong phòng đến tận buổi ăn trưa, để nghiền ngẫm những chú giải của viện trưởng Alford về các trình thuật Tin mừng khác nhau viết về biến cố Phục sinh, theo những gì ông Shaw đã dạy nó, và điều nó cố tìm cho ra không phải là để xác nhận là cả bốn bản đều chính xác, mà là để xét xem bốn bản này liệu có chính xác hay không. Nó không quan tâm việc này sẽ dẫn nó đến đâu, mà chỉ kiên quyết phải đạt được một kết luận nào đó. Khi đã đọc xong những chú giải của viện trưởng Alford, nó nhận ra một điều, đó là không một ai thành công trong việc đưa bốn bản Phúc âm này hòa hợp tương đối với nhau được, và Alford, khi thấy mình, cũng hệt như những người đi trước, chẳng có chút cơ may nào thành công trong việc này, đã khuyên người ta nên tin toàn bộ diễn tiến này như là điều có thật, nhưng đó không phải việc Ernest muốn làm.
Nó ăn trưa, rồi đi dạo cho đến tận sáu giờ rưỡi mới về dùng bữa tối. Trong lúc dọn bữa, gồm một miếng thịt rán và một panh bia, bà Jubb cho nó biết là cô Snow rất vui lòng được gặp nó trong vòng một tiếng nữa. Điều này khiến nó lúng túng, bởi tâm trí nó đang quá rối loạn để có thể nghĩ đến chuyện hoán cải cho bất kỳ ai khác. Nó suy tính một lúc, rồi thấy rằng thay vì để những sự việc kia làm chấn động tư tưởng, nó buộc phải đến thăm cô gái này ngay, như thể chưa có chuyện gì xảy ra với nó vậy. Có lẽ sẽ không tốt cho nó khi cố tránh cuộc gặp này, bởi dù gì thì người ta cũng biết là nó đã về đến nhà rồi. Nó không nên quá vội vã bất thần thay đổi quan điểm về một vấn đề nghiêm trọng là những lý chứng về sự Phục Sinh của Chúa Kitô, ngoài ra hôm nay, nó cũng không cần phải nói với cô Snow về chủ đề này, có nhiều điều khác để nó nói kia mà. Nhưng chuyện khác là chuyện gì? Ernest thấy tim nó đập nhanh và mạnh, và tiếng nói trong lòng cảnh báo rằng nó đang suy nghĩ đến một điều gì khác chứ không phải là về linh hồn của cô Snow.
Nó nên làm gì bây giờ? Trốn chạy, trốn chạy và trốn chạy, chỉ có vậy mới an toàn nhất. Nhưng Chúa Kitô có trốn chạy hay không? Ngay cả khi Chúa không chết và sống lại từ cõi chết thì vẫn chắc chắn rằng Ngài là hình mẫu mà chúng ta phải noi theo? Chúa Kitô sẽ không trốn chạy khỏi cô Snow, Ernest chắc chắn như vậy, bởi Chúa đặc biệt đến với những cô gái điếm và những người tội lỗi kia mà. Như thế, giờ đây, một việc cần làm của Kitô hữu đích thực không phải là đến với những người công chính mà là đến với những người tội lỗi để kêu gọi họ sám hối. Thật bất tiện nếu nó phải đổi phòng trọ, và nó cũng chẳng thể bảo bà Jubb đuổi cô Snow và cô Maitland ra khỏi nhà. Nó phải có giới hạn chứ? Ai sẽ đủ tốt để sống chung mái nhà với nó, và ai không đủ tốt đây? Hơn nữa, những cô gái tội nghiệp này sẽ đi đâu? Chẳng lẽ nó đẩy họ từ nhà này sang nhà khác cho đến khi chẳng còn chỗ cho họ nương thân nữa hay sao? Như vậy thật là vô lý, việc nó phải làm quá rõ ràng, nó sẽ đi gặp cô Snow ngay, và sẽ cố gắng hết sức, nhưng nếu như nó không thể khiến cô thay đổi cách sống, và nếu nó thấy cám dỗ quá mạnh vượt sức nó, thì đến lúc đó nó sẽ tháo chạy. Nghĩ như thế, nó lên lầu, mang quyển Kinh Thánh trong tay, và một ngọn lửa rạo rực trong lòng.
Ernest thấy cô Snow khá là xinh đẹp, và gian phòng thật ngăn nắp nếu không muốn nói là nghiêm trang. Tôi nghĩ là thế nào sáng nay cô ta cũng đã đi mua vài chữ thiếp vàng về để treo thêm trên lò sưởi. Ernest rất lấy làm hài lòng về cô, và tay nó đặt quyển Kinh Thánh một cách máy móc lên bàn. Nó chỉ vừa khơi mào cuộc đối thoại ngại ngùng với cái mặt đỏ bừng, thì bỗng có tiếng bước chân lướt vội trên cầu thang, nhẹ nhàng như thể không phải chịu bao nhiêu lực hút trái đất vậy, rồi một người đàn ông lao vào phòng và nói, ‘Tôi đến sớm trước giờ của mình.’ Người đó chính là Towneley.
Mặt anh ta cụp xuống ngay khi thoáng thấy Ernest, ‘Cái gì, Pontifex, anh ở đây ư. Đúng rồi, rõ là anh rồi.’
Tôi không thể diễn tả nỗi những lời giải thích vội vã giữa ba người với nhau trong vòng chưa đến một phút, rồi Ernest mặt đỏ bừng hơn bao giờ hết, với quyển Kinh Thánh và mọi thứ nó có, lẩn đi đầy bẽ mặt và hạ giá khi đem mình so với Towneley. Trước khi xuống hết cầu thang, nó còn nghe được tiếng cười đầy vui vẻ của anh ta vọng qua khung cửa phòng cô Snow, và lầm bầm nguyền rủa số phận của mình.
Rồi chợt nó thấy rằng nếu nó không thể đối mặt được với cô Snow thì cũng chẳng thể gặp cô Maitland. Nó biết rõ bây giờ nó đang mong muốn những gì, và đẩy quyển Kinh Thánh ra xa, trượt trên bàn, rơi xuống đất, rồi bị nó đá vào một góc phòng. Đó là quyển Kinh Thánh dì Elizabeth Allaby đã trìu mến tặng cho nó vào ngày rửa tội. Thật sự, nó chỉ biết rất ít về cô Maitland, nhưng những đứa trẻ ngốc nghếch trong tình trạng của Ernest bây giờ chẳng thể suy luận cho đúng đắn được. Bà Baxter đã nói rằng cô Maitland và cô Snow là ngưu tầm ngưu mã tầm mã, và đúng là bà ta biết nhiều hơn mụ già dối trá Jubb. Shakespeare từng viết rằng:
Thời cơ hỡi, tội ngươi quá nặng nề;
Kẻ phản bội, chính tay ngươi dẫn lối,
Ngươi đưa sói cắn phá bầy cừu non,
Ngươi tạo cớ cho những ai mắc tội,
Lẽ phải, luật lệ, lý tính, ngươi đánh đổ tan hoang;
Và gian phòng nơi ngươi giấu kín hắn,
Tội Ác, từ nơi đó, túm lấy bao linh hồn.
Nếu thời cơ mang một tội lớn, thì những ai tin vào thời cơ còn mắc tội lớn hơn, nhưng trong thực tế hoàn toàn chẳng có cái gì hoàn toàn là thời cơ cả. Nếu lúc lâm nguy đánh bài chuồn là thượng sách, thì lúc gặp sự ác làm vậy chẳng phải càng đúng hơn hay sao.
Khoảng mười phút sau đó, người ta thấy một cô gái hốt hoảng, bị lăng mạ, đỏ mặt và run rẩy, chạy vội vã ra khỏi nhà bà Jubb, rồi thêm mười phút sau, người ta lại thấy hai cảnh sát đi ra, và giữa họ là một người, không hẳn là bước đi mà là bị lôi đi, đó chính là anh bạn Ernest tội nghiệp của chúng ta với đôi mắt trừng trừng, tái mét, và vô vàn nỗi tuyệt vọng hằn trên gương mặt nó.