Cậu hầu William vào và chuẩn bị ghế cho các cô hầu, rồi chẳng mấy chốc, họ đã tập trung đủ trong phòng. Đầu tiên là cô hầu của Christina, rồi đến anh đầu bếp, rồi chị hầu phòng, và cuối cùng là bác xà ích. Tôi ngồi đối diện với họ, và theo dõi khuôn mặt họ trong lúc Theobald đọc một đoạn Kinh Thánh. Họ là những con người rất tử tế, nhưng trên khuôn mặt lại là vẻ vô hồn hoàn toàn mà xưa nay tôi chưa từng thấy.
Theobald bắt đầu đọc một vài câu trong Cựu Ước theo cách riêng của anh. Đó là một đoạn trích trong chương mười lăm, sách Dân Số: về nội dung, thì đoạn này chẳng có gì đặc biệt, nhưng cái hơi hướng của nó lại phảng phất giống như chính Theobald vậy, và như thế sau khi nghe hết, tôi có thể hiểu rõ hơn là làm sao mà anh đi đến hành động và suy nghĩ như bây giờ.
Đoạn đó như sau:
‘Những kẻ nào cố tình phạm luật, dù là người bản xứ hay ngoại kiều, thì nó xúc phạm đến chính Đức Chúa. Con người ấy sẽ bị tiễu trừ khỏi đồng bào của nó. Vì nó đã khinh khi lời Đức Chúa và phế bỏ lệnh Người truyền. Con người ấy phải bị tiêu diệt. Nó phải mang lấy tội ác của nó.
Khi con cái Israel còn ở trong sa mạc, thì người ta bắt được một người đang lượm củi ngày Sabbath. Những người bắt được kẻ đang lượm củi liền điệu y tới ông Moses, ông aharon và toàn thể cộng đồng. Họ nhốt y lại vì chưa có quyết định phải xử với y như thế nào. Đức Chúa phán với ông Moses: ‘Con người ấy sẽ phải chết; toàn thể cộng đồng sẽ ném đá nó bên ngoài doanh trại.’ Theo lệnh Đức Chúa truyền cho ông Moses, toàn thể cộng đồng đã đưa y ra khỏi trại, ném đá y và y đã chết.
Đức Chúa phán với ông Moses: ‘Ngươi hãy nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng phải làm tua khâu vào tà áo của chúng, qua mọi thế hệ, và cột lên tua áo đó một sợi dây đỏ tía. Vậy các ngươi sẽ mang tua áo, và khi nhìn thấy nó, các ngươi sẽ nhớ đến mọi mệnh lệnh của Đức Chúa mà thi hành, chứ không theo con tim và đôi mắt các ngươi.
Như thế các ngươi sẽ nhớ và thi hành tất cả các mệnh lệnh Ta truyền như những người đã được thánh hiến cho Thiên Chúa các ngươi. Chính Ta, Đức Chúa, là Thiên Chúa các ngươi, Ta đã đưa các ngươi ra khỏi đất Ai Cập để làm Thiên Chúa của các ngươi, Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa các ngươi.’
Khi Theobald đọc đoạn trên, tôi cứ nghĩ vẩn vơ về một chuyện nhỏ mà tôi đã gặp vào chiều hôm đó.
Vài năm về trước, có một đàn ong đến làm tổ nơi mái nhà Theobald, dưới lớp ngói, và chúng sinh sôi nảy nở nhiều đến nỗi vào mùa hè, hễ mỗi khi mở cửa phòng khách là chúng lại thay nhau ùa vào lởn vởn đầy trong phòng. Giấy dán phòng khách là loại có tô điểm những đóa hồng trắng và đỏ, và đôi lần tôi thấy những con ong, bay đến những đóa hồng giả mà chúng tưởng là thật đó và cố thử xem chúng có mật không, chúng cứ thử từ đóa này qua bông khác, cho đến khi chạm phải trần nhà; rồi bắt đầu thử từng đóa một theo chiều đi xuống, cho đến khi đụng phải chiếc ghế sô pha, rồi chúng lại lần từng đóa lên lại, rồi lại xuống lại, cứ thế, cứ thế, cho đến khi tôi quá mệt mỏi không thể quan sát tiếp được nữa. Và giờ đây, khi nghĩ về những giờ kinh gia đình cứ lặp lại mỗi sáng mỗi tối, tuần này qua tuần khác, tháng này qua tháng khác, và năm này qua năm khác, tôi không thể tránh được ý nghĩ rằng, việc này cũng như kiểu con ong cứ lần theo những bông hoa giả lên lên xuống xuống, mà chẳng bao giờ ngờ được rằng quá nhiều những gì trưng ra được trước mắt họ chỉ là những vặt vãnh, còn thứ chính yếu vẫn cứ tránh mặt đi trong vô vọng, mãi mãi vô vọng.
Khi Theobald đã đọc xong, chúng tôi cùng quỳ xuống và cúi mặt xuống ghế, còn phía sau chúng tôi, hai bức tranh Carlo Dolci và Sassoferrato đang hướng mắt nhìn xuống. Tôi chú ý thấy rằng Theobald cầu nguyện cho chúng tôi được ‘thật lòng lương thiện và tận tâm’ trong mọi việc làm, và tôi cười cái từ ‘thật lòng’ của anh. Rồi tôi lại nghĩ về những con ong, và tôi suy tư thấy rằng xét đến cùng có lẽ đối với Theobald, chúng tôi cầu nguyện mà hiếm khi biết hướng tâm lên cho đủ, còn đối với tôi, tôi lại cầu nguyện cho sớm có một người sẽ làm cho Theobald những gì anh vừa làm với Ernest.
Tôi lại tiếp tục nghĩ vẩn vơ tính toán khoảng thời gian lãng phí vào việc cầu nguyện này, và liệu người ta sẽ làm được những gì với mười phút này nhỉ, rồi tôi nghĩ rằng ý nghĩ này của tôi, cũng như ý tưởng muốn lấy thời gian kinh nguyện để làm việc khác, chẳng được ai đón nhận đâu. Cuối cùng Theobald xướng lên ‘Nhờ Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con’ và vài giây sau buổi kinh nguyện kết thúc, các người hầu lại lục tục đi ra như lúc họ đi vào.
Ngay khi họ vừa rời khỏi phòng, Christina, đang cảm thấy xấu hổ vì tôi đã chứng kiến chuyện Ernest bị đánh đòn, nên đã dại dột nhắc lại chuyện đó với tôi, và bắt đầu bào chữa, nói rằng chuyện đó khiến tim cô đau nhói, cả Theobald cũng vậy và thậm chí còn hơn nữa, nhưng đó ‘chỉ là chuyện đã rồi.’
Tôi lãnh đạm với chuyện này trong mức độ lịch sự cho phép, và sự im lặng trong suốt những giờ còn lại của buổi tối thể hiện sự bất bình của tôi với những gì đã phải chứng kiến.
Ngay hôm sau, tôi lên đường về lại London, nhưng trước lúc đi, tôi bảo rằng muốn có vài quả trứng mới đẻ, và Theobald đưa tôi đến nhà của một nông dân trong làng, cách nhà anh khoảng một tầm ném đá. Ernest, vì một lý do nào đó, cũng được cho đi theo. Tôi nghĩ rằng những con gà đã bắt đầu đạp ổ, nhưng không hiểu sao mà quá hiếm trứng, và bà chủ nhà chỉ tìm được cho tôi khoảng bảy, tám quả, rồi chúng tôi gói chúng trong giấy thành từng quả một, để có thể an toàn đem về thành phố.
Chúng tôi làm việc này ngay trước cửa nhà nọ, và trong lúc còn chưa làm xong, thì đứa con của chủ nhà, cũng trạc tuổi Ernest bước qua một quả trứng đã được gói, và đạp vỡ mất.
‘Này này, Jack,’ mẹ nó lên tiếng, ‘xem con đã làm gì kìa, con đã đạp vỡ một quả trứng và làm tiêu mất một xu của mẹ. Emma, đây này,’ bà gọi đứa con gái, ‘đem thằng nhỏ đi chỗ khác, chúng ta có khách quý.’
Emma đến ngay và dắt thằng nhỏ đi, để nó đừng phá hư thêm cái gì nữa.
‘Cha.’ Ernest hỏi, khi đã ra khỏi nhà đó, ‘tại sao bà heaton lại không đánh Jack khi nó làm vỡ quả trứng?’
Tôi đã có sẵn bực mình với Theobald rồi, nên không thể giấu được nụ cười hiểm ác, thể hiện rõ ràng cái ý nghĩ trong tôi là Ernest đã vừa cho cha nó một vố khá nặng.
Theobald đỏ mặt và có vẻ giận dữ. ‘Ta dám bảo đảm rằng,’ anh nói nhanh, ‘mẹ của nó sẽ đánh đòn ngay khi chúng ta vừa đi.’
Tôi không cho là vậy, và tôi nói là tôi không tin mọi chuyện sẽ như vậy, rồi cho qua vấn đề, nhưng Theobald không quên, và từ đó về sau càng ngày tôi càng ít ghé thăm Battersby.
Lúc trở về nhà, chúng tôi thấy người đưa thư vừa đến và đem cho Theobald một phong thư chỉ định Theobald đảm nhận chức trưởng hạt vừa trống chỗ do vị mục sư quản hạt vừa mất. Những lời lẽ giám mục viết cho Theobald đầy tình cảm và bảo đảm với anh rằng ông đánh giá cao anh như một trong những mục sư coi xứ tận tâm và chăm chỉ nhất. Tất nhiên Christina rất vui mừng, và thể hiện cho tôi hiểu rằng khi người ta biết nhiều hơn đến công trạng của anh thì điều này phải đến, đây chỉ là phần thưởng tất yếu đối với chân giá trị cao vời có sẵn trong Theobald mà thôi.
Tôi không ngờ rằng vài năm sau, tôi và và con đỡ đầu của tôi lại gắn chặt với nhau đến thế, nếu đã lường trước được điều này, thì chắc chắn tôi đã nhìn nó với ánh mắt khác, và chú ý nhiều đến những thứ mà vào lúc đó, tôi đã không buồn để mắt đến. Còn lúc này, tôi lại mừng vì được thoát khỏi nó, bởi tôi chẳng làm được gì cho nó, hoặc tôi đã quyết định xem là như thế, và tôi đau đớn nhiều vì việc này. Một con người không chỉ nên đi theo con đường của mình thật xa hết mức có thể, mà còn phải biết hòa hợp với những thứ đang thúc đẩy cho con đường của họ đi lên, để nhờ đó họ có được sự thoải mái an bình. Ngoại trừ trong những hoàn cảnh bất thường hoặc trong thời gian ngắn, hay do người ta không thể thấy được sự héo mòn và còi cọc của con vật hay rau xanh, thì người ta sẽ chẳng ăn thứ thịt đã teo tóp, hay ủ bệnh cũng như những thứ rau không được trồng cho đàng hoàng. Bởi tất cả mọi thứ lai tạp nhau tạo nên con người ta, và việc người ta chọn liên kết với những thứ nào sẽ quyết định xem người đó sẽ tốt hơn hay tệ hơn, và nếu được tốt hơn, thì người đó sẽ được sống thọ và hạnh phúc. Tất cả mọi thứ đều phải có chút ít lai tạp trộn lẫn, nếu không, nó sẽ chết đi; nhưng những thứ thánh thiêng, ví dụ như những vị thánh của Giovanni Bellini, sẽ chẳng pha tạp với thứ nào cả ngoại trừ loại tốt giống như chúng.