Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm. Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản

Xác Thịt Về Đâu

Chương 27

Tác giả: Samuel Butler

Tôi sẽ không kể thêm về cuộc đời thuở nhỏ của Ernest, nhân vật chính của chúng ta nữa. Nó đã nỗ lực vượt qua giai đoạn này, và đến năm mười hai tuổi, đã học thuộc làu làu ngữ pháp Latin và Hy Lạp. Nó đã đọc hết những phần hay nhất trong các tác phẩm của Virgil, Horace và Livy, cùng với vô số vở kịch Hy Lạp nữa, đồng thời nó cũng thành thục trong số học, nắm bắt hết bốn quyển sách của Euclid, và tiếng Pháp của nó cũng vừa đủ dùng. Lúc này, Ernest đã đến tuổi phải đến trường, và xét theo trình độ của mình, nó được cho theo học với Tiến sỹ Skinner ở Roughborough.

Theobald đã được biết sơ qua Tiến sỹ Skiner lúc còn ở Cambridge. Đó là một con người ngay từ thuở nhỏ đã luôn đầy say mê và nổi bật trong tất cả mọi lĩnh vực ông tham gia. Ông là một đại thiên tài. Tất cả mọi người đều biết như vậy, tất nhiên, người ta nói rằng ông là một trong số ít người mà từ thiên tài hoàn toàn đúng với ông, và chẳng có gì là cường điệu thổi phồng cả. Chẳng phải là ngay trong năm học đầu tiên, ông đã có được không biết bao nhiêu học bổng hay sao? Chẳng phải ông là Thủ khoa tốt nghiệp, được nhận huy chương danh dự, và còn vô số thứ khác nữa hay sao? Rồi ông còn là một diễn giả tuyệt vời, ở Câu lạc bộ Tranh luận, ông chẳng có đối thủ, và tất nhiên, cũng là trưởng hội này. Còn đạo đức, vốn là điểm yếu của nhiều thiên tài, lại là điều hoàn toàn không thể chê trách được nơi ông. Nhưng, trên tất cả những phẩm chất vĩ đại này, và thậm chí còn ấn tượng hơn cả tài năng thiên phú, chính là điều mà những người viết tiểu sử gọi là ‘sự háo hức hồn nhiên như một đứa trẻ’ của ông, và người ta có thể cảm nhận được nó qua thái độ nghiêm túc của ông ngay cả khi ông nói về những chuyện nhỏ nhặt. Và chẳng cần nói cũng biết, tư tưởng chính trị của ông thiên về phái Tự do.

Ngoại hình của tiến sỹ Skinner không gây cảm tình cho lắm. Ông cao vừa vừa, béo mập, với đôi mắt xám sắc lạnh tóe lửa dưới cặp lông mày rậm và gây sợ hãi cho bất kỳ ai đến gần. Mạnh mẽ bên ngoài, nhưng ông sẽ hoàn toàn yếu đuối, nếu người ta biết được điểm yếu của ông. Lúc còn trẻ, mái tóc ông màu đỏ, nhưng sau khi tốt nghiệp, ông mắc phải bệnh viêm não, dẫn đến hói đầu, và lúc bình phục, ông mang một bộ tóc giả, nhưng màu của nó lại đỏ hơn nhiều so với màu tóc tự nhiên. Ông chẳng bao giờ vứt bộ tóc giả đó đi, và nó cứ phai màu dần, cho đến khi ông được bốn mươi tuổi. Thì nó chẳng còn chút gì là màu đỏ nữa, mà đã hóa sang màu đà mất rồi.

Khi tiến sỹ Skinner còn rất trẻ, chưa quá hai mươi lăm tuổi, chức vụ hiệu trưởng trường Ngữ pháp Roughborough bị trống chỗ, và người ta chẳng chút lưỡng lự bổ nhiệm ngay ông vào vị trí này. Kết quả nói lên tất cả. Các học sinh của ông, khi vào bất kỳ Đại học nào cũng đều thể hiện được nét riêng của mình. Ông nhào nặn đầu óc họ theo khuôn mẫu của chính ông, và đóng vào họ một dấu không thể phai mờ ngay cả trong đời sau. Một người xuất thân từ Roughborough, dù thế nào đi chăng nữa, chắc chắn sẽ luôn cho người khác cảm tưởng rằng họ là một Kitô hữu sốt sắng kính sợ Thiên Chúa và là một người theo phái Tự do, nếu không cũng là phái Cấp tiến. Tất nhiên, một vài cậu bé không thể cảm nhận được cho đúng vẻ đẹp và sự cao quý nơi bản tính của ngài Skinner. Hỡi ôi, trường nào cũng có những đứa như vậy. Những cậu bé đó cảm thấy thật nặng nề khi ở dưới quyền của ông. Ông chống lại chúng, và chúng chống đối ông suốt thời gian còn ở trong trường. Chúng không những không thích ông, mà đúng hơn, chúng ghét tất cả những gì mà ông đại diện cho, và suốt đời, chúng ghét tất cả những gì nhắc nhớ đến ông. Tuy nhiên, chỉ có một thiểu số như vậy, còn toàn trường rõ ràng đều mang lấy tinh thần Skinner của ông.

Tôi đã từng được vinh dự chơi cờ với con người vĩ đại này. Hôm đó nhằm dịp Giáng Sinh, và tôi ghé xuống Roughborough vài ngày để thăm Alethea có chút việc. Ông thật tử tế khi chú ý đến tôi, bởi tôi chỉ mới chớm nổi trong nghề văn, một chớm nhỏ bé vô cùng mà thôi.

Thật sự là trong khoảng thời gian đó, tôi có viết nhiều bài hay, nhưng gần như chỉ hoàn toàn trong phạm vi kịch nghệ, và cũng chỉ là những vở kịch trào phúng và châm biếm. Tôi đã viết rất nhiều trong thể loại này, toàn những kiểu chơi chữ và những bài hát khôi hài, nhờ đó cũng có được thành công tương đối, nhưng tác phẩm tốt nhất của tôi là một nghiên cứu về lịch sử anh quốc trong thời kỳ Kháng cách, trong đó tôi có nhắc đến Cranmer, ngài Thomas More, Henry Đệ Bát, Catherine thành Arragon, và Thomas Cromwell (thời trẻ ông nổi tiếng hơn với cái tên Malleus Monachorum), và tôi đã thể hiện bài đó rất sinh động. Tôi cũng có chuyển thể truyện ‘hành hương’ thành vở kịch câm diễn vào dịp Giáng Sinh, và dàn dựng một cảnh quan trọng về hội Chợ Phù hoa, với ngài Độ lượng, Con quỷ, Kitô hữu, Nhân từ, và hy vọng là những nhân vật chính. Dàn nhạc trong vở kịch đó chơi những bản nhạc nổi tiếng nhất của handel, nhưng có biến đổi nhiều, nhất là phần hòa âm. Ngài Độ lượng là một người rất mập mạp với cái mũi đỏ, mang một chiếc áo gilê rộng, cùng áo sơ mi có diềm lớn ngay phía trước. Hy vọng được tôi họa lên đầy tinh nghịch hết mức có thể, với trang phục của một thanh niên sang trọng thời đó, ngậm điếu xì gà phì phèo mãi trên miệng. Kitô hữu không mặc gì nổi bật, thật sự thì người ta đồn rằng bộ áo mà giám đốc nhà hát vốn chuẩn bị cho nhân vật này bị chê là không phù hợp, ngay cả ngài lord Chamberlain cũng nói vậy, nhưng chuyện này không thành vấn đề.

Với tất cả những ngông cuồng phóng túng của mình, chắc chắn tôi phải thấy thật tội lỗi khi ngồi chơi cờ, một việc tôi vốn rất ghét, với tiến sỹ Skinner người Roughborough vĩ đại, nhà sử học Hy Lạp và chủ bút tờ Demosthenes. Hơn nữa, tiến sỹ Skinner là một trong những người tự hào về khả năng có thể khiến cho người ta thấy an bình ngay lập tức, và như thế, tôi cứ ngồi nép vào thành ghế suốt buổi tối đó.

Nhưng tôi vốn luôn là người dễ dàng tạo được sự nể trọng nơi những ngài hiệu trưởng.

Ván cờ kéo dài khá lâu, và đến chín giờ rưỡi, giờ ăn nhẹ, chúng tôi chỉ còn mỗi người vài con cờ. Giọng trong vắt của bà Skinner vang lên ‘Ông định dùng gì đây, tiến sỹ Skinner?’ một lúc lâu, ông chẳng trả lời, nhưng cuối cùng, với một giọng gần như nghiêm trọng quá mức, ông nói ‘Không,’ rồi tiếp ‘Không gì cả.’

Tuy nhiên, gần như ngay lúc đó, tôi có một cảm nhận như thể mình đang gần ngày tận thế hơn bao giờ hết. Gian phòng dường như tối hơn, hòa cùng với khuôn mặt u ám của tiến sỹ Skinner, một khuôn mặt đang chực nói gì đó. Nét mặt ông càng khó đăm đăm, và gian phòng như càng tối tăm hơn nữa. ‘Khoan,’ một lúc sau, ông mới nói, và tôi thấy dù sao đi nữa thì như thế cũng đã chấm dứt một tình trạng chờ đợi vốn nhanh chóng khiến người ta không thể chịu đựng nổi. ‘Khoan, có lẽ bây giờ tôi cần một ly nước lạnh, và vài mẩu bánh mỳ kèm bơ.’

Tiếng ‘bơ’ của ông xuống thấp đến nỗi thành một tiếng thì thầm khó có thể nghe cho rõ; rồi cuối câu, ông thở hắt ra như thể được giải thoát, và bây giờ mọi thứ đều đã ổn.

Sau mười phút im lặng đến nghiêm trọng, ván cờ của chúng tôi cũng kết thúc. Tiến sỹ nhanh nhẹn bật dậy và ngồi vào bàn ăn. Ông vừa nói với giọng vui vẻ, ‘Bà Skinner, cái thứ là lạ này là gì thế’, vừa nhìn món đồ ăn được bọc trong một lớp khoai tây.

‘Chúng là hàu, ông Skinner ạ’

‘Cho tôi một ít, và cho cả anh Overton nữa.’ rồi ông dùng hết dĩa hàu thơm ngon của mình, thêm một vỏ hàu chứa thịt bê băm được rán vàng, vài bánh táo, và một khoanh to bánh mỳ kẹp pho mát. Một mẩu bánh mỳ với bơ nghĩa là chừng đó đấy.

Khăn trải bàn được dọn ra kèm với những chiếc cốc và muỗng trà, một hai trái chanh và một bình nước nóng. Con người vĩ đại của chúng ta bắt đầu thoải mái, khuôn mặt ông sáng lên.

‘Và giờ là đồ uống gì đây?’ ông nói với giọng quyền uy. ‘Brandy và nước ư? Không. Nên là gin và nước. Gin tốt hơn cho sức khỏe.’ rồi rượu gin được dọn lên, và được pha rất cẩn thận, nóng và đặc.

Người ta có thể ngạc nhiên về ông, hoặc làm gì cũng được ngoại trừ thấy thương hại ông. Ông chẳng phải là hiệu trưởng trường Roughborough hay sao? Có bao giờ ông nợ tiền ai hay không? Ông đã lấy của ai, đã làm nhục ai, hay đã chiếm đoạt của ai bao giờ chưa? Đã có ai từng xì xào bàn tán về đức hạnh của ông hay chưa? Nếu như ông giàu có chính là nhờ một thứ đáng trọng nhất, kiến thức văn chương của ông. Trên tất cả các tác phẩm học thuật tuyệt vời của ông, quyển ‘Suy ngẫm về Tông thư và Đặc tính của thánh Giuđa’ đã đặt ông vào hàng những thần học gia nổi tiếng nhất anh quốc; toàn bộ đều cho rằng ai đã mua quyển sách này rồi thì chẳng cần phải suy gẫm lại vấn đề đó làm gì nữa, thật sự những ai cố tìm tòi thêm điều gì trong đó chỉ khiến mình mệt thêm mà thôi. Chỉ riêng tác phẩm này đã đem lại cho ông 5.000 bảng, và có lẽ trước lúc ông chết, khoản lợi nhuận này sẽ còn tăng gấp đôi. Một người đã làm được tất cả những việc trên, và chỉ muốn một mẩu bánh với bơ, người đó phải có quyền đòi hỏi những thứ cao sang hơn cho hợp với địa vị của người đó. Và khi nghe lời ông nói, người ta phải biết tìm cho ra cái mà ông gọi là ‘ý nghĩa sâu xa và ẩn giấu.’ Những ai biết tìm hiểu cho được cái ý sâu xa đó ngay cả trong những lời rõ ràng nhất của ông, sẽ chẳng mất phần thưởng của họ đâu. Họ sẽ phải hiểu cho được rằng ‘bánh mỳ và bơ’ theo đúng ý của tiến sỹ Skinner nghĩa là hàu kẹp thịt băm và bánh táo, còn nước phải hiểu là rượu gin nóng.

Nhưng gạt vấn đề tiền bạc sang một bên, chính những tác phẩm của ông đã làm cho tên tuổi ông sống mãi trong nền văn học. Có lẽ Gallio đã nghĩ rằng tên tuổi của mình sẽ nổi tiếng nhờ vào những bài luận về lịch sử tự nhiên mà ông đã biên tập, và chúng ta cũng đã tìm thấy nơi nhà ông ở Seneca những thứ, mà theo những gì chúng ta biết, chứa đựng một luận thuyết trọn vẹn về sự tiến hóa; nhưng những bài luận đó đã biến mất hết và tên tuổi của Gallio mãi mãi không phai mờ bởi một lý do có thể nói là điều cuối cùng ông dám nghĩ tới, và cũng là lý do cuối cùng có thể đem ra bợ đỡ cho sự phù phiếm của mình. Người muôn đời sau còn nhắc đến tên ông là bởi ông đã chẳng chịu quan tâm đến sự việc quan trọng nhất có liên hệ với đời ông (tôi mong rằng những người tìm kiếm sự bất hủ sẽ khắc cốt ghi tâm lấy bài học này, và đừng có huyên thuyên về những bước tiến quan trọng nữa).Và như thế, nếu tiến sỹ Skinner có trở nên bất hủ, thì có thể là bởi những nguyên do khác xa những gì mà ông đã thích thú tưởng tượng ra.

Liệu có thể mong một người như thế nhận ra được rằng thực sự thì ông ta chỉ kiếm tiền bằng cách làm băng hoại tuổi trẻ hay không? Nghĩa là cái nghề hái ra tiền của ông chỉ là việc làm cho những thứ tệ hại trông đẹp hơn trong mắt của những người quá trẻ và thiếu kinh nghiệm để có thể phát giác ra được thủ thuật của ông. Nghĩa là với những người mà ông tuyên bố dạy cho họ những điểm lý lẽ quan trọng, ông lại giấu đi với họ những thứ có thể cho họ quyền được tin tưởng vào những người nói lên sự thật. Nghĩa là ông chỉ là một kẻ hăng hái nửa nạc nửa mỡ với khuôn mặt tái xám cáu gắt và giọng nói lúng búng vốn chỉ có thể hù dọa được những kẻ yếu bóng vía, nhưng nếu ông cứ lỳ lợm như thế, thì ai có thể chạm được đến điểm yếu chí mạng của ông. Và nghĩa là quyển ‘Suy niệm về thánh Giuđa’ của ông chỉ là thứ trống rỗng không kiến thức, và sẽ bị xỉ vả thậm tệ nếu nhiều người không tin nó được viết một cách ngay chính.

Nếu như bà Skinner nghĩ rằng đáng để phải kéo ông xuống đúng chỗ của mình, thì có lẽ bà đã làm như thế, nhưng bà phải tất bật với đống việc nhà, và trông chừng con cái xem chúng đã ăn đủ chưa, mà nếu chúng đau yếu thì bà càng phải bận tâm hơn nữa, đó mới là cái bà quan tâm nhiều.

Bình luận