Ernest bây giờ đã được hai mươi sáu tuổi, và chỉ hơn một năm rưỡi nữa thôi, nó sẽ được tiếp quản tài sản thừa kế của nó. Tôi thấy chẳng có lý do gì để cho nó nhận số tiền này trước thời hạn Alethea đã định, và sau những biến cố vừa xảy ra, tôi cũng không thích việc nó cứ tiếp tục kinh doanh cửa hàng tại Blackfriars. Không phải đến bây giờ tôi mới hiểu cho trọn những khốn khổ nó đã phải chịu, cũng như tôi gần như đã xác định được từ lâu rằng thói quen xấu của người được cho là vợ nó sẽ dẫn nó đến tình cảnh túng thiếu thực sự đến thế nào.
Thực sự, tôi đã thấy trên khuôn mặt nó hằn dấu mệt mỏi và suy tàn, nhưng tôi quá làm biếng hay quá nản lòng để có thể duy trì cuộc tranh chấp lâu dài và có kết quả với Ellen, hầu từ đó gắn bó thân tình hơn với Ernest và khám phá ra những gì tôi cho là tôi nên biết. Rồi tôi gần như không biết mình có thể làm gì cho nó, bởi chẳng thấy được cách nào khiến nó tách lìa khỏi Ellen, và nếu nó vẫn cứ sống với cô, thì chẳng thể làm được gì nhiều cho nó cả.
Sau mọi chuyện, tôi thấy có lẽ mình đã đúng, tôi cho rằng mọi chuyện đến cuối cùng sẽ chuyển biến tốt khi được phó mặc cho chúng tự giải quyết. Dù gì đi nữa, dù mọi chuyện có tự vận hành hay không, thì bao lâu vẫn còn Ellen, mọi thứ nói chung vẫn mãi quá rối rắm để tôi dám xen vào. Nhưng bây giờ, cô ta đã ra đi, và mối quan tâm của tôi dành cho Ernest đã trở lại như trước, nên tôi vắt óc suy nghĩ rất nhiều lần xem thử tôi phải làm gì tốt đẹp cho nó bây giờ.
Đã ba năm rưỡi từ lúc nó sống, có thể nói là, tự lập ở London này. Trong những năm qua, nó trải qua sáu tháng làm giáo sỹ, sáu tháng trong tù, và hai năm rưỡi với những trải nghiệm gấp đôi về đời sống gia đình và kinh doanh. Tôi có thể nói rằng, nó đã thất bại trong mọi việc nó làm, thậm chí trong việc làm tù nhân đi nữa, nhưng những thất bại của nó lại luôn hệt như một chiến thắng đối với tôi vậy, đến nỗi tôi cảm thấy hài lòng khi thấy nó xứng đáng nhận những nỗi đau để từ đó tôi có thể giúp đỡ cho nó, chỉ một điều tôi e sợ là chẳng may tôi đã lỡ can thiệp vào chuyện của nó lúc đáng ra phải để cho nó tự giải quyết một mình. Xét tất cả mọi chuyện, tôi kết luận rằng ba năm thực tập sống gian khổ của nó là quá đủ, việc mở cửa hàng đã cho nó được nhiều điều, và giữ nó vừa đủ sống trong những lúc túng thiếu nhất, kinh doanh cũng đã cho nó dùng đến những khả năng của mình, và dạy nó nhìn thấy những lối thoát thuận lợi quanh mình trong khi trước đó vài tháng nó vẫn còn thấy mọi sự đều khó khăn không thể vượt qua nổi, và lúc đi ra buôn bán, nó cũng đã biết cảm thông nhiều hơn khi nhận biết và hiểu được những tầng lớp thấp trong xã hội và không giới hạn nó trong phạm vi sống của một quý ông. Khi đã đi trên đường và nhìn những quyển sách trên các gian hàng đồ cũ, những thứ lạ mắt trong các cửa hiệu đồ cổ, và vô số những hoạt động thương mại tràn lan quanh mình, nó nhận biết và cảm thông được cái gọi là kinh doanh đổi chác, mà nếu như không tự mở một cửa hàng thì chẳng bao giờ nó có được những trải nghiệm như thế.
Nó thường kể với tôi rằng những lúc nó rảo bộ trên đường xe lửa trông xuống khu ngoại ô đông dân, và nhìn ra những con đường liên tiếp chen chúc đầy những căn nhà cáu bẩn lụp xụp, nó đã tự hỏi mình rằng những người sống trong đó là loại người gì, họ làm gì và cảm thấy thế nào, cuộc sống của họ khác xa cuộc sống của nó đến mức độ nào. Giờ đây, nó bảo rằng nó đã biết hết rồi. Tôi không rành lắm về tác giả viết truyện Odyssey (người tôi chắc mẩm hẳn phải là một giáo sỹ), nhưng nó chắc rằng mình đúng nhất khi tóm gọn hình ảnh con người khôn ngoan như là một kẻ biết được ‘những cách thức và việc làm của nhiều người.’ liệu có một nền giáo dục nào so sánh được với điều này không? So với cuộc sống trong tù và thời gian làm thợ may ở Blackfriars, dường như đối với nó giờ đây, trường trung học và đại học chỉ là những thứ giả dối khiến nó suy đồi mà thôi. Tôi đã từng nghe nó nói rằng nó sẽ có thể đi lại hết những thứ đã gây khốn khổ cho nó chỉ để có được một hiểu bết sâu sắc hơn về tinh thần văn hóa Hy Lạp và kịch câm Surrey. Thật là kiên cường khi nó dám sẵn sàng vùng vẫy bơi nếu bị ném lại vào dòng nước sâu mà nó vốn đã không thắng nổi chính là trải nghiệm suốt ba năm vừa qua!
Nhưng như tôi đã nói, tôi nghĩ rằng đứa con đỡ đầu của mình giờ đây đã trải qua đủ những dòng chảy buốt giá của đời sống vốn sinh nhiều lợi ích cho nó rồi, còn bây giờ là lúc nó phải bắt đầu có một phong cách sống khác phù hợp hơn với tiền đồ sắp tới của nó. Cô Alethea của nó đã mong nó hôn lấy đất mẹ, và nó đã làm vậy đến cùng, nhưng tôi không thích cái ý nghĩ nó bất thần từ một chủ hiệu nhỏ trở thành một người có thu nhập khoảng ba đến bốn ngàn bảng một năm. Nhảy vọt quá bất ngờ từ túng bần qua phú quý cũng nguy hiểm hệt như ngược lại vậy, hơn nữa, thật đáng chán khi phải sống nghèo khó, nó gần giống như tình trạng phôi thai, mà tốt hơn người ta phải vượt qua trước khi nắm vững được những bước thăng tiến tiếp theo, nhưng cũng hệt như bệnh sởi hay bệnh tinh hồng nhiệt, người ta phải giải quyết nó cách thận trọng và mau chóng.
Dù không xảy đến bất ngờ, nhưng chẳng một ai có thể hoàn toàn tránh khỏi việc mất sạch những gì mình có trên thế gian. Tôi thường nghe những phụ nữ trung niên và những người đàn ông có gia đình nói rằng họ chẳng có khuynh hướng hành động dựa vào ước đoán, họ là những người chưa bao giờ từng thực hiện và sẽ không bao giờ thực hiện bất kỳ thứ gì ngoại trừ những khoản đầu tư bảo đảm nhất và được cho là tốt nhất, rồi khi vô số nguy cơ xảy đến, thì ôi thôi, thôi, họ tự cột tay bịt mắt mình lại mà thôi.
Bất cứ lúc nào nghe ai nói như thế, người ta có lẽ sẽ nhận ra được rằng họ chính là con mồi dễ dàng cho những kẻ lừa đảo, thực sự thì người như thế thường sẽ kết thúc những lời của mình bằng việc nói rằng bất chấp tính thận trọng tự nhiên của mình và bất chấp mình biết rõ việc suy đoán vô căn cứ ngu ngốc đến thế nào, vẫn có những khoản đầu tư được người ta gọi là ức đoán nhưng thực tế thì không phải vậy, và rồi lôi ra từ túi áo một tờ quảng cáo về mỏ vàng ở Cornwall. Chỉ khi thực sự mất tiền người ta mới nhận ra mất mát đó kinh khủng đến thế nào, rồi nhận thức được một điều rằng thật dễ thất bại khi người ta liều lĩnh bước ra khỏi lĩnh vực thành thạo nhất của mình. Ernest đã phải hứng chịu mất mát bất ngờ này, và đã phải trải qua sự nghèo đói, non nớt, cũng như đủ tồi tệ để một người có suy nghĩ sẽ gần như không thể quên được. Tôi có thể hình dung ra một tương lai sẽ tươi sáng hơn thế cho bất kỳ ai, chỉ cần, hiển nhiên là, anh ta phải không bị thiệt hại đến mức không thể cứu vãn được.
Tôi nghĩ nhiều về chuyện này đến nỗi, nếu như có quyền, hẳn tôi sẽ buộc mỗi trường phải có môn học đầu tư này. Các cậu bé sẽ được khuyến khích đọc Money Market Review, Railway News, và những tờ báo tài chính tốt nhất, và chúng cũng nên lập một thị trường chứng khoán riêng ở trường trong đó mỗi xu sẽ được tính là một bảng. Như thế sẽ cho chúng thấy ra được cách nhanh chóng làm giàu trong thực tế. Sẽ nên có có phần thưởng từ chính tay thầy hiệu trưởng cho cậu bé nào giao dịch khôn ngoan nhất, và những cậu bé cứ mãi thua lỗ hết lần này đến lần khác sẽ bị đuổi học. Tất nhiên, nếu có cậu bé nào thể hiện thiên tài trong việc đầu tư và kiếm tiền, thì tốt thôi, cứ để nó gia nhập vào việc đầu tư bằng mọi giá.
Nếu các trường đại học không đến nỗi tệ, thì tôi thích có một ban giáo sư về đầu tư ở Oxford và Cambridge. Tuy nhiên, khi nghĩ kỹ lại rằng những gì hai trường này có thể làm tốt chỉ là nấu ăn, cricket, bơi thuyền và các môn chơi khác, những thứ vốn không nhờ đến sự dạy bảo của giáo sư, tôi lại e rằng việc lập một ban giáo sư như thế cuối cùng sẽ chẳng dạy được cho đám thanh niên cách đầu tư, mà chỉ biến chúng thành những nhà đầu tư tồi tệ mà thôi.
Tôi từng nghe có một ông bố đã đem cái ý tưởng của tôi ra thực hành. Ông ta muốn con mình học biết được rằng những tờ quảng cáo hào nhoáng và những bài báo thổi phồng không đáng tin đến mức nào, nên đã cho nó năm trăm bảng để đầu tư tùy ý nó. Người cha nghĩ là mình sẽ mất số tiền này thôi, nhưng thực tế lại khác, bởi đứa con đã rất cố gắng và thận trọng nên số tiền trên cứ tăng lên mãi cho đến khi người cha lấy lại số tiền, thì tiền lãi đã, ông hài lòng kể, bằng với số vốn rồi.
Tôi đã từng phạm sai lầm về tiền bạc khoảng năm 1846, thời điểm mà ai ai cũng đều bị như vậy. Trong vòng vài năm, tôi đã phải sợ hãi và khốn khổ quá độ, rồi (nhờ một lời khuyên của người môi giới, đã từng khuyên can cha và ông tôi trước đó) đến cuối cùng tôi cũng đã thành công, và từ đó trở về sau tôi còn dám làm liều nữa, mà cố gắng bám càng sát lối đi cũ càng tốt. Thực sự tôi đã cố gắng để giữ tiền hơn là kiếm thêm. Tôi cũng làm như thế với tiền của Ernest, cụ thể là tôi đã không đụng đến chúng sau khi đầu tư vào những cổ phần của Midland theo đúng lời Alethea căn dặn. Nhưng rồi tôi đã thử làm cách khác, và mọi chuyện thuận lợi đã khiến khối tài sản của Ernest tăng hơn gấp rưỡi so với tổng số tiền có thể có được nếu tôi chẳng dám mạo hiểm với nó.
Khi tôi bán đi những trái khoán của Alethea vào cuối tháng tám năm 1850, thì cổ phần của Midland có giá ba mươi hai bảng trên một trăm bảng. Tôi đã đầu tư toàn bộ số tiền mười lăm ngàn bảng của Ernest với giá này, và không thay đổi gì cho đến tận tháng chín năm 1861, vài tháng trước một thời điểm mà tôi sẽ nói với các bạn rõ sau. Rồi tôi bán hết với giá 129 bảng mỗi cổ phần để đầu tư vào chứng khoán London and North-Western, mà người ta đã khuyên tôi là nhanh phất hơn cổ phần của Midland vào thời điểm đó. Tôi đã mua cổ phần của London and North-Western với giá chín mươi ba bảng cho một trăm bảng, và đến bây giờ, năm 1882, con đỡ đầu của tôi vẫn giữ số cổ phần này nguyên như vậy.
Số vốn 15.000 bảng, trong suốt mười một năm, đã tăng thành 60.000 bảng, khoản lợi tức tích lũy tất nhiên cũng được tôi tái đầu tư, đã lên đến hơn 10.000 bảng, nên tổng số tiền của Ernest đã là hơn 70.000 bảng. Hiện thời nó đã có được một khoản gần gấp đôi thế, và tất cả chỉ nhờ biết để cho số tiền đó được yên ổn.
Tài sản của nó bây giờ đã rất lớn, và có thể tăng thêm nữa trong vòng một năm rưỡi trước lúc nó đủ tuổi thừa kế, nên đến lúc đó nó hẳn nó sẽ có được khoản thu nhập ít nhất là 3500 bảng một năm.
Tôi muốn nó am hiểu chuyện kế toán bằng cách cho nó tính toán lại lần nữa số tiền này. Khi còn trẻ, tôi đã buộc phải nắm vững ngành này và thấy nó không quá khó, một khi đã đạt được, tôi trở nên say mê nó, và xem nó như là ngành quan trọng nhất đối với một thanh niên sau việc học đọc và viết. Bởi vậy, tôi đã xác định là Ernest phải nắm vững ngành này, và đề nghị nó làm quản gia, kế toán và quản lý đầu tư cho tôi, nên tôi cho nó xem sổ cái để thấy 15.000 bảng đã tích lũy thành 70.000 bảng như thế nào. Tôi cho nó hay là sẽ bắt đầu tiêu số tiền này ngay khi nó đạt đến 80.000 bảng.
Vài ngày sau khi Ernest khám phá ra cuộc hôn nhân của nó không có giá trị, và vẫn còn say sưa với tuần trăng mật êm đềm khi được trở lại cuộc sống trước hôn nhân, tôi đã đề nghị kế hoạch này với nó, mong nó hãy bỏ cửa hàng, và sẵn sàng trả nó ba trăm bảng một năm để đảm nhận việc quản lý (thực sự thì cũng không quá cần người làm việc này) chính số tiền của nó. Và với khoản thu nhập ba trăm bảng một năm này, chẳng cần phải nói cũng biết là, tôi đã thuyết phục được nó.
Nếu cần thêm điều gì để cho hạnh phúc hiện giờ của nó được trọn vẹn, thì đó chính là việc này. Chỉ trong vòng ba bốn ngày, nó đã thấy mình được tự do thoát khỏi mối quan hệ bất chính vô vọng ghê gớm cũ, và đồng thời lại được nâng từ một cuộc sống gần như nghèo khổ lên tận hưởng một khoản thu nhập mà đối với nó là rất đáng kể.
‘Một bảng một tuần,’ nó nghĩ, ‘cho Ellen, và số còn lại là của mình.’
‘Không,’ tôi nói, ‘chúng ta sẽ tính một bảng của Ellen vào tổng chi phí của bố. Còn con sẽ có đủ 300 bảng cho riêng mình.’
Tôi chọn trả cho nó ba trăm bảng bởi đó cũng chính là số tiền mà ông Disraeli trả cho Coningsby[39] khi cậu ta đang gặp vận khốn. Rõ ràng là ông Disraeli nghĩ rằng ba trăm bảng là số tiền tối thiểu để Coningsby có thể tằn tiện sống đủ, nhưng ông cũng cho rằng với sự hỗ trợ này, cậu ta sẽ tự xoay xở và thăng tiến trong vòng một hai năm sau. Vào năm 1862, lúc tôi quyết định việc này, giá cả đã lên so với thời của tác phẩm đó, dù không nhiều lắm, nhưng Ernest không có thói xa hoa như Coningsby, nên xét cho cùng thì tôi nghĩ ba trăm bảng một năm sẽ đủ tốt cho nó rồi.