Mùa đông khiến cuộc sống khó khăn hơn. Và Ernest chỉ còn biết xoay tiền bằng cách bán đi cây đàn của nó. Làm như thế dường như nó đã cắt đứt mối liên hệ cuối cùng với cuộc sống trước đây của mình, để rồi dìm nó hoàn toàn vào hình ảnh một ông chủ tiệm nhỏ bé. Dường như với nó, cho dù có chìm sâu bao nhiêu đi nữa vẫn chẳng thể tăng thêm nữa nỗi đau của nó, bởi nếu thật như vậy thì đơn giản là nó sẽ không chịu nổi và chết đi mất.
Bây giờ nó ghét Ellen, và cả hai sống với nhau mà chẳng có chút gì hòa hợp. Nếu không phải vì con cái, nó đã bỏ cô mà đến sống ở mỹ châu rồi, nhưng nó không thể để mặc hai đứa con cho Ellen được, mà cũng chẳng biết làm cách nào để đem chúng theo cũng như sẽ làm gì với chúng khi đến mỹ. Nếu còn tinh thần thì hẳn thế nào rồi nó cũng đưa con cái bỏ đi, nhưng bây giờ nó đã bị chấn động quá nhiều, và cứ sống ngày này qua ngày khác mà chẳng làm được gì.
Nó chỉ còn trong tay vài shilling cộng với số ít ỏi hàng hóa còn lại, nó cũng có thể có được ba hay bốn bảng nếu bán đi những bản nhạc và vài bức tranh cũng như đồ đạc của nó. Đã từng nghĩ đến chuyện sống bằng viết lách, nhưng nó bỏ bê ngòi bút lâu quá rồi, và bây giờ chẳng có nổi ý tưởng nào trong đầu. Nhìn về tương lai phía trước nó thấy thật vô vọng, cái kết là, nếu thực sự chưa đến thì cũng không còn bao lâu nữa, nó sẽ phải đối diện với cảnh túng thiếu thực sự. Khi thấy người ta ăn mặc rách nát, hay thậm chí không có giày và vớ, nó tự hỏi trong vòng vài tháng nữa thôi nó có giống như vậy hay không. Bàn tay tàn nhẫn và vô phương kháng cự của số phận đã nắm chặt nó và ấn nó xuống, xuống, xuống mãi. Nhưng đến lúc này, nó vẫn còn gắng gượng, làm những việc thường ngày của mình, đi mua áo quần cũ, rồi đêm về lại giặt ủi và sửa chúng.
Một sáng nọ, khi đã mua xong vài món áo quần từ một trong những người hầu của một nhà phía cực Tây thành phố và đang trên đường về nhà, nó bỗng thấy một đám đông nhỏ đang vây quanh một khoảng đất trống được chắn bằng hàng rào nơi bãi cỏ, gần một trong những lối đi của công viên Green.
Hôm ấy là một buổi sáng mưa xuân dễ chịu vào cuối tháng ba, với không khí nhẹ nhàng hơi bất thường so với mùa này, nhờ đó thậm chí nỗi muộn phiền của Ernest cũng được nguôi ngoai đi một lát khi chiêm ngắm mùa xuân đang bao phủ đất trời. Nhưng chẳng được mấy chốc, nó lại cười buồn và tự nói với mình: ‘mùa xuân có thể mang hy vọng cho những người khác, nhưng với mình thì từ nay về sau chỉ toàn là vô vọng.’
Nó vẫn còn mãi nghĩ như thế lúc chen vào đám đông nhỏ đang tụ tập quanh hàng rào, và thấy người ta đang ngắm những con cừu non còn rất nhỏ chỉ một hay hai ngày tuổi với ba con cừu lớn đang quây lại che chắn cho chúng khỏi đám đông quanh công viên.
Chúng trông thật dễ thương, và những người thành London này hiếm khi có dịp nhìn thấy cừu con nên chẳng lạ gì khi tất cả mọi người đều dừng lại để ngắm chúng. Ernest quan sát thấy người đang chăm chú thích thú nhất là một cậu bé bán hàng rong trông có vẻ ngớ ngẩn đang leo qua hàng rào với một khay thịt trên vai. Ernest đang nhìn cậu bé và cười vì sự háo hức kỳ cục của nó, thì nhận ra là có người đang chủ tâm quan sát nó. Đó là một người trong bộ đồ xà ích, cũng đã thôi không chú ý đến bầy cừu, và đang cố đi ngang qua bãi đất về phía nó. Ngay lập tức, Ernest nhận ra đó chính là John, người xà ích cũ của cha nó ở Battersby, và rồi tiến ngay về phía anh.
‘Ôi, cậu chủ Ernest,’ anh nói với giọng miền Bắc đặc sệt, ‘tôi vừa mới nghĩ đến cậu sáng nay,’ và cả hai bắt tay nhau nồng ấm. John đang ở trong một nhà rất khá vùng phía cực Tây London này. Anh nói là anh sống rất tốt từ khi rời Battersby trừ một hai năm đầu, và thời gian đó, anh nói mà mặt nhăn lại, đã gần như khiến anh sụp đổ.
Ernest hỏi chuyện ra làm sao.
‘Thế đó, cậu cũng thấy,’ John trả lời, ‘tôi luôn luôn yêu quý cô hầu Ellen, người mà cậu đã chạy theo và đưa cho cô ấy chiếc đồng hồ, cậu nhớ chứ, cậu chủ Ernest. Tôi cho rằng có lẽ cậu không quên ngày đó đâu, đúng không?’ Đến đây, anh ta cười phá lên, ‘tôi không biết mình có phải là cha của đứa con mà cô ấy mang trong bụng lúc ở Battersby hay không, nhưng rất có thể là như vậy. Dù gì, thì sau khi rời nhà cha cậu, tôi đã viết thư gởi cho Ellen đến một địa chỉ mà chúng tôi đã nhất trí từ trước, và nói rằng tôi sẽ làm những gì nên làm, rồi một tháng sau, tôi đã giữ lời và cưới cô ấy. Thế đấy, khi được Chúa yêu thương, thì mọi chuyện với người ta đều không thành vấn đề.’ Và trong lúc John đang còn nói thêm vài lời cuối về câu chuyện đời mình thì Ernest biến sắc, trắng bệch như tờ giấy và phải dựa đỡ lưng vào bờ rào.
‘John,’ chàng trai của chúng ta hỏi trong hơi thở hổn hển, ‘anh có chắc về những gì anh nói, anh chắc là anh đã cưới cô ấy?’
‘Tất nhiên là tôi chắc, tôi đã kết hôn với cô ấy trước mặt người làm chứng ở letchbury vào ngày mười lăm tháng tám năm 1851.’
‘Đỡ tôi một tay,’ Ernest nói, ‘và đưa tôi đến đường Piccadilly giùm với, gọi cho tôi một cỗ xe ngựa, và nếu anh có thời giờ thì hãy đi ngay cùng tôi đến nhà ông Overton ở khu Thánh Đường.’