Lần đầu tiên trong đời, Theobald cảm thấy mình đã làm được một điều đúng đắn, và lần đầu tiên anh có thể trông chờ được gặp cha mà không phải đề phòng gì. Tất nhiên, ông cụ đã viết cho anh một lá thư vô vàn thân ái, báo rằng mình nhận làm cha đỡ đầu cho đứa nhỏ. Mà đúng ra tôi nên trích nguyên văn nó ra, như thế mới thấy được rõ nhất tình cảm của ông. Lá thư như thế này:
‘Theobald yêu quý, lá thư của con đã khiến ta thật mãn nguyện, và niềm vui của ta thực sự còn lớn hơn nữa, bởi ta vốn đã từng nghĩ đến khả năng tệ nhất có thể, do đó, con hãy nhận lấy lời chúc thật tâm của ta dành cho con và cho vợ con.
Lâu nay ta đã giữ gìn một lọ nước lấy từ sông Jordan để dùng cho lễ rửa tội của cháu trai đầu của ta, và Chúa đã rủ lòng thương cho ta một đứa. Lọ nước này ta được ông bạn Tiến sỹ Jones tặng. Con sẽ đồng ý với ta rằng cho dù hiệu năng của bí tích rửa tội không dựa trên chất nước, tất cả mọi thứ đều như nhau, nhưng trong dòng nước lấy từ sông Jordan có một điều gì đó đặc biệt không thể phủ nhận. Những chuyện nhỏ nhặt như thế này đôi khi lại có ảnh hưởng lớn đến công danh tương lai sau này của đứa trẻ.
Ta sẽ đem theo đầu bếp riêng của ta, và ta cũng đã dặn phải chuẩn bị mọi thứ cho buổi tiệc mừng lễ rửa tội. Hãy mời càng nhiều láng giềng càng tốt, sao cho chật kín bàn ăn là được. Và ta cũng nói với lesuer là ĐỪNG ĐEM THEO TÔM HÙM, tốt hơn con nên tự đến Saltness và mua vài con (bởi Battersby chỉ cách biển có mười bốn hay mười lăm dặm đường); tôm ở đó ngon hơn bất kỳ nơi nào trên nước anh này, ít nhất cũng là ta nghĩ vậy.
Ta đã để lại cho con trai của con một khoản và sẽ được trao lúc nó tròn hai mươi mốt tuổi. Nếu anh trai John của con vẫn không có con trai, thì ta sẽ còn tăng khoản đó lên nữa, nhưng ta còn nhiều việc phải làm, và ta chưa hết thời như con nghĩ đâu.’
Cha yêu quý của con.
G. PONTIFEX.’
Vài ngày sau, cỗ xe độc mã đi dọc con đường mười bốn dặm từ Gildenham đến Battersby mang theo ông và đoàn tháp tùng của mình. Lesuer, đầu bếp ngồi trên bệ xe với xà ích, và người ta nhét thật nhiều thùng đựng đồ đầy trên nóc xe cũng như tất cả mọi chỗ khác có thể nhồi vào được. Ngày hôm sau, John, Eliza, Maria cũng đến, và cả Alethea, người sẽ làm mẹ đỡ đầu cho đứa trẻ theo chính nguyện vọng của cô. Ông Pontifex đã quyết định là phải tổ chức một buổi tiệc gia đình thật hạnh phúc, nên tất cả họ phải đến, và tất cả họ đều phải hạnh phúc, nếu không thì chẳng biết chuyện tồi tệ nào sẽ đổ xuống đầu họ đâu. Đến ngày tiếp theo, nhân vật chính của toàn bộ chuyện này đã được nhận phép rửa tội. Theobald muốn đặt tên con là George lấy theo tên của ông nội, nhưng lạ thay, ông Pontifex lại vượt quyền con và đặt cho đứa nhỏ cái tên Ernest. Từ ‘Ernest’[12] chỉ vừa mới thịnh hành đây thôi, và ông nghĩ rằng mang cái tên đó, cũng giống như việc được rửa tội bằng nước sông Jordan, sẽ có một tác động vĩnh viễn lên tính cách của đứa trẻ, và thúc đẩy nó làm điều tốt trong những thời khắc quan trọng của cuộc đời.
Tôi được mời làm cha đỡ đầu thứ hai của đứa trẻ, và rất vui sướng vì có cơ hội được gặp lại Alethea, bởi đã lâu lắm rồi chúng tôi chưa gặp nhau, dù vẫn liên lạc thường xuyên. Chúng tôi luôn giữ được tình cảm bạn bè từ thuở thơ ấu cho đến nay. Ông bà nội đã qua đời khiến cô không còn lui tới làng Paleham của chúng tôi nữa, nhưng tôi vẫn giữ được mối thân tình với gia đình Pontifex nhờ học cùng trường rồi cùng đại học với Theobald, và mỗi lần được gặp Alethea, tôi lại càng say mê cô hơn, với tôi dường như cô là người phụ nữ tốt tính nhất, tử tế nhất, tế nhị nhất, đáng yêu nhất và xinh đẹp nhất mà tôi từng gặp. Trong gia đình Pontifex, chẳng ai xấu xí, cả gia tộc họ đều dễ nhìn, nhưng xét về ngoại hình thì Alethea đúng là hoa khôi nổi bật trong vườn, còn những phẩm chất của cô càng khiến cô trở nên một người quá đỗi đáng yêu. Dường như những tính tốt vốn được định là ban đủ cho cả ba chị em lại được truyền hết cho Alethea, các cô chị chẳng được điểm nào, còn Alethea lại có đủ tất cả.
Tôi thật không thể giải thích tại làm sao mà cả tôi và cô ấy đều chưa lập gia đình. Chúng tôi biết rất rõ lý do, và tôi chỉ nói như vậy là đã đủ cho các bạn hiểu rồi. Cả hai chúng tôi đều đồng cảm và hiểu nhau hoàn toàn, chúng tôi biết rằng chúng tôi sẽ chẳng kết hôn với bất kỳ một ai khác. Tôi đã cầu hôn cô ấy hơn chục lần, nhưng ngang đây, tôi sẽ không nói thêm nhiều đến những chuyện không cần thiết cho câu chuyện của tôi. Vài năm gần đây, chúng tôi khó gặp được nhau, và tôi đã không được gặp cô ấy trong một thời gian dài, nhưng như tôi đã nói, chúng tôi vẫn giữ liên lạc thư từ thân mật với nhau. Thật tự nhiên khi tôi quá sung sướng lúc được gặp lại cô; bây giờ cô đã ba mươi tuổi, nhưng tôi nghĩ rằng lúc này trông cô lại đẹp hơn bao giờ hết.
Tất nhiên, cha của cô là người ồn ào nhất bữa tiệc, nhưng khi thấy chúng tôi đều ngoan ngoãn và khá nóng lòng chờ đến giờ ăn, nên dù ồn ào, ông chỉ nói những lời vui vẻ chứ không rầy la gì. Thật thú vị khi nhìn ông nhét khăn ăn vào dưới cái cằm già hồng hào của mình, rồi để nó buông trên chiếc áo thụng, còn ánh đèn trúc đài đang nhảy điệu vui tươi trên cái đầu hói của ông trông hệt như ngôi sao lạ.
Món súp là một cả một con rùa biển, rõ ràng ông già rất hài lòng và ông bắt đầu cởi mở hơn nhiều. Gelstrap đứng bên cạnh ông chủ mình. Còn tôi ngồi kế bên tay phải của bà chủ nhà, do đó đối diện với ông Pontifex, nhờ vậy được dịp quan sát ông thật nhiều.
Suốt mười phút đầu hay hơn một chút, trong thời gian dùng món súp và dọn món cá tiếp theo, tôi đã nghĩ là ông thật là một ông già tử tế và con cái hẳn phải rất tự hào về ông; nhưng đột nhiên khi ông tự mình xoay xở với món xốt tôm hùm, thì mặt ông đỏ bừng lên, và sự phật ý tột độ lộ hẳn ra ngoài, ông ném hai cái nhìn kín đáo nhưng đầy bực bội đến Theobald và Christina ở hai đầu bàn tiệc. Hai con người đơn giản tội nghiệp này, tất nhiên nhìn ra được rằng có việc gì đó rất xấu, và tôi cũng vậy, nhưng tôi không thể đoán được đó là điều gì cho đến khi ông già rít lên bên tai Christina: ‘Nó không được làm bằng tôm hùm cái. Ta đặt tên cho cháu ta là Ernest và rửa tội cho nó bằng nước sông Jordan để làm gì, nếu như cha nó không biết phân biệt tôm hùm đực hay cái?’
Điều này cũng làm tôi chưng hửng, bởi tôi thấy là cho đến tận lúc đó tôi chẳng biết gì nhiều về việc tôm hùm cũng có đực với cái, nhưng tôi từng nghĩ áng chừng rằng những cặp tôm hùm cũng tựa như thiên thần trên thiên đàng vậy, hầu hết chúng lớn lên một cách tự nhiên nhờ đá và cỏ biển.
Trước khi món tiếp theo được dọn ra, ông Pontifex đã bình tĩnh trở lại, và từ đó đến lúc tan tiệc, ông cư xử thật chuẩn mực. Ông kể cho chúng tôi nghe về lọ nước lấy từ sông Jordan, và nó đã được ngài Jones đem về cùng với những chiếc lọ đá khác chứa nước sông Rhine, sông Rhone, sông Elbe, và sông Danube như thế nào, và vì chúng mà ông ấy đã gặp rắc rối ở phòng hải quan ra sao, rồi còn về ý định làm rượu bằng nước kết hợp từ những dòng sông lớn nhất âu châu và về việc ông Pontifex đã không để dòng nước sông Jordan bị dùng vào việc lãng phí đó như thế nào,… V.v. ‘Không, không, không,’ ông tiếp tục, ‘hoàn toàn không được làm thế, các con biết đó, như thế là vô cùng báng bổ; bởi vậy, mỗi người chúng ta đã lấy một chai một panh về nhà, và không có chúng món rượu còn ngon hơn nữa. Tuy nhiên, ta đã thoát hiểm ngoạn mục, vào ngày chuẩn bị mang nó đến Battersby, ta đã vấp vào một chiếc thùng và ngã ra, nếu không hết mực giữ gìn thì hẳn cái chai đã bị vỡ rồi, nhưng ta đã giữ được nó.’ mà trong lúc ông nói, Gelstrap vẫn luôn đứng bên ông suốt buổi!
Không có thêm việc gì làm mất lòng ông Pontifex nữa, nên nhờ đó chúng tôi có được một buổi tối thật vui vẻ, mà tôi vẫn thường nhớ lại mỗi khi dõi theo đứa con đỡ đầu của tôi.
Một, hai ngày sau, tôi ghé lại và thấy ông Pontifex vẫn còn ở Battersby, nằm liệt với cơn đau gan và suy sụp nhiều bởi thấy mình ngày càng yếu hơn. Tôi nán lại đến buổi ăn trưa. Ông già rất khó tính và mệt mỏi, ông chẳng ăn gì, hoàn toàn không muốn ăn. Christina cố dỗ dành ông ăn một miếng nhỏ thịt nạc cừu. Ông gào lên giận dữ, ‘làm thế nào mà lại bảo ta ăn một miếng thịt cừu, Christina ơi, con quên rằng dạ dày của ta đang tệ lắm hay sao?’. Và ông đẩy cái dĩa ra xa, bĩu môi cau mày như một đứa trẻ hư. Với những chuyện về sau nữa, tôi nghĩ rằng trong lúc này tôi chẳng thấy gì ngoài những đau đớn đang lớn dần lên trong ông, kèm theo là sự cáu gắt ầm ĩ không thể không có vào giai đoạn chuyển tiếp của một đời người. Tôi cho rằng trong thực tế, không một chiếc lá nào vàng úa khi thu về mà lại không ngừng lo lắng về nhựa sống đang dần mất đi của chính nó, rồi cứ làm phiền cây mẹ với những tiếng làu bàu cằn nhằn mãi; nhưng chắc chắn, nếu thực sự chú tâm vào đó tự nhiên sẽ tìm ra được cách làm được việc này nhưng ít gây cáu gắt hơn. Tại sao tất cả các thế hệ đều phải gối lên nhau? Tại sao chúng ta lại không được vùi như những quả trứng trong những ngăn nhỏ gọn gàng ở Ngân hàng anh quốc, với mười hay hai mươi ngàn bảng quấn quanh mình; rồi thức giấc, như kiểu con ong bắp cày, để khám phá ra rằng cảnh khốn khó của chúng ta là do bởi, cha mẹ chúng ta đã cung cấp dự phòng cho chúng ta thật dư dật, nhưng trước khi chúng ta kịp sống có ý thức về chúng thì chúng đã bị những con chim sẻ ăn mất rồi?
Khoảng một năm rưỡi sau, Battersby lại mở tiệc, bởi vợ của anh John cũng vừa sinh được một đứa con trai. Một năm sau hay hơn nữa, ông George bị đột tử bởi chứng tê liệt, cũng như mẹ ông lúc trước, nhưng ông không được thọ như bà. Trong di chúc của ông, khoản tiền di chúc gốc 20.000 bảng của riêng Theobald (chưa kể khoản tiền mà ông đã cho hai vợ chồng lúc kết hôn) đã bị giảm thành 17.500 bảng lúc ông Pontifex để lại ‘một khoản’ cho Ernest. Khoản tiền được xác minh là 2.500 bảng này sẽ được giao cho người ủy thác để tích lũy. Toàn bộ tài sản còn lại thuộc về John, ngoại trừ mỗi cô con gái được để lại 15.000 bảng chưa kể mỗi người được thêm 5.000 bảng thừa kế từ mẹ.
Ông cụ đã nói cho Theobald sự thật nhưng lại không phải là toàn bộ sự thật. Hơn nữa, Theobald có quyền gì phàn nàn? Thật sự Theobald gần như không phải là kẻ thắng cuộc, và cũng chẳng thể cảm thấy vinh dự vì khoản di chúc này, khi mà số tiền đó hầu như luôn nằm ngoài hầu bao của anh. Mặt khác, cha anh chắc chắn đã viện lẽ rằng ông chưa bao giờ nói với Theobald rằng anh sẽ được nhận một khoản nào cả, và ông có toàn quyền quyết định tiền của ông theo ý riêng ông; nếu Theobald có ấp ủ những kỳ vọng vô căn cứ, thì đó chẳng phải là việc ông phải bận tâm; ông có quyền cho Theobald bao nhiêu tùy ý; và nếu ông có lấy 2.500 bảng trong phần của Theobald thì ông cũng vẫn để lại cho con trai anh, tất nhiên là, đúng y số tiền như vậy mà.
Không một ai chối cãi được là người lập chúc thư có toàn quyền quyết định, nhưng các bạn cũng sẽ đồng ý với tôi rằng trước sự việc như thế này, hẳn Theobald và Christina không còn xem buổi tiệc mừng lễ rửa tội của mình là một thành công lớn được nữa. Khi còn sống, ông Pontifex đã dựng một mộ bia ở nhà thờ Elmhurst để tưởng nhớ vợ mình (một phiến đá khắc hình những chiếc vạc và các tiểu thiên sứ trông như những đứa con rơi của vua George đệ tứ), và ông cũng đặt sẵn một chỗ cho mình ngay dưới đó. Tôi không biết những dòng mộ chí là do con của ông, hay một người bạn nào đó viết cho họ. Tôi không tin là những dòng này lại có ý châm biếm gì. Những gì tôi nghĩ là mộ chí này muốn nói rằng chỉ đến Ngày Phán xét mới có thể xác định được ông Pontifex là một người tốt đến mức nào, nhưng dù gì lúc mới đọc qua, thì thật khó để không thấy cái ý mỉa mai trong đó. Mộ chí bắt đầu với ngày sinh và ngày mất; rồi tiếp theo ghi rõ là người quá cố đã đứng đầu công ty Fairlie và Pontifex trong nhiều năm ròng, và đã cư trú tại giáo xứ Elmhurst này. Đó chỉ là những dòng chữ bình thường không có ý tán dương mà cũng chẳng chê bai. Còn dòng cuối cùng như sau:
GIỜ ĐÂY,
ÔNG NẰM ĐÓ CHỜ ĐỢI SỰ PHỤC SINH HÂN HOAN TRONG NGÀY SAU HẾT.
NGÀY ĐÓ SẼ CHỈ RA ÔNG LÀ MỘT CON NGƯỜI NHƯ THẾ NÀO.