Tôi không nghĩ khi biết được cuộc hôn nhân của nó không có hiệu lực, Ernest lại thấy vui mừng hơn cả tôi nữa. Nhưng niềm vui chấn động dâng cao này, một cách tích cực, lại không gây chuyện gì náo động. Khi thấy gánh nặng được cất đi, nó loạng choạng bởi chưa quen với sự nhẹ nhõm này, tình hình đã đảo ngược nên dường như tính khí của nó cũng đảo lộn theo, nó như người vừa tỉnh dậy sau cơn ác mộng kinh hoàng thấy mình vẫn bình an khỏe mạnh trên giường, nhưng lại gần như không tin là những người đầy vũ trang đang chực sẵn trong phòng để lao vào nó chỉ là những mộng mị vô thực.
‘Và chính là con,’ nó nói, ‘cách đây một giờ vẫn than van rằng mình quá đỗi vô vọng. Cũng chính con cách đây một tuần vẫn bị ngăn cách với thần Tài lộc, và cứ nói năng như thể bà ấy chỉ mỉm cười với người khác và chẳng bao giờ chiếu cố đến con vậy. Nhưng sao nào, chẳng một ai có được nửa may mắn như con đâu.’
‘Đúng vậy,’ tôi tiếp lời, ‘con đã bị hôn nhân làm bại hoại, và giờ đã bình phục.’
‘Nhưng con đã rất yêu cô ấy cho đến khi cô ấy sa vào rượu chè.’
‘Cũng có thể, nhưng chẳng phải Tennyson đã nói rằng: ‘Thà rằng đã yêu và đã mất mát, còn hơn là chưa hề mất mát thứ gì’ hay sao?’
‘Bố đúng là một kẻ độc thân ăn sâu trong máu rồi,’ nó đáp lại.
Rồi chúng tôi ngồi chuyện trò lâu giờ với John sau khi tôi đã cho ngay anh ấy năm bảng. Anh kể rằng, Ellen đã quen uống rượu từ hồi còn ở Battersby, chị bếp đã dạy cho cô, anh cũng biết như vậy, nhưng vì quá yêu cô, nên đã làm liều và cưới cô để cô khỏi phải sống đầu đường xó chợ và hy vọng có thể uốn nắn được cô. Kết cục của cô khi sống với anh cũng hệt như với Ernest, nghĩa là cô là một người vợ hoàn hảo bao lâu còn sống được điều độ, nhưng về sau lại trở nên vô cùng tệ hại.
Anh nói, ‘Trong toàn nước anh này, không một cô gái nào có tình tình dễ thương, khéo léo, xinh đẹp hơn cô ấy, và cô ấy cũng hiểu về đàn ông hơn bất kỳ ai, cũng như biết cách khiến cho anh ta được hạnh phúc nếu anh giữ được cô ấy tránh xa rượu chè, nhưng nếu anh không làm được, thì cô ấy sẽ giở đủ trò tinh ranh trước mắt anh mà anh chẳng hề hay biết. Đến lúc cô ấy không còn có thể lấy được món gì của anh mà đem cầm hay đem bán, thì cô ấy sẽ đi trộm đồ của hàng xóm. Lúc chúng tôi còn chung sống, cô ấy đã vào tù như vậy đấy. Suốt sáu tháng cô ấy ở trong tù, đáng ra tôi sẽ thấy rất hạnh phúc nếu như không ý thức được rằng cô ấy sẽ lại trở về. Rồi cô ấy cũng trở về nhà, và chưa đầy hai tuần sau khi tự do, cô ấy lại bắt đầu ăn trộm đồ đạc trong cửa hàng và ném tiền đó vào rượu chè. Bởi thế, khi thấy chẳng thể làm được gì cho cô ấy, và thấy thế nào cô cũng sẽ khiến tôi kiệt quệ, nên tôi đã bỏ cô và lên London, làm người hầu trở lại. Tôi đã chẳng biết cô ấy ra thế nào cho đến khi ngài và cậu Ernest cho tôi biết. Tôi hy vọng cả hai người đừng cho cô ấy biết là đã gặp được tôi.’
Chúng tôi cam đoan với anh là sẽ giữ lời, rồi anh ra về sau khi dành những lời tình cảm cho Ernest, người mà anh luôn thấy gắn bó nhiều.
Tôi và Ernest cùng bàn về những chuyện cần giải quyết, và quyết định rằng trước hết phải đem bọn trẻ đi, rồi sau đó thương lượng với Ellen về quyền nuôi chúng, còn về phần Ellen, tôi cho rằng chúng tôi nên cho cô một khoản trợ cấp khoảng một bảng một tuần bao lâu cô vẫn còn biết tránh xa những rắc rối. Ernest không biết kiếm đâu ra một bảng một tuần cho việc này, nên tôi bảo nó là tôi sẽ lo khoản này để nó thôi lo lắng. Trước hai giờ chiều hôm ấy, chúng tôi đã đưa bọn trẻ vốn lâu nay bị Ellen thờ ơ về nhà và giao cho bà thợ giặt của tôi, một người có tấm lòng mẫu tử, và bọn trẻ cũng như bà đều cảm mến nhau ngay khi vừa gặp mặt.
Rồi đến công việc đáng ghét là làm sao để thoát khỏi bà mẹ bất hạnh của chúng. Con tim Ernest nhói đau khi nghĩ đến chấn động cô phải chịu khi chia tay. Nó luôn nghĩ rằng người ta có quyền trên nó một khi đã hiến dâng cho nó một sự hỗ trợ vô giá, hoặc khi nó gây cho họ một thiệt hại không thể bù đắp, tuy nhiên sự thể hiện thời đã quá rõ ràng, nên dù có chần chừ, Ernest cũng không gây cản trở đáng kể nào cho việc này.
Tôi chẳng thấy có lý gì để bắt nó phải thấy đau khổ khi gặp lại vợ, nên đã giao cho ông Ottery, luật sư của tôi, lo toàn bộ vụ này. Hóa ra chúng tôi chẳng cần phải làm khổ mình khi nghĩ về những gì Ellen sẽ chịu lúc phải trở lại cuộc sống bơ vơ như trước đây. Ernest đã gặp bà Richards, người hàng xóm đã gọi nó xuống trong cái đêm nó phát hiện ra chứng nghiện rượu của vợ, và nhờ đó biết được đôi chút cảm nghĩ của Ellen về chuyện này. Cô dường như không có chút gì day dứt, và nói rằng ‘Tạ ơn Chúa, cuối cùng cũng xong!’ Và dù ý thức rằng cuộc hôn nhân này của cô không có hiệu lực, nhưng rõ ràng cô vẫn xem nó chỉ như là một việc chẳng đáng để bất kỳ ai phí thời gian quan tâm. Còn về việc chia tay của hai người, cô bảo đó là việc tốt cho cả Ernest và bản thân cô.
‘Cuộc sống này,’ cô nói tiếp, ‘không thích hợp với tôi. Ernest quá tốt so với tôi, anh ấy cần một người phụ nữ tốt hơn tôi một chút, và tôi cần một người đàn ông xấu hơn anh ấy một chút. Chúng tôi hẳn sẽ hợp nhau hoàn toàn nếu như không phải là vợ chồng, nhưng tôi đã quen phải có một nơi nào đó, dù nhỏ bé, cho riêng mình, và trong nhiều năm tới, tôi không muốn Ernest hay bất kỳ người đàn ông nào khác cứ luôn xen vào đó. Hơn nữa, anh ấy quá vững vàng, thời gian ở trong tù đã khiến anh ấy bản lĩnh hơn, anh nghiêm nghị trầm lắng hệt như những người đã từng vào tù vẫn thường vậy, và dù có chuyện gì xảy ra, anh cũng chẳng bao giờ chửi thề hay nguyền rủa, mà như thế lại khiến tôi thấy sợ anh, và rồi tôi càng uống nhiều hơn nữa. Điều mà những cô gái khốn khổ như chúng ta cần là đừng có đột ngột đảo ngược và biến thành một người phụ nữ đoan chính, điều này quá sức chịu đựng của chúng ta, và sẽ khiến chúng ta gục ngã, thứ cần thiết đối với chúng ta là một hai người bạn bình thường, sẽ giữ cho chúng ta khỏi chết đói, và bắt chúng ta phải sống tốt để gắn bó đôi chút với nhau lúc này lúc khác. Đó mới là những gì chúng ta có thể chịu nổi. Anh ấy có thể giữ bọn trẻ, anh ấy sẽ chăm sóc cho chúng tốt hơn tôi, còn về tiền bạc, anh ấy cứ cho hay giữ tùy ý, chẳng bao giờ anh làm gì gây hại cho tôi đâu, và tôi cũng sẽ để anh ấy được yên, nhưng nếu anh ấy muốn cho tôi tiền, thì tôi thấy tốt hơn tôi nên nhận lấy.’ Và cô đã nhận.
‘Tôi đây ư,’ Ernest lại tự nhủ với mình khi đã dàn xếp xong mọi chuyện, ‘một kẻ tự cho mình là bất hạnh đây ư!’
Tôi cũng cần nói thêm ở đây vài điều về Ellen. Trong vòng ba năm sau, cô vẫn đều đặn đến gặp ông Ottery mỗi sáng thứ hai để nhận một bảng của mình. Cô luôn ăn mặc chỉnh tề, trông thật kín đáo và xinh đẹp, đến nỗi chẳng ai nghĩ cô từng có một quá khứ như vậy. Lúc đầu, có đôi lần cô muốn được ứng trước tiền, nhưng sau vài ba lần đã cố dùng những câu chuyện thảm thê nhất để mong gây mủi lòng nhưng đều thất bại, cô đành từ bỏ và lặng lẽ đều đặn đến nhận tiền. Có lần cô đến với một mắt bị thâm đen do ‘một đứa bé đã lỡ tay ném đá trúng tôi’, nhưng nói chung, trong suốt ba năm, trông cô vẫn xinh đẹp hệt như lúc đầu. Rồi cô nói rằng cô đang định kết hôn một lần nữa. Nghe vậy, ông Ottery nhìn cô và chỉ cho cô thấy nếu làm như vậy là cô phạm tội lấy hai chồng. ‘Ông có thể gọi nó là gì tùy ông,’ cô trả lời, ‘nhưng tôi đang định đi đến mỹ quốc với anh Bill hàng thịt, và tôi hy vọng rằng ông Pontifex sẽ không quá khắc nghiệt với chuyện này và không cắt khoản trợ cấp của tôi.’ Ernest gần như không có ý định làm thế, nên nó và Ellen vẫn bình thường với nhau. Tôi tin rằng chính Bill đã khiến mắt cô bị bầm đen, và cũng chính vì thế, mà cô càng thích anh ta hơn.
Từ một vài tin nhỏ có được, tôi có thể thấy rằng hai người họ rất hợp nhau, và ở Bill, cô tìm thấy một người phù hợp hơn John và Ernest. Vào ngày sinh nhật, Ernest thường nhận được một phong bì gởi từ bưu điện mỹ kèm một thẻ đánh dấu sách với một câu trích bóng bẩy trên đó, hoặc kèm một cái lót quai ấm, hay những thứ đồ kỷ niệm nho nhỏ tương tự, nhưng không có thư. Còn về bọn trẻ, Ellen chẳng bao giờ nhắc gì đến chúng cả.