Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm. Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản

Xác Thịt Về Đâu

Chương 80

Tác giả: Samuel Butler

Chúng tôi xuất phát trên chuyến xe lửa đêm khởi hành từ Dover. Đêm hôm ấy, trời nhẹ nhàng, và ánh trăng soi bóng sáng lấp lánh trên biển. ‘Bố có thích mùi dầu máy động cơ của con tàu Channel không? Đó chẳng phải là một mùi gợi lên nhiều hy vọng hay sao?’ Ernest hỏi tôi, bởi nó đã từng đến Normandy vào một mùa hè thời thơ ấu cùng với cha mẹ nó, và bây giờ cái mùi này lại khiến nó nhớ về những ngày tháng êm đềm trước khi nó bị bầm dập trong đời. ‘Con luôn nghĩ rằng điều tốt nhất khi đi ra nước ngoài chính là tiếng pit tông uỳnh uỵch đầu tiên cùng tiếng hơi nước sùng sục đầu tiên vang lên khi mái chèo bắt đầu quạt nước.’

Thật lạ lùng như một giấc mơ khi chúng tôi đến Calais, và cứ kéo hành lý lê bước trong một đô thị lạ lẫm vào cái giờ vốn thường cả hai đã yên giấc nồng rồi, nhưng chúng tôi cũng sớm được ngủ khi đã lên xe lửa, và cứ gà gật cho đến lúc băng qua Amiens. Rồi cả hai chúng tôi tỉnh dậy lúc làn gió trong lành buổi sáng đầu tiên chớm đến, tôi thấy Ernest cứ mải miết chăm chăm vào tất cả mọi thứ chúng tôi đi ngang qua với tính hiếu kỳ đầy trìu mến. Không thấy những nông dân trong chiếc áo bành tô lái xe bò đi chợ sớm, cũng không có vợ của người gác chắn xe lửa đội mũ và áo của ông mà vẫy lá cờ báo hiệu màu xanh, chẳng có người mục đồng nào lùa đàn cừu đi ăn trong sương sớm, và bờ anh thảo chưa kịp nở hoa khi xe lửa băng qua vùng đồi, nhưng nó vẫn uống trọn hết toàn bộ cảnh vật với một niềm sung sướng ngây ngất không nói nổi thành lời. Chuyến tàu chúng tôi đang đi được mang tên Mozart, và điều này cũng khiến Ernest hết sức vui thích.

Chúng tôi đến Paris lúc sáu giờ sáng, vừa kịp giờ để băng qua thành phố và đón chuyến tàu sáng đến Marseilles, nhưng chưa đến trưa, bạn đồng hành trẻ tuổi của tôi đã mệt lả, rồi cứ ngủ li bì suốt, hiếm hoi lắm mới thức dậy trong vòng khoảng một giờ rồi lại tiếp tục chìm sâu vào cơn mộng. Nó đã cố chống lại cơn buồn ngủ, nhưng cuối cùng tự an ủi mình rằng dù sao thì nó cũng sẽ có quá nhiều niềm vui rồi, nên có thể bỏ qua một phần cũng vẫn tốt thôi mà. Khi đã xác định được như thế, nó thả mình vào giấc ngủ yên bình.

Ở Marseilles, chúng tôi được nghỉ ngơi và như tôi đã phần nào e ngại, sự thay đổi đã gây nên kích động quá mức so với tình trạng vẫn còn đang yếu của Ernest. Trong vòng vài ngày, nó vẫn còn rất yếu, nhưng về sau đã khá hơn. Riêng tôi, thì luôn thấy bị ốm là một trong những niềm vui lớn nhất đời, nhưng tốt hơn hết là đừng quá yếu và bị bắt phải làm việc lúc đang đau ốm. Tôi còn nhớ một lần mình bị đau trong một khách sạn nước ngoài và tôi đã thích thú nó đến thế nào. Tôi nằm đó mà chẳng cần bận tâm đến bất cứ điều gì, yên tĩnh và ấm áp, chẳng chút vướng víu trong đầu, để lắng nghe tiếng bát đĩa leng keng phía dưới bếp xa xa khi người phụ bếp đang lau chùi và cất đặt chúng, để ngắm nhìn những chiếc bóng thoắt đến thoắt đi khi mặt trời ẩn hiện sau làn mây, để lắng nghe tiếng róc rách êm tai của dòng suối nơi sân vườn, và tiếng nhạc ngựa cũng như tiếng vó lách cách trên đường khi con ngựa vùng lên bởi lũ ruồi tai quái, lúc đó tôi không chỉ là một kẻ được nhàn hạ, mà còn biết rằng nhiệm vụ của mình là phải sống nhàn hạ. ‘Ôi,’ tôi tự nhủ, ‘nếu bây giờ mình có thể, quên hết mọi thứ, và ngả mình ngủ thẳng, thật chẳng có gì đáng mong đợi hơn thế nữa hay sao?’

Tất nhiên là đúng như thế, nhưng dù người ta có cho đi nữa, chúng tôi cũng chẳng muốn bị ốm đâu. Dù có ma quỷ cám dỗ thế nào, chúng tôi cũng sẽ cố chống lại đến cùng chuyện này.

Tôi có thể thấy Ernest cũng có cùng những cảm giác hệt như tôi. Nó nói ít, nhưng chú ý đến tất cả mọi thứ. Có lần nó đã khiến tôi thấy sợ. Nó gọi tôi đến bên nó khi hoàng hôn đang xuống, và nói với tôi bằng một giọng trang nghiêm trầm lặng.

‘Con đã nghĩ,’ nó nói, ‘có lẽ con sẽ chẳng bao giờ lành bệnh đâu, và nếu thật như thế, con muốn bố biết rằng có một, chỉ một điều còn đang đè nặng trong con. Con muốn nói đến,’ nó nói tiếp sau một cái thở dài, ‘cách đối xử mà con đã dành cho cha mẹ. Con đã quá tốt với họ. Con đã rất ý tứ với cha mẹ,’ nói đến đây, nó chợt nở một nụ cười khiến tôi an tâm rằng chẳng có chuyện gì nghiêm trọng với nó cả.

Trên bức tường phòng ngủ của nó có một loạt những ảnh in từ thời Cách mạng Pháp trình bày lại những sự kiện trong cuộc đời của Lycurgus gồm có bức ‘Sự cao cả của linh hồn Lycurgus’, ‘Lycurgus thỉnh thị nhà tiên tri,’ và cả bức ‘Calciope trong sân.’ Dưới loạt tranh này có viết những chữ bằng tiếng Pháp và Tây Ban Nha dịch ra như sau ‘là hình mẫu yêu kiều và xinh đẹp, nàng Calciope cũng có một trí tuệ tuyệt vời không kém, và đã được Lycurgus công chính để mắt đến và gắn bó cùng. Say sưa chìm đắm trong tình yêu, chàng triết gia trẻ tuổi lừng danh đã đánh xe đến điện thờ Juno, và ở đó họ hợp nhất với nhau trong lời thề thiêng liêng. Sau nghi lễ đáng trọng này, Lycurgus vội vàng đưa tân nương của mình đến cung điện của Polydectes, vua Sparta, và cũng là anh trai chàng. ‘Thưa ngài’, Lycurgus nói, ‘Calciope đoan chính vừa nhận lấy lời thề hứa của thần dưới chân bàn thờ, và thần xin ngài phê chuẩn sự kết hợp này’. Lúc đầu nhà vua có vẻ ngạc nhiên, nhưng lòng yêu mến dành cho đứa em trai Lycurgus đã khiến ông rộng lượng đón nhận. Ngay lập tức, ông tiến đến và ân cần hôn Calciope, rồi ân cần với Lycurgus với một vẻ rất mãn nguyện.’

Ernest bảo tôi xem chúng và lúng búng nói điều gì đó như là nó thích cưới Ellen hơn Calciope. Tôi thấy nó đã khá hơn nhiều, và không ngần ngại gợi ý sẽ xuất hành trở lại trong vòng một hai ngày tới.

Tôi sẽ không bắt các bạn thấy mệt mỏi vì phải theo quá sát hành trình này. Chúng tôi đã dừng chân ở Siena, Cortona, Orvieto, Perugia và nhiều thành phố khác, rồi khoảng hai tuần sau khi băng qua Roma và Napoli, chúng tôi đến địa phận Venice và thăm viếng tất cả những đô thị tuyệt vời nằm giữa sườn phía nam dãy Alpes và sườn phía bắc dãy Apennines, rồi cuối cùng dừng chân ở đèo S. Gothard. Tôi không biết liệu Ernest có thích chuyến đi này hơn tôi hay không, nhưng đến lúc chúng tôi phải trở về thì nó đã bình phục đủ để có thể tạm gọi là khá ổn, và chỉ vài tháng sau nó đã chẳng còn thấy chút gì sót lại của những thương tích vốn ăn lần mòn nó suốt bốn năm qua, dù trên thân xác và tâm hồn nó vẫn còn hằn những vết sẹo không thể xóa mờ.

Người ta nói rằng khi ai đó mất đi một cánh tay hoặc một bàn chân, thì nỗi đau đớn sẽ không chỉ xảy ra ngay lúc vừa mất chúng mà còn mãi theo người đó rất lâu về sau. Và với Ernest, lúc cập bến anh quốc, một nỗi đau mà nó gần như đã quên được bây giờ lại quay về, ý tôi muốn nói đến nỗi buốt nhói của nó về chuyện đã từng ở tù. Bao lâu nó vẫn còn là một anh chủ hiệu nhỏ thì việc từng ở tù chẳng là gì, chẳng ai biết đến chuyện đó, mà nếu có biết đi nữa, người ta cũng chẳng bận tâm, nhưng giờ đây, khi đã trở về vị thế như trước, cũng là lúc quay lại nỗi nhục nhã cũ, và nỗi đau mà nó vốn đã tránh được lúc đầu nhờ dấn thân vào một môi trường quá mới lạ khiến nó gần như không nhận thức được sự khác biệt giữa nó với họ, bây giờ đây lại dấy lên nhức nhối như mới vừa xảy đến hôm qua mà thôi.

Nó nghĩ về quyết tâm cao độ lúc còn ở trong tù là sẽ biến nỗi ô nhục này thành sức mạnh hơn là cố làm người ta lãng quên nó. ‘Đúng là rất tốt khi mọi chuyện vẫn còn xa rời tầm tay của mình,’ nó tự nhủ, ‘nhưng bây giờ đã khác rồi.’ hơn nữa, ngoài những kẻ hợm người, có ai tự đặt cho mình những mục tiêu cao vời, hoặc quyết tâm cao độ hay không? Một vài người bạn của Ernest, khi hay biết nó đã bỏ người tưởng chừng là vợ nó và bây giờ đã thoải mái tự do trở lại, thì muốn cùng nó trở lại như trước. Nó rất biết ơn họ và đôi khi cố để đón nhận thành ý của họ một cách nửa vời, nhưng rồi cũng không được, và chẳng bao lâu sau, nó lại thu mình, vờ như chẳng biết họ. Cái tính thành thật tai quái cứ mãi ám ảnh và khiến nó tự nhủ rằng: ‘Những người này biết nhiều thứ, nhưng chẳng biết cho hết tất cả mọi chuyện, mà nếu biết rồi hẳn họ sẽ bỏ ta, và bởi thế, ta chẳng có lý gì để làm thân với họ cả.’

Nó nghĩ rằng tất cả mọi người ngoại trừ nó đều không có nỗi sợ và nỗi hổ thẹn nào. Tất nhiên họ phải là những người vô sự như vậy, bởi nếu không, thì hẳn họ đã phải cảnh báo tất cả mọi người về khiếm khuyết của mình rồi. Đúng, nó không thể làm kiểu đó, và nó không thể chiếm được thân tình bằng sự giả dối sai trái đó được, nên nó từ bỏ khao khát được phục hồi danh giá để rồi lại chìm sâu trong những sở thích cũ là âm nhạc và văn học.

Tất nhiên, từ lâu, nó đã thấy được làm như thế là cực kỳ ngu ngốc, ý tôi là ngu ngốc về mặt lý thuyết, bởi trong thực tế lại cho thấy tác động tốt hơn nhiều, vì nhờ làm vậy mà nó tránh được những mối quan hệ sẽ khiến nó phải ấp úng trong lời nói và thấy mình là kẻ thất bại. Nó đã làm mọi chuyện theo bản năng chỉ vì một lý do duy nhất, chính là vì việc đó hợp với bản chất của nó nhất. Xét về những gì nó nghĩ, thì chúng hoàn toàn là sai lầm, nhưng những gì nó làm lại đúng đắn. Một lần cách đây không lâu, tôi có nói vài điều tương tự như thế với nó, và cũng bảo rằng nó luôn luôn nhắm đến những điều quá cao xa. ‘Con chưa bao giờ nhắm đến điều gì cả,’ nó trả lời với tia lửa giận trong mắt, ‘và có lẽ bố chắc rằng một khi con có được cơ hội nào đó thì con chỉ nên tìm cho mình một đích nhắm đủ thấp mà thôi.’

Tôi cho rằng xét cho cùng thì chẳng một ai với tâm trí bình thường lại nhắm quá cao so với thâm tính đơn thuần. Tôi đã từng thấy một con ruồi đậu xuống cốc cà phê nóng có lớp sữa mỏng phủ bên trên, lúc chạm đến, nó mới nhận thức được mối nguy hiểm vô cùng này, và tôi chú ý thấy nó dùng những cẳng chân thật mạnh mẽ cộng với một nỗ lực phi thường để đạp trên cái bề mặt mỏng manh dễ đánh lừa đó và bám vào bờ rìa cốc, bởi nếu đậu trên mặt sữa thì sẽ không đủ chắc để nó lấy đà bay lên. Khi ngồi ngắm nó, tôi lấy làm thích mà nghĩ rằng hoàn cảnh khó khăn và nguy hiểm tột độ này đã khiến nó tăng cường được sức mạnh cả tinh thần và thân xác, rồi bằng cách nào đó nó sẽ truyền chúng lại cho con cháu sau này. Nhưng chắc chắn rằng nó sẽ không thể tăng cường được sức mạnh tinh thần nếu nó có thể tránh được việc này, mà nếu biết trước, thì nó sẽ chẳng chủ tâm đậu trên mặt cốc cà phê nóng như vậy đâu. Càng nhìn đời tôi càng thấy một điều chắc chắn rằng, chẳng cần phải bận tâm đến động cơ của người ta, bao lâu họ còn làm việc tốt, và cũng như thế lúc họ đã hoàn tất việc xấu của mình rồi. Tôi đã từng nghe một câu chuyện, dù không thể nhớ nổi là ở đâu, kể rằng ở vùng quê nọ từng xảy ra một nạn đói khủng khiếp khiến những người nghèo phải lao đao khốn khổ trăm bề, và thực sự là đã có nhiều người chết vì không có cái ăn, tình trạng khốn đốn bao trùm lên tất cả. Tuy nhiên, trong một làng kia, có một bà góa nghèo đang phải nuôi những đứa con dại, và dù rõ ràng là thiếu kế sinh nhai, nhưng bà vẫn chăm chút cho chúng được ăn đủ no và thoải mái, về phần mình, chúng cũng lo lắng cho bà như vậy.

Tất cả mọi người đều hỏi nhau: ‘làm sao mà họ sống được nhỉ?’ rõ ràng gia đình này có một bí mật, và chắc chắn đó chẳng phải là chuyện tốt đẹp gì, bởi trên gương mặt bà mẹ luôn có vẻ hốt hoảng như đang bị săn đuổi bất cứ lúc nào có ai nói lời gì bóng gió đến việc bà và các con vẫn sống tốt trong khi mọi người đều thiếu đói, hơn nữa, gia đình này đôi khi bị người ta bắt gặp đang lang thang ngoài đường vào những giờ bất thường ban đêm, và rõ ràng là họ đang ôm thứ gì trên tay đem về nhà, thật khó khiến người ta tin được đó là một việc lương thiện. Gia đình này biết mình đang bị tình nghi, trong khi từ trước đến nay họ luôn được tiếng là tốt trong vùng, và họ rất buồn vì điều đó, bởi họ tin rằng những gì mình đang làm nếu không phải là cực kỳ xấu xa, thì cũng là việc lén lút, dù thế họ vẫn sống tốt, và trụ vững trong khi tất cả mọi người chung quanh đều rơi vào cảnh kiệt quệ.

Sau một thời gian, sự việc đến mức đỉnh điểm và vị mục sư của làng đã chất vấn người đàn bà tội nghiệp quá gắt gao đến nỗi bà ta phải thú nhận, trong giàn giụa nước mắt và đau đớn vì mất phẩm giá, rằng: bà và con bà đã đến các bờ rào và lượm ốc sên về để luộc mà ăn, chẳng lẽ bà còn cách nào khác nữa để sống đây? Liệu có còn chút hy vọng cứu rỗi nào dành cho bà trong đời này và cả đời sau nữa, khi đã làm một việc ghê tởm như thế hay không?

Tôi lại được nghe một câu chuyện khác kể về một nữ bá tước góa chồng, và toàn bộ tài sản của bà đều đang gởi vào Công trái chính phủ. Với một đàn con đông đúc, và lòng đầy lo lắng làm cách nào để cho những đứa con thứ có được những khởi đầu thuận lợi, bà cần một khoản thu nhập lớn hơn những gì đang đầu tư vào Công trái. Nên bà đến gặp luật sư của mình và được khuyên là nên bán Công trái đi rồi đầu tư vào chứng khoán của London and North-Western với giá tám mươi lăm trên một trăm. Đối với bà bá tước, việc này cũng giống như việc ăn sên đất với bà góa nghèo tôi vừa kể trên vậy. Bà đã làm theo lời ông luật sư với cảm giác hổ thẹn và đau đớn, hệt như vừa làm một việc bẩn thỉu xong vậy, nhưng dù gì bà vẫn phải cho các con mình có được những khởi đầu tốt đẹp. Rồi suốt một thời gian dài, bà không thể chợp mắt vào ban đên, và cứ bị ám ảnh bởi những linh cảm chẳng lành. Nhưng rồi chuyện gì xảy ra? Bà đã cho các con mình có cái để khởi nghiệp, và trong vòng vài năm mua bán, số tài sản của bà đã tăng gấp đôi, rồi bà bán hết mà gởi lại vào Công trái chính phủ, sau đó chết sung sướng với khối tiền trong tay.

Thực sự, bà đã nghĩ rằng việc mình đang làm là sai trái và nguy hiểm, nhưng hoàn toàn chẳng có chút gì như vậy cả. Giả sử bà đầu tư với sự tin tưởng tuyệt đối vào lời khuyên tệ hại của một vài nhà băng nổi tiếng ở London, rồi mất hết toàn bộ số tiền, và lại giả sử rằng bà đã làm việc này một cách nhẹ nhàng và chẳng thấy chút tội lỗi nào, thì liệu một động cơ hoàn hảo và một mục đích vô tội như thế có đem lại được cho bà điều gì tốt đẹp hay không? Câu trả lời là không.

Còn bây giờ hãy trở lại với câu chuyện của chúng ta đã. Towneley là người khiến Ernest phải bận lòng nhất. Như tôi đã nói, anh biết rằng Ernest sẽ có được cả một gia tài, nhưng tất nhiên, Ernest chẳng hay là anh biết chuyện đó. Về phần Towneley, anh rất giàu và cũng đã có gia đình rồi, còn Ernest sẽ sớm giàu ngay thôi, và cũng thực sự có ý muốn, và chắc chắn không chóng thì chầy cũng sớm lập gia đình thôi. Towneley đúng là một người đáng để gắn bó, và có một hôm khi anh ấy gặp Ernest trên đường, nó cố để tránh mặt, còn anh thì không, và với bản tính nhạy bén anh ấy hiểu được ngay Ernest đang nghĩ gì, nên chặn nó lại, nói chuyện tử tế, bắt được thóp của nó, vui vẻ khiến nó phải bộc lộ ra hết suy nghĩ của mình, và nói rằng anh chẳng có kiểu ngốc như nó đâu.

Từ lâu đến giờ, Towneley vốn là thần tượng của Ernest, và nó, vốn rất dễ cảm động, lại càng biết ơn và nồng ấm với anh ta hơn bao giờ hết, nhưng vẫn có một điều gì đó mà nó không xác định được, mạnh hơn cả Towneley, đã khiến nó quyết tâm dứt khoát cắt đứt với anh hơn với bất kỳ người nào khác. Nó cám ơn anh với một giọng trầm vội vã, tay thì nắm chặt lại, hai dòng nước mắt cứ lăn trên má dù nó đã cố kìm nén. ‘Nếu chúng ta gặp lại nhau lần nữa,’ nó nói, ‘đừng nhìn tôi, nhưng lỡ may về sau, anh có nghe biết tôi viết điều gì đó mà anh không thích, thì xin hãy nghĩ về tôi độ lượng nhất có thể,’ rồi cả hai ai đi đường nấy.

‘Towneley là một người bạn tốt,’ tôi đau lòng nói, ‘và con không nên tuyệt giao với anh ta.’

‘Towneley,’ nó trả lời, ‘không những là một người tốt, mà còn là người tốt nhất con từng thấy trong đời, ngoại trừ,’ nó dành cho tôi một lời ca tụng, ‘…bố. Nơi Towneley là hình mẫu cho tất cả những gì mà con mong sẽ đạt được, nhưng giữa chúng con không tồn tại một mối thân tình nào cả. Con luôn sợ anh ấy sẽ không còn đánh giá tốt về con khi nghe con nói ra những gì không vừa lòng, và con biết là con sẽ nói ra rất nhiều điều,’ nó nói ra với giọng vui vẻ,

‘Mà Towneley sẽ chẳng thích đâu.’ một con người, như tôi đã nói, có thể bỏ cả cha mẹ vì Chúa Kitô nói chung là khá dễ dàng, nhưng lại thấy không quá dễ để từ bỏ những người như Towneley.

Bình luận