Tất nhiên, tôi đến thăm Ernest ngay lúc nó vừa đến London, nhưng lại không gặp được nó. Còn khi nó đến tìm thì tôi lại ra ngoài mất rồi, vậy nên mãi đến vài tuần sau, khi nó đã dọn đến căn hộ mới ở Ashpit Place, tôi mới thực sự được gặp mặt nó. Tôi thích vẻ mặt của nó, nhưng ngoại trừ đam mê chung là âm nhạc, thứ mà hai chúng tôi đặc biệt hợp nhau về thị hiếu, hầu như tôi chẳng biết làm thân với nó bằng cách nào. Công bằng mà nói, nó chẳng hé môi nửa lời với tôi về những kế hoạch của nó cho đến tận khi tôi bắt nó phải lộ ra. Mượn lời bà Jubb, chủ nhà của Ernest, tôi thừa nhận mình ‘không phải là người thường xuyên đến nhà thờ.’ Và sau khi dò xét, tôi khám phá ra rằng bà Jubb chẳng bao giờ đến nhà thờ ngoại trừ một lần duy nhất trong đời để rửa tội cho Tom, con trai bà hai mươi lăm năm về trước, và tôi e là bà còn chẳng làm phép kết hôn, bởi tôi không thấy nhẫn cưới trên tay bà, và bà thường gọi người đáng ra là ông Jubb bằng cụm từ ‘cha của con tôi’ chứ không phải là ‘chồng tôi’. Trở lại vấn đề chính, tôi phải thừa nhận rằng tôi rất phật ý khi biết Ernest đã được phong chức. Bản thân tôi không mong muốn được phong chức, và tôi cũng chẳng muốn những người thân thiết với tôi như vậy, cũng như tôi chẳng thích phải cư xử thật lịch lãm và làm bộ màu mè, nên tôi cũng mong như vậy cho đứa trẻ mà tôi nhớ có thời nó chỉ biết đến ngày hôm qua và ngày mai và thêm ngày thứ Ba nữa, còn lại chẳng có khái niệm gì về các ngày khác trong tuần kể cả chủ nhật, và có thời nó nói rằng nó không thích mèo bởi chúng có những móng nhọn ở ngón chân.
Tôi nhìn Ernest và nghĩ về cô Alethea của nó, cũng như về số tiền đang lũy tiến rất nhanh mà cô để lại cho nó để rồi toàn bộ sẽ rơi vào tay chàng trai trẻ này, người có thể sẽ dùng chúng theo cách những cách khó mà hợp ý với Alethea nhất. Tôi khó chịu và tự nhủ rằng ‘Cô ấy luôn luôn bảo rằng cô có thể gây nên một chuyện tệ hại, nhưng tôi đã không nghĩ là chuyện này lại tệ hại đến mức như thế này.’ rồi tôi nghĩ rằng có lẽ nếu Alethea sống được đến bây giờ thì mọi chuyện đã không đến nỗi này.
Ernest cư xử khá đàng hoàng với tôi và tôi phải nhận rằng nếu câu chuyện của chúng tôi bị đẩy đến những chủ đề khó chịu thì đó là lỗi của chính tôi. Tôi là người gây hấn trước, bởi dựa vào tuổi tác và mối quan hệ lâu dài với Ernest tôi cho mình quyền ngấm ngầm gây cảm giác khó chịu cho nó.
Rồi nó lên tiếng, và thật bực mình vì xét đến mức độ nào đó, nó khá có lý. Tôi cho rằng những tiền đề và kết luận của nó cũng đủ để nói chuyện, nhưng lại chẳng nhìn ra được rằng nó đã được phong chức, và cứ tranh luận với nó như thể nó chưa được phong chức vậy. Kết quả là tôi phải chịu thua và bỏ về với một tâm trạng không được tốt cho lắm. Tôi tin rằng tôi thực sự thích Ernest, và sự phật ý của tôi do bởi nó là một giáo sỹ, và là một giáo sỹ sẽ được nhận một số tiền quá lớn. Lúc đi về, tôi có nói chuyện đôi chút với bà Jubb. Ngay từ cái nhìn đầu tiên, cả hai chúng tôi đều nhận thấy người đối diện chẳng phải là loại người ‘thường xuyên đi nhà thờ,’ và nhờ đó bà bắt đầu cởi mở với tôi. Bà nói rằng Ernest sẽ chết sớm. Nó quá tốt so với thế gian này và đôi mắt nó buồn ‘hệt như anh Watkins ở Crown bên kia đường mới mất hồi tháng trước, có màu da trắng bệch như thạch cao, và người ta kháo rằng anh đã tự vẫn bằng súng. Họ đưa anh đi từ Mortimer, tôi gặp họ lúc đang đi trên đường cùng cô Rose để lấy một panh bia thường, và cô ấy đang phải băng tay bằng nẹp. Cô ấy nói với chị mình là muốn đến Perry để lấy một ít len, thay vì nói là đi đến cửa hàng duy nhất có bán bia thường, thật tốt bụng quá, chẳng có ai làm vậy với bà già Jubb này, và thật là dối trá kinh tởm khi nói cô là một kẻ phóng đãng, nhưng mà tôi thích phụ nữ phóng đãng, tôi thà đưa nửa đồng crown cho một phụ nữ phóng đãng còn hơn cho một quý bà thùy mị một cốc bia, nhưng tôi không muốn dính dáng đến những cô gái hư chút nào. Còn người ta đưa anh Watkins đi, và chẳng thấy anh về nữa, cái kiểu tự vẫn của anh thật là khéo. Vợ của anh ở quê với mẹ, và luôn nói chuyện tử tế về cô rose của tôi. Tội nghiệp anh ta, mong sao cho anh được lên Thiên đàng. Ngài ạ, ngài có tin rằng trên khuôn mặt anh Pontifex có nét gì rất giống với anh Watkins, nhiều lúc tôi thấy anh ấy thật lo lắng và chộn rộn, nhưng mỗi lần lại vì một chuyện khác nhau, bởi anh ấy chẳng biết gì hết, chẳng hơn một đứa trẻ còn trong bụng mẹ, nói trắng ra thì một con khỉ đi kèm với một tay đàn Ý ở London này còn biết nhiều hơn anh Pontifex. Anh ấy chẳng biết gì, tôi cho là vậy…’
Nói đến đây thì một đứa trẻ chạy việc gần đó xộc vào và bà Jubb phải quay sang nó, nếu không thì tôi chẳng biết lúc nào bà mới dừng bài nói của mình nữa. Tôi nhân cơ hội đó để chuồn đi, nhưng cũng nhớ đưa cho bà năm shilling và địa chỉ của tôi, bởi những lời bà vừa nói khiến tôi thấy hơi ái ngại. Tôi dặn bà nếu có chuyện gì xấu xảy ra với Ernest thì hãy đến báo cho tôi biết.
Nhiều tuần trôi qua và bà ta chẳng đến. Dù gì thì tôi cũng đã cố giúp Ernest trong khả năng của mình rồi, và tôi thấy không cần phải làm gì thêm, cứ để mặc nó bởi nghĩ rằng có lẽ tôi và nó chỉ gây khó chịu cho nhau mà thôi.
Đến bây giờ, nó đã được phong chức gần bốn tháng rồi, nhưng đó chẳng phải là một thời gian hạnh phúc hay thỏa mãn đối với nó. Nó đã sống cả đời trong một ngôi nhà của giáo sỹ, và có lẽ cũng biết rõ một giáo sỹ là như thế nào, cụ thể riêng với nó là biết rõ về một giáo sỹ thôn quê. Nhưng nó cũng đã có một hình mẫu lý tưởng về một giáo sỹ thành thị và đang cố chớm thử hiện thực hóa nó, nhưng dường như đó luôn là điều bất khả thi đối với nó.
Nó sống giữa người nghèo, nhưng chẳng thấy ra cách nào để quen biết họ. Cái ý tưởng cho rằng người ta sẽ chạy đến với nó đã là một thứ sai lầm. Thực sự thì nó có viếng thăm một vài giáo dân ngoan ngoãn mà mục sư quản nhiệm gởi gắm cho nó, bao gồm một ông già và bà vợ sống sát ngay cạnh nhà của Ernest, rồi một thợ hàn tên Chesterfield, một bà già tên Gover đã mù và liệt giường, thường nhai đi nhai lại cái hàm yếu ớt rụng sạch răng của mình mỗi khi Ernest nói chuyện hay đọc sách cho bà nghe, thêm ông Brookes một người buôn ve chai ở Birdsey’s Rents đang trong giai đoạn cuối của bệnh phù thũng, và có lẽ thêm khoảng nửa tá người khác tương tự như vậy nữa. Và chuyện gì xảy ra khi Ernest đến thăm những người này? Người thợ hàn muốn được tâng bốc, và thích dụ một quý ông lãng phí thời gian để rửa tai cho mình. Bà Gover già tội nghiệp thì muốn tiền, bà rất tử tế và dễ bảo, cứ mỗi lần Ernest đưa cho bà một shilling từ của di chúc của cô anne Jones thì bà lại nói ‘của ít nhưng đúng lúc’ và cứ nhai trệu trạo cái hàm ra vẻ biết ơn. Đôi khi Ernest cũng lấy tiền túi để cho bà, nhưng theo những gì nó mới nói với tôi, thì nó chỉ đưa bà chưa đến một nửa số tiền nên cho. Liệu nó có thể làm thêm được điều gì đó hữu ích chút xíu cho bà hay không? Thật sự là không, nhưng nếu thỉnh thoảng cho bà nửa đồng crown cũng chẳng thể phục hưng được cả vũ trụ này, và Ernest không muốn những thứ tầm thường như vậy. Thế giới này hoàn toàn hỗn loạn, và thay vì cảm nhận rằng nó được sinh ra để thiết lập lại trật tự, nó lại nghĩ mình chỉ là kiểu người muốn làm việc đó, và háo hức làm việc đó nhưng lại không biết bắt đầu từ đâu, bởi những việc vặt ban đầu nó làm với ông Chesterfield và bà Gover chẳng hứa hẹn một bước tiến lớn nào hết.
Còn ông Brookes tội nghiệp, người thực sự đã phải đau khổ rất nhiều, ông ta chẳng thiếu tiền, nhưng ông muốn chết mà không được, cũng hệt như đôi lần chúng ta muốn ngủ mà bất lực vậy. Ông là một người suy nghĩ nghiêm trọng, và cũng như những người khác, sự chết khiến ông kinh hãi khi nghĩ rằng sau khi qua đời, mọi bí mật của ông sẽ sớm bị phơi bày trước công chúng. Khi tôi đọc cho Ernest đoạn mô tả những gì Theobald, cha nó đã làm khi đến thăm bà Thompson tại Battersby, nó đỏ mặt mà nói rằng ‘đó đúng là những gì con đã nói với ông Brookes.’ Ernest cảm thấy những buổi thăm viếng của nó chẳng xoa dịu được chút nào mà ngược lại còn khiến ông sợ hãi cái chết hơn nữa, nhưng nó còn làm được gì nữa đây?
Ngay cả Pryer, vốn đã làm trợ tá được hai năm, vẫn chỉ biết được khoảng hai trăm người trong giáo xứ này, và cũng chỉ viếng thăm nhà vài người trong số đó, nhưng rồi anh ta phản dối mạnh mẽ cái nguyên tắc phải đi thăm viếng nhà giáo dân. Thật là muối bỏ biển khi so sánh số lượng người mà Ernest và Pryer đã trực tiếp nói chuyện với con số cần thiết đáng ra họ phải gặp gỡ nếu như muốn gây nên được nhiều tác động lên người ta dù theo cách nào đi nữa. Tại sao có khoảng từ mười lăm đến hai mươi ngàn dân nghèo trong giáo xứ, nhưng lại chỉ có một con số rất nhỏ đến những nơi thờ phượng. Một số người đến các nhà nguyện không chính thống, số khác theo Công giáo, tuy nhiên có rất nhiều người thực tế được xem như vô tín ngưỡng, nếu không muốn nói là thù địch, thờ ơ với tôn giáo, còn số khác lại công khai tự nhận là vô thần, những kẻ ái mộ Tom Paine[31], đối với Ernest đây là lần đầu tiên nó nghe đến những người này, nhưng chưa từng gặp và trò chuyện với bất kỳ ai trong số họ.
Liệu Ernest đã làm tất cả mọi điều được kỳ vọng nơi nó hay chưa? Có thể nói rằng nó đã làm đủ nhiều so với các giáo sỹ trẻ khác, nhưng đó chưa phải là lời đáp trả mà Chúa Giêsu Kitô muốn nhận, sao nào, ngay cả những kẻ giả hình cũng làm đủ những việc mà những kẻ giả hình khác làm, chẳng phải là vậy sao? Việc nó phải làm là đi ra các ngả đường lớn và đường hẻm để bắt người ta vào nhà thờ. Nó đã làm như vậy chăng? Hay là họ đã khiến nó phải đứng ngoài không vào được trong nhà họ? Chẳng mấy chốc, nó bắt đầu cảm thấy bứt rứt khó chịu, và trừ phi giữ được sự tỉnh thức sắc sảo, nếu không nó sẽ vật vờ thành một kẻ treo đầu dê bán thịt chó mà thôi.
Thật sự, theo nó nghĩ, tất cả sẽ sớm thay đổi ngay khi nó có thể lập ra được cái trường Đại học Bệnh học Phần hồn của nó, tuy nhiên mọi chuyện lại chẳng khả quan mấy với ‘cái mà mọi người mua ở nơi gọi là Sở Giao dịch Chứng khoán.’ Để kiếm tiền nhanh hơn, Pryer và nó quyết định sẽ mua thứ đó nhiều hơn mức nó có thể chi trả, với ý tưởng rằng trong vòng vài tuần hay vài ngày, chúng sẽ lên giá, rồi nó có thể bán chúng kiếm một khoản cực hời, nhưng tiếc thay, những thứ Ernest đã mua chẳng những không lên giá mà lại còn rớt giá ngay lập tức, và mãi vẫn chẳng chịu lên giá lần nữa, nên sau một vài phiên, nó bắt đầu thấy sợ hãi, bởi đã từng đọc trên báo rằng chúng sẽ còn xuống thấp nữa, và đi ngược lại với lời khuyên của Pryer, nó nhất quyết đòi bán hết, chịu lỗ khoản 500 bảng. Nó gần như đã bán hết sạch khi giá những cổ phiếu đó bắt đầu khả quan hơn, và nó thấy mình thật ngu ngốc còn Pryer quá khôn ngoan, bởi nếu như biết nghe lời của Pryer thì hẳn nó đã kiếm được năm trăm bảng rồi, thay vì phải mất đi cùng khoản tiền đó. Tuy vậy, nó tự nhủ rằng nó còn phải sống và học hỏi nhiều nữa.
Rồi đến lượt Pryer phạm sai lầm. Cả hai đã mua một số cổ phiếu, và chúng lên giá mạnh mẽ chỉ trong vòng hai tuần. Đây thật sự là thời điểm vui vẻ, khi đến hết tuần thứ hai, chúng không những thu hồi được khoản lỗ năm trăm bảng, mà còn kiếm thêm được ba hay bốn trăm bảng tiền lời nữa.
Tất cả những bồn chồn lo lắng của sáu tuần trước lúc mất năm trăm bảng, bây giờ đã tiêu tan hết chỉ còn lại sự phấn khích. Ernest muốn bán đi số cổ phiếu này để đảm bảo lợi nhuận, nhưng Pryer không chịu nghe, và cho rằng chúng sẽ còn tăng giá nữa, anh ta trưng cho nó một bài báo chứng minh lý lẽ của mình, và rồi đúng là chúng có lên giá thêm một chút, nhưng chỉ một chút thôi, bởi ngay sau đó chúng xuống giá và cứ xuống giá mãi. Ernest thấy đầu tiên là khoản lời ba bốn trăm bảng ra đi, rồi tiếp đến là khoản gỡ gạc năm trăm bảng, và rồi chúng còn tiếp tục xuống giá khiến nó mất thêm hai trăm bảng nữa. Có một tờ báo nói rằng những cổ phiếu này là thứ rác rưởi nhất từng được lên sàn, và Ernest không thể chịu đựng thêm được nữa, nó bán hết, lần này cũng là ngược với ý của Pryer, rồi khi chúng sớm lên giá trở lại, Pryer lại một lần nữa thể hiện mình trên cơ Ernest.
Ernest không quen với những thịnh suy kiểu này, và chúng khiến nó lo lắng đến đỗi phát bệnh. Bởi thế, cả hai quyết định tốt hơn là nó không nên can dự gì vào việc kinh doanh này. Pryer giỏi kinh doanh hơn nó nhiều, và có thể coi sóc hết tất cả. Như thế là giải thoát cho Ernest khỏi những rắc rối và cũng tốt hơn cho việc kinh doanh, bởi theo lời của Pryer, thì những người yếu tim khó hy vọng thành công trong ngành mua bán cổ phiếu, hơn nữa khi thấy Ernest bồn chồn, Pryer cũng sẽ bị rơi vào tình cảnh tương tự, ít nhất thì anh ta nghĩ vậy. Còn về phần mình, Ernest chẳng còn gì ngoài đồng lương phụ tá và khoản trợ cấp nhỏ từ cha mình.
Từ những lá thư, vài người bạn của Ernest cũng đoán biết được đôi chút về những gì nó đang làm và cố hết sức để khuyên can nó, nhưng như một người trẻ tuổi đang yêu, nó vẫn chìm sâu trong mê muội. Lúc thấy bạn bè phản đối, nó liền xa lánh họ, còn họ chán nản với thói tự đại và những ý tưởng quá xa vời của nó, và cũng chẳng thấy có lỗi gì khi để mặc nó làm gì thì làm. Tất nhiên nó chẳng hé môi về những khoản đầu cơ của nó, thật sự là nó gần như không biết rằng chẳng có cái gì tốt đẹp mà lại mang tên là đầu cơ cả. Còn tại Battersby, khi cha nó hối thúc về bước thăng tiến tiếp theo, thậm chí còn chỉ ra cho nó một hai điểm hứa hẹn, nó đều phản đối và thoái thác, cho dù luôn miệng hứa sẽ sớm làm theo ý muốn của cha.