Ernest đã kể với Ellen là nó đã gặp khó khăn đến thế nào khi tìm việc.
‘Nhưng anh yêu, anh nghĩ thế nào về một cửa hàng,’ Ellen nói. ‘Tại sao không tự mở một cửa hàng cho riêng mình chứ?’
Ernest hỏi cô việc này sẽ phải tốn bao nhiêu tiền. Ellen cho biết rằng nó có thể thuê một căn nhà nơi một con đường nhỏ nào đó, cụ thể là gần đại lộ ‘Elephant and Castle,’ với giá khoảng mười bảy hay mười tám shilling một tuần, và cho thuê lại tầng trên với giá mười shilling, còn giữ lại phòng hậu và cửa hàng để sử dụng. Nếu nó có thể kiếm được năm hay sáu bảng để mua một số áo quần đã qua sử dụng, thì hai người có thể may vá chỉnh sửa và giặt sạch chúng mà đem bán lại, và cô sẽ lo phần áo quần phụ nữ, còn nó thì lo phần trang phục đàn ông. Rồi nó có thể làm việc sửa áo quần và thậm chí là may đồ mới nếu có người đặt hàng.
Với cách làm này, cả hai sẽ sớm kiếm được hai bảng mỗi tuần. Ellen có một người bạn cũng khởi nghiệp như thế này và bây giờ đã chuyển đến một cửa hàng lớn hơn, kiếm được ít nhất năm đến sáu bảng mỗi tuần, hơn nữa, riêng cô cũng đã từng có nhiều kinh nghiệm trong việc mua bán rồi.
Đây thật sự là một tia sáng hy vọng mới, nó như thể là Ernest bất thần lấy lại được năm ngàn bảng, và thậm chí về sau việc kinh doanh sẽ còn mang lại nhiều hơn thế nữa. Hơn bao giờ hết, Ellen bây giờ đúng thật là thần hộ mệnh của nó.
Sáng hôm sau, Ellen ra ngoài mua vài khoanh thịt xông khói về dọn bữa sáng. Cô nấu chúng ngon hơn Ernest nhiều, và dọn chúng ra cùng với cà phê và vài miếng bánh mỳ nướng. Trong những ngày gần đây, Ernest đã từng tự nấu ăn và dọn dẹp, nhưng nó chẳng thể hài lòng nổi với những gì mình làm. Còn bây giờ đột nhiên nó lại thấy mình được phục vụ. Ellen không chỉ vẽ lối cho nó kiếm sống khi chẳng một ai biết nên khuyên nó điều gì cho phải, mà cô, với vẻ xinh xắn và nụ cười của mình, còn chăm sóc cho nó được thoải mái, và thực sự phục hồi nó về mọi phương diện, cho nó thấy lại được vị thế mà nó đã đánh mất, hay đúng hơn cô đã cho nó những gì thực sự khiến nó thấy thích thú hơn trước đây nữa. Chẳng lạ gì khi trông Ernest thật rạng rỡ lúc giải thích cho tôi về kế hoạch của nó.
Nó kể lại những chuyện vừa xảy ra có phần khó khăn. Nó ngập ngừng, đỏ mặt và ầm ừ lúng búng. Cảm giác e sợ xuất hiện trong nó khi thấy mình buộc phải kể chuyện riêng tư cho một người khác nghe. Nó cứ lướt nhanh qua mọi chuyện, nhưng tôi lại muốn biết cho thật rõ, nên với những điểm chưa rõ, tôi cứ hỏi dò nó cho đến khi nắm bắt được gần hết toàn bộ câu chuyện.
Tôi hy vọng mình không bị lộ cảm xúc, nhưng thực sự là tôi rất tức giận. Tôi đã bắt đầu thấy thích Ernest. Chẳng biết tại sao mà mỗi khi nghe tin một người trẻ tôi vốn gắn bó sắp thành hôn là tôi không thể cưỡng nổi cái cảm giác ghét bỏ hôn thê của anh ta cho dù chưa một lần gặp mặt, và tôi quan sát thấy hầu hết những người độc thân cũng chung cảm giác như tôi vậy, dù thường thì chúng tôi phần nào đau xót che giấu sự thật này. Có lẽ bởi chúng tôi biết rằng đáng ra chúng tôi cũng phải kết hôn mới đúng. Thông thường chúng tôi phải nói rằng mình vui mừng vì việc này, nhưng riêng lần này tôi không thấy mình buộc phải nói như thế dù vẫn đang cố giấu đi cảm giác chán nản của riêng mình. Việc một chàng trai trẻ sắp thừa kế một gia tài đáng kể lại lao mình vào một cô gái như Ellen là một điều khá khó chấp nhận, và càng khó chịu hơn nữa là mọi việc xảy đến quá bất thình lình.
Tôi van nài Ernest đừng cưới Ellen, ít nhất là sau một thời gian tìm hiểu nữa. Nhưng nó chẳng chịu nghe, nó đã hứa với cô, và nếu nó đã hứa thì sẽ thực hiện ngay lập tức. Từ trước đến giờ, trong hầu hết vấn đề, tôi thấy Ernest là đứa cực kỳ dễ bảo và dễ điều khiển, nhưng lần này thì tôi bất lực. Chiến quả mới đây trước cha mẹ đã tăng thêm dũng khí cho nó, và tôi có đáng gì với nó đâu. Có lẽ tôi nên nói cho nó biết vị thế đích thực của nó, nhưng tôi biết rằng làm như thế chỉ khiến nó càng nhất quyết làm theo ý nó, bởi với một số tiền lớn như vậy, việc gì nó không thỏa mãn ý muốn của mình? Bởi thế, tôi chẳng nói gì về việc này và những lý lẽ của tôi cũng chỉ có thể tác động đôi chút lên nó, một đứa tin tưởng rằng mình phải trở thành một người thợ hoặc chẳng là gì hết.
Thực sự, nếu nhìn từ quan điểm của Ernest, việc nó làm chẳng có gì là thái quá. Nó đã biết và đã quý mến Ellen từ nhiều năm trước. Nó biết cô xuất thân từ một gia đình đứng đắn, và có tính cách tốt, đồng thời rất được quý mến ở Battersby. Cô là một cô gái nhanh nhẹn, thông minh, chăm chỉ, và xinh đẹp nữa. Rồi cuối cùng khi gặp lại được nhau, cô xử sự rất tốt, thực sự là thùy mị và kín đáo. Nhưng lạ thay, trí tưởng của nó lại chẳng thể nhận ra suốt tám trời người ta hẳn phải thay đổi thế nào hay sao? Ý nghĩ của nó quá bi quan về chính mình, và nó cũng đang quá thiếu thốn tình yêu để có thể suy nghĩ cho thận trọng, nếu Ellen đúng như những gì nó nghĩ, và nếu trong thực tế những kì vọng của nó được như những gì nó tin tưởng, thì tôi chẳng thấy quyết định của Ernest có gì khinh suất hơn quyết định hôn nhân của phân nửa những cặp đôi khác thời nay.
Tuy nhiên, vấn đề chỉ là làm sao để cái chuyện bình thường này được tốt đẹp nhất có thể, nên tôi nguyện chúc cho chàng trai trẻ này được một tương lai tươi sáng, và bảo rằng nếu nó không đủ tiền để mở cửa hàng, thì có thể đến chỗ tôi mà lấy bao nhiêu cũng được. Ernest cảm ơn tôi, và xin tôi để nó nhận sửa toàn bộ áo quần của tôi, cũng như cho nó những đơn đặt hàng nhiều hết mức tôi có thể, và cái đó tùy ở sự rộng lượng của tôi, như vậy là tôi đã quá tốt với nó rồi.
Lúc Ernest ra về tôi cảm thấy tức giận hơn cả lúc đang chuyện trò nữa. Khuôn mặt chính trực, trẻ con của nó rạng ngời lên với niềm hạnh phúc vốn hiếm khi tìm đến nó. Ngoại trừ thời gian ở Cambridge, nó hầu như chẳng biết hạnh phúc là gì, và thậm chí lúc này cuộc đời của nó vẫn còn bị bao phủ bởi mây đen u ám khi mà trí khôn của nó gần như đã biến đi đâu mất. Tôi đã nhìn đời và đã dõi theo nó đủ nhiều để nhận xét như thế, nhưng tôi lại, hoặc nghĩ rằng mình, chẳng thể giúp nó được gì.
Tôi không biết mình có nên cố để giúp nó hay là không, nhưng tôi chắc chắn một điều rằng bất kỳ cá thể con của loài nào cũng cần được chỉ dạy về những vấn đề có thể nói là nguyên tắc để nhờ đó thoát được những rắc rối có thể xảy ra. Người ta sẽ nghĩ là một con hải cẩu con sẽ chẳng cần được dạy cách bơi, cũng như con chim chẳng cần học bay, nhưng sự thực thì một con hải cẩu con sẽ chìm nếu ném nó xuống vùng nước sâu trước khi cha mẹ tập bơi cho nó, và như thế, thậm chí chim ưng con cũng phải được học bay trước lúc có thể sải cánh tung trời.
Tôi cho rằng xu hướng của nhiều thời đại là thổi phồng giá trị của giáo dục, nhưng khi cố để dạy dỗ quá nhiều trong hầu hết mọi lĩnh vực, chúng ta lại lãng quên những lĩnh vực khác, vốn cũng cần được dạy dỗ hợp lý chút ít.
Tôi biết xu thế ngày nay cho rằng người trẻ phải tự mình khám phá vạn vật, và chúng có thể làm được nếu như biết đúng cách và không gặp phải chướng ngại nào. Nhưng hiếm khi chúng làm cho đúng cách, như một quy luật chung, thế nào chúng cũng sẽ làm sai, và cái sai xuất phát từ những kẻ sống bằng cách bán những cục đá muôn hình muôn kiểu làm giả khá giống miếng bánh ăn được.
Một vài người may mắn chỉ gặp ít trắc trở, số khác đủ can trường để vượt qua chúng, nhưng phần đông, nếu có thoát qua được những trắc trở này thì họ cũng phải trả bằng những giá đắt đỏ.
Trong khi Ernest đang bàn chuyện với tôi, thì Ellen đi tìm kiếm một cửa hàng nào đó ở bờ nam sông Thames gần đường ‘Elephant and Castle’, nơi nhà cửa quanh đó mới mọc lên và đang phát triển. Đến một giờ chiều, cô đã tìm được vài nơi có thể cân nhắc được, và trước khi trời tối, hai người đã quyết định được sẽ chọn cái nào.
Ernest đưa Ellen đến gặp tôi. Tôi chẳng muốn gặp cô ta, nhưng cũng chẳng thể từ chối. Nó đã chi vài shilling để mua áo quần cho cô, nên cô ăn vận khá gọn gàng lịch sự, mà thực sự là cô rất xinh và quá tốt lành đến nỗi nếu xem xét cho thấu đáo, tôi gần như chẳng thể ngạc nhiên khi Ernest say đắm cô đến thế. Tất nhiên, theo bản năng, chúng tôi ghét nhau ngay từ cái nhìn đầu tiên, nhưng lại đều nói với Ernest rằng chúng tôi gần như có ấn tượng tốt đẹp về nhau.
Rồi nó đưa tôi đi xem cửa hàng, đó là một ngôi nhà hoang thảm thê như một con chó vô chủ hay như một cái xác không hồn vậy. Nó đã mục nát đến từng ngóc ngách mất rồi, những gì mà gió cát và mưa bão để sót lại, cũng đã bị những đứa trẻ lang thang phá nát đi. Cái cửa hàng của Ernest đang là một nơi bỏ hoang và bẩn thỉu ghê gớm. Ngôi nhà này này chưa đến nỗi cũ lắm, nhưng nó được xây bởi một tay thầu bất lương và kết cấu chẳng có chút gì bền vững, chỉ nhờ thời tiết ấm áp và ít người ở, nó mới trụ nổi được vài tháng. Lúc này, khi ngôi nhà đã bị bỏ phế được vài tuần, mèo hoang lấy đó làm chỗ trú đêm, còn bọn nhóc cứ ngày ngày đến phá nát các cánh cửa. Nền phòng khách đầy đá và bụi bẩn, nơi góc phòng còn có một con chó chết bị người ta giết rồi ném vào nơi không người coi sóc đầu tiên mà chúng bắt gặp được. Một mùi khó chịu nồng nặc bốc lên khắp nhà, nhưng tôi chẳng thể xác định được đó là mùi của rệp hay chuột, hay mèo, hay mùi cống rãnh, hoặc tổng hợp tất cả mùi trên. Khung kính đã long ra, cánh cửa mỏng manh đung đưa lủng lẳng, gỗ viền chân tường vài nơi đã bung ra, nền nhà có vài lỗ thủng, khóa cửa đã rơi ra mất, giấy dán tường thì rách nát và nhớp nhúa, cầu thang rất yếu và có lẽ chỉ chịu nổi một người mà thôi. Hơn tất cả những hạn chế kể trên, ngôi nhà này còn bị mang một tiếng xấu, đó là bởi vợ của người chủ cuối cùng đã tự treo cổ chết ở đây mới vài tuần trước mà thôi. Cô ta đã nướng cá trích xông khói cho chồng, dọn cho anh ta trà và bánh mỳ nữa, rồi cô rời phòng như thể sẽ trở lại ngay thôi, nhưng thay vì làm thế, cô lại vào phía sau căn bếp và treo cổ tự vẫn không một lời trăn trối. Chính vì thế mà ngôi nhà này bị bỏ hoang quá lâu cho dù nó có địa thế đắc lợi để mở cửa hàng tạp hóa thông dụng. Người thuê nhà đã dọn đi ngay sau khi cảnh sát tiến hành điều tra, và nếu người chủ biết cách xử lý thì người ta hẳn đã không màng đến thảm kịch từng xảy ra nơi đây, nhưng căn nhà đã tồi tàn cộng thêm tiếng xấu đó nữa, nên dù có nhiều người, cũng như Ellen, nhận ra được tiềm năng kinh doanh của địa thế này, nhưng chẳng ai dám thuê cả. Ở khu vực này, người ta đã bán gần như đủ mọi thứ hàng, nhưng một cửa hàng bán quần áo cũ thì chưa có, nên mọi chuyện sẽ rất thuận lợi cho kế hoạch của Ernest, ngoại trừ tình trạng thê thảm và tiếng xấu của ngôi nhà này mà thôi.
Khi mới thấy nó, tôi nghĩ rằng thà chết còn hơn sống trong một nơi khủng khiếp như thế này, nhưng đó là bởi suốt hai mươi lăm năm qua tôi sống ở khu Thánh đường, vốn là một nơi sang trọng, còn Ernest thì đang trọ tại đường laystall và vừa mới ra tù, trước đó nó lại sống ở Ashpit Place, nên ngôi nhà này chẳng có gì là kinh khủng với nó, chỉ cần được sửa sang lại là ổn ngay thôi. Vấn đề là ông chủ đất không chịu chi tiền để làm việc này. Nên cuối cùng tôi phải bỏ tiền túi ra để làm hết tất cả, và ký một hợp đồng thuê nhà năm năm với cùng mức giá của người thuê cuối cùng. Rồi sau đó tôi nhượng lại cho Ernest, tất nhiên với điều kiện là nó biết cách sử dụng nhà này hiệu quả hơn người chủ cũ.
Một tuần sau, tôi ghé lại và thấy mọi thứ đã biến đổi hoàn toàn đến mức tôi khó lòng nhận ra ngôi nhà đó nữa. Toàn bộ trần đã được sơn trắng, mọi phòng đều đã được dán giấy lót tường, những cửa kính vỡ được tháo ra và thay mới, các phần gỗ bị hỏng được làm mới lại, toàn bộ khung cửa, tủ chè, và cửa ra vào đều được sơn quét mới. Cống rãnh đã được khai thông toàn bộ, thực sự là tất cả mọi thứ có thể sửa được đều đã được làm xong, và trước đây mọi gian phòng trông gớm ghiếc đến thế nào thì bây giờ lại bắt mắt đến chừng ấy. Những người thợ đã dọn sạch sẽ sau khi hoàn tất mọi việc sữa chữa, nhưng Ellen còn tự mình lau chùi thêm một lần nữa từ nền lên đến mái, và giờ đây ngôi nhà trông sạch như mới. Tôi cảm thấy như thể chính tôi cũng có thể sống ở đó vậy, còn với Ernest đây thật sự là chốn thiên đàng. Nó nói rằng mọi việc được như thế này là nhờ cả vào tôi và Ellen.
Trong cửa hàng đã có sẵn quầy tính tiền và vài giá hàng, nên chỉ cần kiếm hàng về là bắt đầu bán được rồi. Ernest bảo rằng tốt hơn nó nên mở hàng bằng việc bán đi mớ áo quần giáo sỹ và đống sách của nó, bởi dù cửa hàng vốn định lập ra để bán áo quần cũ, nhưng Ellen thấy chẳng có lý do gì lại không bán thêm cả sách nữa, nên nó khởi nghiệp bằng việc đem bán những quyển sách mà nó đã từng mang theo ở trường và ở đại học với giá một shilling mỗi quyển, và bảo với tôi rằng nó đã biết được việc đem gom sách lại trên kệ hàng mà bán đi còn thiết thực hơn là cái việc mà nó đã làm suốt những năm ròng trong giảng đường là vùi đầu vào chúng.
Và bán đi từng quyển một dạy nó biết nhận ra quyển nào bán được, quyển nào không, và giá mỗi quyển sẽ thế nào. Có được một khởi đầu nho nhỏ với đống sách này, nó bắt đầu tập trung vào ngành bán sách ngang bằng với bán áo quần, rồi không lâu sau, hai việc kinh doanh này đã tương đương nhau về lợi nhuận, và tôi chắc rằng, bán sách rồi sẽ là công việc gắn bó với nó rất lâu dài, nếu như nó vẫn còn muốn làm một người bán hàng, nhưng tôi chỉ phỏng đoán vậy mà thôi.
Tôi cũng góp vốn và có điều kiện chia phần trong công việc của Ernest. Nó muốn lột bỏ hoàn toàn cái mác quý ông cho đến khi có thể thăng tiến trở lại được như cũ. Nếu để mặc ý nó, thì nó sẽ quyết định sống với Ellen trong phòng hậu của cửa hàng cộng với nhà bếp, và để hai tầng phía trên cho người ta thuê lại đúng theo kế hoạch ban đầu của nó. Nhưng tôi không muốn nó mất hoàn toàn liên hệ với âm nhạc, văn chương, cũng như đời sống lịch thiệp, và sợ rằng nếu không có một phòng làm việc để náu mình khỏi những náo động thì chẳng bao lâu sau nó sẽ chỉ còn là một con buôn thứ thiệt mà thôi. Bởi thế, tôi nhất quyết lấy nguyên tầng lầu thứ nhất và bài trí nó bằng đồ đạc lấy về từ bà Jubb. Tôi đã mua những thứ này chỉ với một khoản tiền nhỏ và sẽ đưa chúng đến đây.
Tôi phải đích thân đến gặp bà Jubb để thu xếp hết mọi chuyện này, bởi Ernest không thích ghé lại Ashpit Place nữa. Trong lòng tôi cứ thấp thỏm nửa lo sợ rằng bà Jubb đã dọn đi và bán sạch đồ đạc rồi, nhưng lại không phải vậy, dù có nhiều lầm lỗi, bà già tội nghiệp này vẫn hoàn toàn là một người lương thiện.
Tôi kể cho bà nghe là Pryer đã bỏ trốn cùng với toàn bộ số tiền của Ernest rồi. Bà ta ghét Pryer ra mặt. ‘Tôi chưa từng gặp người nào có vẻ mặt hèn nhát như Pryer, và cả con người anh ta chẳng có chút gì ngay thẳng cả. Tại sao vậy, bởi khi anh ta thường đến dùng bữa sáng hằng ngày với cậu Pontifex, tôi đã thoáng thấy cái bóng khốn nạn của anh ta rồi. Chẳng có việc gì làm anh ta vừa lòng cả. Đầu tiên tôi dọn cho họ trứng và thịt muối, anh ta không thích, rồi tôi dọn cá, anh ta cũng chẳng ưa, mà ông biết đó, còn có thứ gì được hơn cá nữa đâu, rồi tôi phải dọn cho anh ta vài món Đức, và anh ta bảo là nó khiến anh ta khó chịu, tôi thử đến xúc xích thì anh ta lại kêu rằng món này còn làm xốn mắt anh ta hơn món Đức nữa, ôi thôi, thôi, tôi đã phải đi lui đi tới trong phòng thầm gặm nhấm nỗi buồn này và phải khóc đến hàng giờ, tất cả chỉ vì cái bữa ăn sáng cỏn con đó, nhưng mà cậu Pontifex không có lỗi gì trong việc này, cậu ấy luôn thích thú bất kỳ món nào người ta dọn cho cậu.’
‘Còn về cây đàn,’ bà tiếp tục, ‘nó vang lên những âm thanh thật du dương khi được đặt dưới tay cậu Pontifex, chắc chắn là vậy, và trong đó có một bản mà tôi thấy thích nhất. Có lần khi cậu ấy chơi bản đó và tôi cũng đang ở trong phòng, tôi phải thốt lên, ‘Ôi, cậu Pontifex ơi, bản nhạc này thật đúng kiểu phụ nữ của tôi,’ và cậu ấy nói, ‘Không, không bà Jubb ơi, bản nhạc này xưa rồi, nhưng không một ai có thể nói rằng bà đã già đâu.’ Nhưng, lạy Chúa, cậu ấy hoàn toàn không có ý gì khi nói vậy, đó chỉ là lời tâng bốc vụng về mà thôi.’
Cũng như tôi, bà Jubb bực tức vì Ernest chuẩn bị kết hôn. Bà không thích nó kết hôn, và cũng không thích nó cứ ở vậy, nhưng dù gì, thì đó đều là lỗi của Ellen, chứ không phải của nó, nên bà mong nó sẽ được hạnh phúc. ‘Nhưng sau tất cả mọi chuyện,’ bà kết luận, ‘không phải do ông, cũng chẳng phải bởi tôi, không phải tại nó, cũng chẳng do cô ấy. Mà là do một sự mà ông phải gọi nó bằng cái tên những số mệnh chuyện đời, bởi ngoài ra chẳng còn biết gọi nó là gì nữa.’
Trong buổi chiều đó, đồ đạc đã được gởi đến căn hộ mới của Ernest. Trên tầng một, chúng tôi sắp đặt cây đàn dương cầm, chiếc bàn làm việc, các bức tranh, giá sách, hai ghế dựa, và toàn bộ những vật dụng nhỏ khác mà nó đã mang theo từ hồi còn ở Cambridge. Gian phòng ngủ phía sau được bài trí y hệt phòng ngủ của nó hồi ở Ashpit Place, còn những thứ mới thì đặt trong phòng tân hôn nơi tầng trệt. Tôi nhấn mạnh rằng hai phòng tầng một này là của riêng tôi, nhưng Ernest được quyền sử dụng bất cứ lúc nào nó muốn. Và bởi tôi đã chiếm mất một tầng rồi, nên nó cũng chẳng bao giờ cho thuê phòng nào trong nhà kể cả phòng ngủ, mà giữ lại để phòng trường hợp nó hoặc vợ nó bị đau ốm.
Những việc này xảy ra trong vòng chưa đến hai tuần lễ kể từ ngày Ernest mãn hạn tù, và nó thấy mình đã lại được kết nối với cuộc sống vốn có trước lúc chịu án, nhưng kèm theo một vài thay đổi quan trọng và sinh nhiều ích lợi cho nó. Nó không còn là một giáo sỹ nữa, mà đã chuẩn bị cưới một người phụ nữ nó rất gắn bó, và cũng đã thoát ly vĩnh viễn khỏi cha mẹ nó rồi.
Quả thật là nó đã mất hết tiền bạc, thanh danh, và cương vị của một quý ông, nói một cách hình tượng thì nó đã phải dỡ toàn bộ ngôi nhà gỗ của mình để nướng cho chín con heo sữa của nó, nhưng nếu ai đó hỏi xem thử nó muốn tình trạng hiện thời hay tình trạng trước lúc đi tù, thì nó sẽ chẳng một giây ngập ngừng mà chọn cái hiện thời này. Nếu những gì nó đang có phải đổi lấy bằng việc mất đi tất cả những gì nó đã từng có trong quá khứ, thì vẫn đáng để nó trao đổi, và nếu được chọn lại, nó sẽ vẫn làm như thế nếu cần thiết. Mất hết tiền là chuyện tệ nhất, nhưng Ellen nói rằng cô chắc cả hai sẽ vượt qua được, và cô biết thế nào cũng sẽ như vậy. Còn về thanh danh bị mất đi, khi nó vẫn còn Ellen và tôi bên cạnh, thì thực sự đó cũng chẳng phải là mất mát quá lớn đâu.
Đến chiều tôi lại ghé nhà nó, và thấy mọi chuyện đều đã xong, chỉ cần mua hàng hóa về và bắt đầu buôn bán là được. Lúc tôi đã ra về và buổi dùng trà cũng xong, nó rút vào lâu đài của nó là phòng khách trên tầng một, thắp một tẩu thuốc và ngồi xuống bên cây đàn. Nó chơi những bản nhạc của Handel trong suốt một giờ, rồi đến bên bàn mà đọc sách và viết lách. Nó lấy ra tất cả những bài giảng và những bản thảo thần học mà nó đã soạn trong suốt thời gian làm giáo sỹ rồi ném vào lửa. Đứng nhìn chúng cháy rụi trong lò, nó cảm thấy mình như được thoát khỏi một trong những cơn ác mộng vốn lâu nay đè nén nó. Rồi nó soạn ra vài bản thảo con mà nó đã chắp bút suốt những năm cuối tại đại học Cambridge, và bắt đầu chỉnh sửa cũng như viết lại chúng. Đang mải miết làm việc trong thinh lặng, thì nó nghe tiếng đồng hồ đổ mười giờ, vậy là đã đến lúc đi ngủ, lòng nó bỗng cảm giác rằng giờ đây nó không chỉ hạnh phúc mà còn cực kỳ hạnh phúc thì đúng hơn.
Hôm sau Ellen đưa nó đến phòng đấu giá Debenham, và cả hai xem qua rất nhiều áo quần đang treo trưng bày quanh phòng đó. Ellen có đủ kinh nghiệm để biết cái nào bán được bao nhiêu, cô kiểm tra rất kỹ lưỡng, và định giá chúng, chẳng mấy chốc Ernest cũng đã bắt đầu xác định được khá tương đối cái nào nên mua với giá nào, và chưa đến trưa nó đã định giá xong được cả tá đồ mà Ellen nói là nếu nó quyết giá đó thì bảo đảm sẽ không bị lỗ đâu.
Không những không thấy chút gì ghét hay nhàm chán, ngược lại Ernest còn rất thích việc này nữa là đàng khác, thật sự nó sẽ thích bất kỳ việc gì không đòi hỏi quá nhiều sức mạnh cơ bắp mà lại có thể sinh lời cho nó. Ellen không để nó tham gia mua bất kỳ món nào trong buổi này, cô nói tốt hơn thì trước hết nó nên đứng xem người ta mua bán và nhìn ra giá trị thực của món đồ đến đâu. Nên khi buổi đấu giá bắt đầu từ lúc mười hai giờ, nó đã được xem người ta mua bán rất nhiều món hàng mà nó và Ellen đã định giá, rồi khi buổi bán hàng kết thúc nó đã có đủ hiểu biết để đặt giá sao cho an toàn khi nó thực sự muốn mua món nào đó. Đối với những ai thực sự muốn, thì rất dễ để nắm bắt chuyện này.
Nhưng Ellen không muốn nó mua đồ ở những buổi đấu giá, ít nhất là bây giờ. Cô nói rằng tốt nhất nên giao dịch riêng. Ví dụ như nếu tôi có áo quần không dùng nữa, thì nó sẽ mua chúng từ thợ giặt của tôi, và cũng sẽ liên hệ với những thợ giặt khác để nhờ đó nó có thể mua đồ với giá rất rẻ so với khi mua từ chính tay chủ nhân của chúng, nhờ đó nó sẽ kiếm được một khoản khá hời. Nếu các quý ông đem bán đồ của họ, nó cũng sẽ cố thuyết phục và bắt họ phải bán đồ cho nó. Nó chẳng ngại việc gì, có lẽ nó sẽ ngại nếu thấy việc mình làm là quá đáng, nhưng sự ngu dốt về chuyện đời vốn đã hủy hoại nó đến tận bây giờ, hay thay, lại bắt đầu phát tác. Nếu đã có một bà tiên ác độc nào nguyền rủa cho nó bị ngu dốt về chuyện đời, thì đúng là bà ta đã thành công rồi đấy. Nó chẳng biết rằng nó đang làm những việc lạ đời. Nó chỉ ý thức được một điều là nó không có tiền, trong khi phải lo đủ cho mình, cho vợ và có lẽ là cả một gia đình nữa. Nếu có ai đó chỉ cho nó cách làm nào tốt hơn, thì nó sẽ rất biết ơn họ, nhưng với bản thân nó, thì những gì nó đang làm cũng đã đủ tốt rồi, bởi chỉ sau một tuần, nó và Ellen đã kiếm được một khoản lời đến ba bảng. Vài tuần sau, số đó đã tăng lên bốn bảng, và đến cuối năm, vợ chồng nó đã kiếm được năm bảng mỗi tuần.
Lúc này, Ernest đã kết hôn được hai tháng, bởi đúng theo kế hoạch cũ của nó thì đám cưới sẽ được tiến hành đúng luật sớm nhất có thể. Nó phải trì hoãn trong thời gian chuyển nhà từ đường Laystall đến Blackfriars, nhưng chỉ một ngày sau khi dọn đến nhà mới, cả hai đã chính thức thành vợ chồng. Trước đây, ngay cả trong thời kỳ khá giả nhất, nó cũng chưa bao giờ có được hai trăm năm mươi bảng một năm, cho nên khoản lợi nhuận năm bảng một tuần, nếu có thể duy trì được mãi như vậy, đã khiến nó thấy thật thoải mái đầy đủ, và dù phải nuôi hai miệng ăn chứ không chỉ một, nhưng khi không còn làm một quý ông nữa, nó đã bớt đi được nhiều khoản chi phí, như thế xét cho cùng thì thu nhập của nó thực tế chẳng khác gì so với một năm trước đây. Việc cần làm tiếp theo là nâng cao lợi nhuận và dành dụm tiền.
Như tất cả chúng ta đều biết, thịnh vượng và phát đạt chủ yếu dựa vào làm việc tích cực và suy luận tốt, nhưng nó cũng phụ thuộc không nhỏ vào cái gọi là may mắn đơn thuần, có thể nói là dựa vào những mối liên hệ vốn chìm trong đống hỗn độn rất khó để dò ra và gần như chẳng ai biết được. Một vùng vốn có tiếng dễ kinh doanh phát đạt có thể đột nhiên bị lấn át bởi một vùng khác mà trước đó chẳng ai nghĩ nó có nhiều triển vọng. Một bệnh viện thương hàn xây lên sẽ hủy hoại việc kinh doanh trong khu vực đó, trong khi một nhà ga lại sẽ thúc đẩy nó, bởi vậy thực sự rất khó chắc về chuyện này, tốt hơn hết, nên bỏ qua miệng lưỡi thiên hạ, mà phó mặc cho may rủi thì hơn.
Nữ thần may mắn, vốn lâu nay không hậu đãi chàng trai của tôi cho lắm, bây giờ lại có vẻ đang cưu mang nó trong lòng. Vùng nó sống đang phất lên, và nó cũng vậy. Dường như chẳng bao lâu nữa, nó sẽ không thèm mua những món hàng không đem lại cho nó lợi nhuận được từ một phần ba đến một nửa giá trị của chúng. Nó đã học thêm việc kế toán, và trông coi sổ sách của mình rất cẩn thận, nhờ đó thành công đến ngay lập tức. Ngoài quần áo, bây giờ nó đã bắt đầu mua bán những thứ khác, như sách vở, nhạc, những thứ đồ đạc linh tinh,… V.v.
Tôi không rõ là do may mắn, hay năng khiếu kinh doanh, hay do tích cực làm việc, hoặc thái độ lịch sự đối với khách hàng, mà bây giờ, trước sự ngỡ ngàng của chính nó, Ernest đã tiến nhanh vượt xa mong đợi, thậm chí hơn cả những giấc mơ đẹp nhất của nó, và đến lúc này, nó đã có được một vị thế vững chãi, là chủ của một cửa hàng sinh lợi khoảng bốn đến năm trăm bảng một năm, mà nó biết là có thể sẽ còn hơn nữa.