Là một trong những cây bút tiêu biểu của nền văn học kháng chiến chống Mỹ, Nguyễn Minh Châu có nhiều những tìm tòi quan trọng góp phần đổi mới văn học nước nhà. Truyện ngắn của ông thường chứa đựng những suy ngẫm trải nghiệm sâu sắc về con người và cuộc đời.
“Bến quê” là tác phẩm tiêu biểu cho đề tài đó.Toàn bộ câu chuyện xoay quanh nhân vật Nhĩ trong những ngày cuối đời. Chuỗi nghịch lý bắt đầu chính trong những ngày ấy. Bị cột chặt trên giuờng bệnh, Nhĩ phát hiện ra vẻ đẹp lạ lùng của bãi bồi bên kia sông. Cảnh vật nơi ấy đẹp như thơ như hoạ: Những bông bằng lăng cuối mùa thưa thớt nhưng đậm sắc, con sông Hồng màu đỏ nhạt, ánh nắng sớm, vùng phù sa lâu đời của bãi bồi bên kia sông …Những cảnh sắc vốn quen thuộc gần gũi nhưng dường như rất mới mẻ đối với anh. Chính vào lúc nhận ra vẻ đẹp và sự giàu có của bến quê cũng là lúc Nhĩ hiểu ra một cách đau xót, bởi một người “đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất ” lại chưa từngđặt chân lên “cái bờ bên kia sông Hồng ngay trước cửa sổ nhà mình ”.Căn bệnh liệt gắn chặt Nhĩ vào giường bệnh. Mọi sinh hoạt của anh trông cả vào sự chăm sóc của vợ con. Sáng hôm ấy, bằng trực giác, anh nhận ra thời gian của mình chẳng còn bao lâu nữa,anh mới cảm nhận thấm thía về người vợ của mình. Nhĩ để ý “thấy Liên mặc áo vá ”, “những ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai anh ”, anh nói với vợ những lời xót xa, ân hận : “Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm ”. Giờ đây Nhĩ mới thực sự thấu hiểu và biết ơn vợ sâu sắc bởi “tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tảo tần và chịu đựng hy sinh từ bao đời xưa và cũng chính nhờ điều đó, mà sau nhiều tháng ngày bôn tẩu tìm kiếm, Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này ”. Nhĩ -con ngưuời của một thời huy hoàng, cho đến khi không còn khả năng đi lại mới phát hiện ra vẻ đẹp của bến quê cũng như sự tảo tần và đức hy sinh của vợ. Trước khi ốm anh chỉ biết đến những chân trời xa ngát với những công việc cao sang mà thờ ơ, vô tình với tấtcả những gì gần gụi xung quanh, kể cả nguười vợ suốt một đời yêu thương và tận tuỵ. Sự thấu hiểu muộn màng trong những ngày cuối đời dù sao cũng đem lại cho anh sự bình yên, tin cậy sau cả một đời bôn tẩu, kiếm tìm.Song nghịch lý của câu chuyện không chỉ có thế. Cũng trong buổi sáng hôm ấy, khi nhận ra vẻ đẹp qua ô cửa sổ, Nhĩ bừng dậy nỗi khát khao cháy lòng và vô vọng là một lần được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông. Khát khao đó mang ý nghĩa sâu sắc bởi đó chính là sự thức tỉnh về những giá trị bền vững, bình dị mà sâu xa của cuộc sống, những giá trị dễ bị ta vô tình, bỏ qua và quên lãng nhất là lúc còn trẻ khi những khát vọng xa vời vẫy gọi, cuốn người ta đi. Sự nhận thức này chỉ đến được với ta khi đã từng trải. Với Nhĩ, đó là lúc cuối đời khi phải nằm liệt trên giường bệnh. Vì thế đó là sự thức tỉnh pha lẫn niềm ân hận xót xa : “Hoạ chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết mọi sự giàu có lẫn vẻ đep của bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia cả trong những nét tiêu sơ và cái điều riêng anh khám phá thấy giống như một niềm say mê pha lẫn nỗi ân hận đau đớn ”. Với anh, bây giờ đó thực sự là miền đất xa lắc vì Nhĩ “lực bất tòng tâm ” . Không thể tự làm điều mình khao khát, Nhĩ nhờ con trai thay mình sang sông, đặt chân lên bãi phù sa màu mỡ. Oái oăm thay, đứa con không hiểu ước muốn của cha ,đã đi một cách miễn cưỡng và bị cuốn vào trò chơi phá cờ thế trên hè phố. Cậu con trai có thể lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày. Từ đó Nhĩ nghiệm ra một qui luật khá phổ biến của đời người “Con nguười ta trên đường đời thật khó tránh đuợc những điều vòng vèo hoặc chùng chình”. Anh không trách con vì “nó đã thấy gì hẫp dẫn bên kia sông đâu ”.Ở cuối truyện, khi Nhĩ tưởng tượng chính mình như một nhà thám hiểm đang chậm rãiđặt từng bước chân lên mặt đất dấp dính phù sa. Nhĩ xúc động mạnh, chân dung anh khác thường “mặt mũi đỏ rựng, hai mắt long lanh chứa môt nỗi say mê đầy đau khổ ”. Khi con đò sắp chạm vào bờ đất bên này, Nhĩ thu hết tàn lực, đu người lên cửa sổ, giơ cánh tay gầy guộc “khoát khoát y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó thân yêu với người vợ sơm hôm tần tảo vì chồng, đứa con trai ngoan hiền hiếu thảo, những cô cậu bé ngây thơ tốt bụng, và đặc biệt là cái bến quê quá đỗi thân thuộc mà anh chưa bao giờ đặt chân đếntrong cuộc sống đững nên vì những thứ vật chất lòng vòng xa vời mà bỏ quên những giá trị tinh thần hết sức giản dị nhưng ẩn chứa những ý nghĩa vô cùng lớn lao. Đó chính là lời khuyên chân thành tác giả muốn nhắn nhủ với các độc giả Nhân vật Nhĩ có một hoàn cảnh thật đặc biệt. Lúc còn trẻ anh đã đi khắp nơi trên thế giới nhưng cuối đởi lại bị cột chặt trên giường bệnh bởi một căn bệnh hiểm nghèo, đến nhích người về phía cửa sổ cũng phải có người đỡ. Và trong cái hoàn cảnh éo le ấy, anh chợt nhận ra vẻ đẹp bình dị của bến quê, nhận ra cái quí nhất trong cuộc đời mình chính là gia đình.Nổi bật ở nhân vật Nhĩ là tình yêu gia đình. Anh rất yêu vợ. Chẳng phải vì thế mà anh đã nghĩ :” Tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tần tảo và hi sinh từ bao đời xưa” Và Nhĩ cũng rất yêu quí con. Anh muốn nhờ Tuấn sang bãi bồi bên kia sông không chỉ vì đó là ước mơ mà anh không thực hiện được mà còn vì anh không muốn Tuấn giống như mình: bỏ qua cái đẹp bình dị của quê hương để chạy theo cái hào nhoáng nhất thời để rồi đến khi hối hận cũng không kịp. Nhĩ không muốn sau này con anh phải chịu cái ân hận đau đớn mà anh đang chịu. Nhưng cao hơn tình yêu gia đình chính là tình yêu quê hương xứ sở, cái bến quê bình dị. Anh từng đi tới bất cứ nơi xó xỉnh nào trên trái đất nhưng lại chưa một lần đặt chân lên bãi bồi bên kia sông. Điều đó dày vò Nhĩ không thôi. Anh cảm thấy có lỗi với cái mảnh đất đã nuôi anh khôn lớn. Đó chẳng phải là tinh yêu anh giành cho quê hương mình sao? Và cũng chính cái tình cảm ấy đã thôi thúc Nhĩ đặt chân lên cái bãi bồi thân thương ấy đến nỗi trở thành một khao khát, cái khao khát mà anh đã tin cậy nhờ Tuấn thực hiện giùm nhưng anh chàng lại sa vào đám chơi cờ thế. Cái tình yêu, cái khao khát ấy như được đẩy lên cao nhất ở chi tiết cuối cùng:”Anh đang cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó