Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Văn Mẫu Lớp 10

“Dù anh… cuộc sống” . Anh/ chị hiểu như thế nào về ý kiến trên. Bằng những hiểu biết về văn học dân gian, anh chị hãy làm rõ ý kiến trên

Tác giả: Sachvui.Com
Thể loại: Sách Giáo Khoa
Chọn tập

Đề bài:

“Dù anh viết xuôi viết ngược như thế nào, dù cho rằng anh viết về sự giận dữ, về lòng căm thù, về nỗi khổ đau, chán chườm thì rốt cuộc vẫn để truyền thổi vào tâm hồn người đọc một niềm tin, một tình yêu bát ngát vào cuộc sống” . Anh/ chị hiểu như thế nào về ý kiến trên. Bằng những hiểu biết về văn học dân gian, anh chị hãy làm rõ ý kiến trên

Gợi ý bài:

1. Giải thích nhận định:

– “viết xuôi viết ngược”: cách viết, hình thức thể hiện.

– “viết về sự giận dữ, về lòng căm thù, về nỗi khổ đau, chán chường”: nội dung biểu hiện – thiên về những cảm xúc nghịch chiều, những mặt tiêu cực của cuộc sống.

→ Quan điểm của Nguyễn Minh Châu: dù người nghệ sĩ lựa chọn viết theo hình thức nghệ thuật nào, viết về bất cứ nội dung gì, kể cả những “mảngtối” của hiện thực, của cảm xúc… thì cái đích cuối cùng văn học là phải đem đến cho người đọc niềm lạc quan, tin yêu vào cuộc sống, vào con người; hướng người đọc vươn tới những giá trị chân, thiện, mĩ.

2. Bàn luận, chứng minh:

a. Bàn luận:

* Quan điểm của Nguyễn Minh Châu xuất phát từ đặc trưng văn học. “Văn học là tấm gương phản ánh cuộc sống”, vì vậy mọi mảng hiện thực – “sáng” hay “tối” đều là đối tượng phản ánh của văn học. Điều quan trọng không phải là anh “viết về cái gì” mà là anh viết để “hướng tới điều gì”.

* Quan điểm của Nguyễn Minh Châu xuất phát từ chức năng bao trùm của văn học là “nhân đạo hóa con người”, giúp con người sống tốt hơn, nghị lực và kiên cường hơn. Giá trị cuối cùng của văn học là “nâng đỡ” con người, đặc biệt là “những người cùng đường tuyệt lộ” chứ không phải là dập tắt hi vọng của con người, để con người không biết bấu víu vào đâu. Vì vậy “nhà văn lớn phải là những người nhân đạo từ trong cốt tủy”.

* Quan niệm của Nguyễn Minh Châu đúng với mọi tác phẩm văn học chân chính nói chung và rất chân xác đối với thể loại truyện cổ tích:

– Truyện cổ tích là những sáng tác dân gian thuộc loại hình tự sự, ra đời khi chế độ nguyên thủy tan rã, chế độ phong kiến hình thành, quan hệ bình đẳng bị phá vỡ, sự phân hóa giai cấp ngày càng sâu sắc.

– Truyện cổ tích phơi bày hiện thực ngột ngạt, đầy bất công, ngang trái, phản ánh số phận bất hạnh của những con người lao động nhỏ bé. Nhân vật chính trong truyện cổ tích thường là người mồ côi, người em, người có ngoại hình xấu xí… Họ đều là những con người hiền lành, tốt bụng, tài năng nhưng lại chịu áp bức bóc lột nặng nề.

– Truyện cổ tích thể hiện ước mơ về sự công bằng, dân chủ, hạnh phúc. Trong cuộc đấu tranh giữa thiện – ác, xấu – tốt, chính nghĩa – phi nghĩa… những người lương thiện, tài năng sẽ luôn được hưởng hạnh phúc xứng đáng với những phẩm chất tốt đẹp của họ. Đồng thời có cả những giấc mơ bay bổng, đẹp đẽ: lao động nhẹ nhàng, cuộc sống sung túc…

→ Hiện thực trong truyện cổ tích luôn đan xen với các yếu tố kì ảo, tạo ra một thế giới hấp dẫn, rọi chiếu ánh sáng chói ngời hạnh phúc vào cuộc đời tối tăm, bất hạnh của con người, khiến họ yêu đời và sống mạnh mẽ hơn.

b, Chọn một số truyện cổ tích tiêu biểu để phân tích, chứng minh (học sinh có thể lấy các dẫn chứng khác nhau nhưng phải đảm bảo sự tiêu biểu, toàn diện. Dưới đây chỉ là một số gợi ý):

Truyện Tấm Cám:

* “Viết về sự giận dữ, về lòng căm thù, về nỗi khổ đau, chán chường…”:

– Truyện phản ánh số phận bất hạnh của cô Tấm thảo hiền:

+ Mồ côi mẹ từ nhỏ.

+ Bị mụ dì ghẻ bóc lột, chà đạp, hãm hại: cướp mất yếm đỏ, bắt mất cá bống, không cho đi chơi hội, hãm hại nhiều lần…

→ Mâu thuẫn giữa Tấm với mẹ con Cám không chỉ là mâu thuẫn giữa dì ghẻ – con chồng mà còn là hình thức biểu hiện cụ thể của mâu thuẫn giai cấp, xung đột thiện – ác trong xã hội. Thân phận đầy đau khổ của Tấm là thân phận chung của những người nghèo, người mồ côi lương thiện trong xã hội xưa.

* “Truyền thổi vào tâm hồn người đọc một niềm tin, một tình yêu bát ngát vào cuộc sống”:

– Cô Tấm trải qua bao bất hạnh cuối cùng được hưởng hạnh phúc vẹn tròn. Cuộc đấu tranh giữa thiện và ác dù gay gắt, quyết liệt đến đâu thì cuối cùng cái thiện cũng chiến thắng cái ác, “ở hiền sẽ gặp lành”:

+ Con đường đến với hạnh phúc của cô Tấm luôn có sự ủng hộ, giúp đỡ của những lực lượng siêu nhiên: ông Bụt, gà, chim sẻ… thể hiện ước mơ của nhân dân về sự công bằng.

+ Con đường đến với hạnh phúc của cô Tấm là quá trình tự đấu tranh để giành và giữ hạnh phúc: 5 lần hóa thân thể hiện sức sống mãnh liệt và sự trưởng thành trong ý thức tự đấu tranh của cô Tấm.

→ Tác giả dân gian đã mượn yếu tố kì ảo, truyền thổi sức sống mãnh liệt cho nhân vật, vực nhân vật dậy “đi trả thù và sống tự do”. Ta hiểu rằng đằng sau lũy tre làng yên tĩnh luôn ấp ủ bao ước mơ lãng mạn và kì diệu của người lao động nghèo. Và chính truyện cổ tích đã tạo hình, chắp cánh cho những ước mơ, nuôi dưỡng niềm tin, niềm lạc quan cho con người. Truyện Chử Đồng Tử:

* “Viết về sự giận dữ, về lòng căm thù, về nỗi khổ đau, chán chường…”:

– Truyện phản ánh cuộc sống nghèo khổ của cha con Chử Đồng Tử.

– Truyện phản ánh sự phân biệt giai cấp sâu sắc trong xã hội phong kiến: cuộc hôn nhân của Tiên Dung và Chử Đồng Tử gặp phải sự phản đối kịch liệt của nhà vua.

* “Truyền thổi vào tâm hồn người đọc một niềm tin, một tình yêu bát ngát vào cuộc sống”:

– Cuộc hôn nhân của Tiên Dung và Chử Đồng Tử phản ánh ước mơ về một tình yêu tự do, phóng khoáng của nam nữ thanh niên vượt qua mọi rào cản giai cấp.

– Công việc làm ăn của Tiên Dung và Chử Đồng Tử ngày càng thịnh vượng → ước mơ giàu có, no đủ của nhân dân.

– Gậy, nón thần mang đến cho hai vợ chồng cung điện lộng lẫy… ước mơ lao động nhẹ nhàng và hiệu quả hơn; chinh phục đầm lấy, khai phá đất hoang của cha ông ta. → Mượn yếu tố kì ảo, truyện khơi dậy những ước mơ vừa bình dị, vừa lãng mạn, phóng khoáng, gieo vào lòng người đọc niềm tin, lòng yêu đời và tinh thần nhân văn sâu sắc.

Truyện cổ tích “Cô bé bán diêm”:

* “Viết về sự giận dữ, về lòng căm thù, về nỗi khổ đau, chán chường…”:

– Nỗi bất hạnh của một cô bé mồ côi, không nhà không cửa, chết cóng trong đêm giá rét, trước thềm của năm mới vừa sang.

* “Truyền thổi vào tâm hồn người đọc một niềm tin, một tình yêu bát ngát vào cuộc sống”:

+ Khơi dậy lòng nhân ái, sự xót thương, đồng cảm đối với những mảnh đời bất hạnh.

3. Đánh giá, tổng kết:

– Muốn “viết nhân đạo” phải “sống nhân đạo”. Người nghệ sĩ phải sống sâu sắc với đời, với người, phải có trách nghiệm với việc cầm bút của mình. Thông qua tác phẩm, tác giả phải gửi được những thông điệp mang giá trị nhân văn sâu sắc, như vậy tác phẩm mới có sức sống trường tồn trong lòng người đọc.

– Với người đọc, phải đồng cảm, tri âm với tác giả thông qua tác phẩm. Có như vậy tâm hồn người đọc mới được bồi đắp, trở nên giàu có và tràn đầy niềm tin yêu với cuộc sống.

“Dù anh viết xuôi viết ngược như thế nào, dù cho rằng anh viết về sự giận dữ, về lòng căm thù, về nỗi khổ đau, chán chườm thì rốt cuộc vẫn để truyền thổi vào tâm hồn người đọc một niềm tin, một tình yêu bát ngát vào cuộc sống” . Anh/ chị hiểu như thế nào về ý kiến trên. Bằng những hiểu biết về văn học dân gian, anh chị hãy làm rõ ý kiến trên

– “viết xuôi viết ngược”: cách viết, hình thức thể hiện.

– “viết về sự giận dữ, về lòng căm thù, về nỗi khổ đau, chán chường”: nội dung biểu hiện – thiên về những cảm xúc nghịch chiều, những mặt tiêu cực của cuộc sống.

→ Quan điểm của Nguyễn Minh Châu: dù người nghệ sĩ lựa chọn viết theo hình thức nghệ thuật nào, viết về bất cứ nội dung gì, kể cả những “mảngtối” của hiện thực, của cảm xúc… thì cái đích cuối cùng văn học là phải đem đến cho người đọc niềm lạc quan, tin yêu vào cuộc sống, vào con người; hướng người đọc vươn tới những giá trị chân, thiện, mĩ.

a. Bàn luận:

* Quan điểm của Nguyễn Minh Châu xuất phát từ đặc trưng văn học. “Văn học là tấm gương phản ánh cuộc sống”, vì vậy mọi mảng hiện thực – “sáng” hay “tối” đều là đối tượng phản ánh của văn học. Điều quan trọng không phải là anh “viết về cái gì” mà là anh viết để “hướng tới điều gì”.

* Quan điểm của Nguyễn Minh Châu xuất phát từ chức năng bao trùm của văn học là “nhân đạo hóa con người”, giúp con người sống tốt hơn, nghị lực và kiên cường hơn. Giá trị cuối cùng của văn học là “nâng đỡ” con người, đặc biệt là “những người cùng đường tuyệt lộ” chứ không phải là dập tắt hi vọng của con người, để con người không biết bấu víu vào đâu. Vì vậy “nhà văn lớn phải là những người nhân đạo từ trong cốt tủy”.

* Quan niệm của Nguyễn Minh Châu đúng với mọi tác phẩm văn học chân chính nói chung và rất chân xác đối với thể loại truyện cổ tích:

– Truyện cổ tích là những sáng tác dân gian thuộc loại hình tự sự, ra đời khi chế độ nguyên thủy tan rã, chế độ phong kiến hình thành, quan hệ bình đẳng bị phá vỡ, sự phân hóa giai cấp ngày càng sâu sắc.

– Truyện cổ tích phơi bày hiện thực ngột ngạt, đầy bất công, ngang trái, phản ánh số phận bất hạnh của những con người lao động nhỏ bé. Nhân vật chính trong truyện cổ tích thường là người mồ côi, người em, người có ngoại hình xấu xí… Họ đều là những con người hiền lành, tốt bụng, tài năng nhưng lại chịu áp bức bóc lột nặng nề.

– Truyện cổ tích thể hiện ước mơ về sự công bằng, dân chủ, hạnh phúc. Trong cuộc đấu tranh giữa thiện – ác, xấu – tốt, chính nghĩa – phi nghĩa… những người lương thiện, tài năng sẽ luôn được hưởng hạnh phúc xứng đáng với những phẩm chất tốt đẹp của họ. Đồng thời có cả những giấc mơ bay bổng, đẹp đẽ: lao động nhẹ nhàng, cuộc sống sung túc…

→ Hiện thực trong truyện cổ tích luôn đan xen với các yếu tố kì ảo, tạo ra một thế giới hấp dẫn, rọi chiếu ánh sáng chói ngời hạnh phúc vào cuộc đời tối tăm, bất hạnh của con người, khiến họ yêu đời và sống mạnh mẽ hơn.

b, Chọn một số truyện cổ tích tiêu biểu để phân tích, chứng minh (học sinh có thể lấy các dẫn chứng khác nhau nhưng phải đảm bảo sự tiêu biểu, toàn diện. Dưới đây chỉ là một số gợi ý):

Truyện Tấm Cám:

* “Viết về sự giận dữ, về lòng căm thù, về nỗi khổ đau, chán chường…”:

– Truyện phản ánh số phận bất hạnh của cô Tấm thảo hiền:

+ Mồ côi mẹ từ nhỏ.

+ Bị mụ dì ghẻ bóc lột, chà đạp, hãm hại: cướp mất yếm đỏ, bắt mất cá bống, không cho đi chơi hội, hãm hại nhiều lần…

→ Mâu thuẫn giữa Tấm với mẹ con Cám không chỉ là mâu thuẫn giữa dì ghẻ – con chồng mà còn là hình thức biểu hiện cụ thể của mâu thuẫn giai cấp, xung đột thiện – ác trong xã hội. Thân phận đầy đau khổ của Tấm là thân phận chung của những người nghèo, người mồ côi lương thiện trong xã hội xưa.

* “Truyền thổi vào tâm hồn người đọc một niềm tin, một tình yêu bát ngát vào cuộc sống”:

– Cô Tấm trải qua bao bất hạnh cuối cùng được hưởng hạnh phúc vẹn tròn. Cuộc đấu tranh giữa thiện và ác dù gay gắt, quyết liệt đến đâu thì cuối cùng cái thiện cũng chiến thắng cái ác, “ở hiền sẽ gặp lành”:

+ Con đường đến với hạnh phúc của cô Tấm luôn có sự ủng hộ, giúp đỡ của những lực lượng siêu nhiên: ông Bụt, gà, chim sẻ… thể hiện ước mơ của nhân dân về sự công bằng.

+ Con đường đến với hạnh phúc của cô Tấm là quá trình tự đấu tranh để giành và giữ hạnh phúc: 5 lần hóa thân thể hiện sức sống mãnh liệt và sự trưởng thành trong ý thức tự đấu tranh của cô Tấm.

→ Tác giả dân gian đã mượn yếu tố kì ảo, truyền thổi sức sống mãnh liệt cho nhân vật, vực nhân vật dậy “đi trả thù và sống tự do”. Ta hiểu rằng đằng sau lũy tre làng yên tĩnh luôn ấp ủ bao ước mơ lãng mạn và kì diệu của người lao động nghèo. Và chính truyện cổ tích đã tạo hình, chắp cánh cho những ước mơ, nuôi dưỡng niềm tin, niềm lạc quan cho con người. Truyện Chử Đồng Tử:

* “Viết về sự giận dữ, về lòng căm thù, về nỗi khổ đau, chán chường…”:

– Truyện phản ánh cuộc sống nghèo khổ của cha con Chử Đồng Tử.

– Truyện phản ánh sự phân biệt giai cấp sâu sắc trong xã hội phong kiến: cuộc hôn nhân của Tiên Dung và Chử Đồng Tử gặp phải sự phản đối kịch liệt của nhà vua.

* “Truyền thổi vào tâm hồn người đọc một niềm tin, một tình yêu bát ngát vào cuộc sống”:

– Cuộc hôn nhân của Tiên Dung và Chử Đồng Tử phản ánh ước mơ về một tình yêu tự do, phóng khoáng của nam nữ thanh niên vượt qua mọi rào cản giai cấp.

– Công việc làm ăn của Tiên Dung và Chử Đồng Tử ngày càng thịnh vượng → ước mơ giàu có, no đủ của nhân dân.

– Gậy, nón thần mang đến cho hai vợ chồng cung điện lộng lẫy… ước mơ lao động nhẹ nhàng và hiệu quả hơn; chinh phục đầm lấy, khai phá đất hoang của cha ông ta. → Mượn yếu tố kì ảo, truyện khơi dậy những ước mơ vừa bình dị, vừa lãng mạn, phóng khoáng, gieo vào lòng người đọc niềm tin, lòng yêu đời và tinh thần nhân văn sâu sắc.

Truyện cổ tích “Cô bé bán diêm”:

* “Viết về sự giận dữ, về lòng căm thù, về nỗi khổ đau, chán chường…”:

– Nỗi bất hạnh của một cô bé mồ côi, không nhà không cửa, chết cóng trong đêm giá rét, trước thềm của năm mới vừa sang.

* “Truyền thổi vào tâm hồn người đọc một niềm tin, một tình yêu bát ngát vào cuộc sống”:

+ Khơi dậy lòng nhân ái, sự xót thương, đồng cảm đối với những mảnh đời bất hạnh.

– Muốn “viết nhân đạo” phải “sống nhân đạo”. Người nghệ sĩ phải sống sâu sắc với đời, với người, phải có trách nghiệm với việc cầm bút của mình. Thông qua tác phẩm, tác giả phải gửi được những thông điệp mang giá trị nhân văn sâu sắc, như vậy tác phẩm mới có sức sống trường tồn trong lòng người đọc.

– Với người đọc, phải đồng cảm, tri âm với tác giả thông qua tác phẩm. Có như vậy tâm hồn người đọc mới được bồi đắp, trở nên giàu có và tràn đầy niềm tin yêu với cuộc sống.

Chọn tập
Bình luận