Truyện Kiều của Nguyễn Du là kiệt tác thơ nôm lớn nhất của nền văn học trung đại. Xét về mặt nghệ thuật, truyện Kiều thành công trên nhiều phương diện. Nếu như ở đoạn trích “Thuý Kiều báo ân, báo oán ”qua việc miêu tả ngôn ngữ đối thoại nhà thơ đã làm nổi bật tính cách nhân vật thì ở đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” nhà thơ lại rất tinh tế khi diễn tả tâm trạng nhân vật. Bởi thế, khi đọc đoạn thơ có ý kiến cho rằng: Truyện Kiều của Nguyễn Du là bức tranh tâm tình đầy xúc động”.
Ý 1: Bày tỏ ý kiến của mình về nội dung. Ý nghĩa lời nhận định
Theo em lời nhận xét đánh giá trên là hoàn toàn đúng. Người viết đã nhận xét được những điểm thành công về nội dung cũng như nghệ thuật của đoạn thơ. Bởi lẽ nói tới tâm tình là nói tới tâm tư, tình cảm, tâm trạng. Còn nói tới bức tranh là nói tới những hình ảnh chân thực cụ thể. Bởi vậy, ta hiểu ý nghĩa khái quát của lời nhận định là đoạn thơ “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã diễn tả hoàn chỉnh, chân thực cụ thể diễn biến tâm trạng của nàng Kiều khi nàng sống ở lầu Ngưng Bích. Đó là tâm trạng buồn lo, sợ hãi. Bởi vì, Mã Giám Sinh không phải mua nàng về làm vợ thiếp mà làm gái lầu xanh cho cửa hàng Thanh Lâu của Tú Bà. Vốn là con gái của một gia đình lương thiện. Thuý Kiều đã phản ứng một cách quyết liệt bằng cách dùng dao tự phẫn nhưng không thành. Sợ vốn liếng của mình không còn. Tú Bà đã đưa Thuý Kiều ra lầu Ngưng Bích chăm sóc thuốc thang, dỗ dành nàng. Sau này bình phục sẽ gả chồng cho nàng về nơi tử tế, nhưng thực chất là để giam lỏng nàng ở nơi đây để chuẩn bị một âm mưu mới. Bởi thế đây chỉ là những giờ phút, những khoảnh khắc yên thân tạm thời của Thuý Kiều. Trong hoàn cảnh một mình một bóng ấy, tâm trạng của Thuý Kiều ngổn ngang trăm mối tơ vò. Nhà thơ Nguyền Du đã theo sát nhân vật thân yêu của mình để thấu hiểu và miêu tả những diễn biến phức tạp trong tâm trạng của nàng Kiều.
Ý 2: Phân tích đoạn thơ để làm rõ diễn biến tâm trạng của Kiều
Đọc đoạn thơ trước hết ta thấy tâm trạng của nàng Kiều là nỗi cô đơn, buồn tủi khi nàng sống ở lầu Ngưng Bích.
“Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung ”.
Từ “khoá xuân” trong câu thơ gợi cho người đọc thấy được hoàn cảnh của Thuý Kiều lúc này. Nàng bị Tú Bà giam ở lầu Ngưng Bích cách biệt hẳn với cuộc sống bên ngoài. Người đọc chỉ thấy cảch thiên nhiên trước mặt nàng, phía xa xa kia là núi. Trên đầu nàng là tấm trăng lạnh lẽo. Xung quanh nàng là bốn bề bát ngát. Từ láy “bát ngát ”gợi cho người đọc hình dung thấy. Không gian nơi lầu Ngưng Bích mênh mông, rộng lớn, phẳng lặng không một bóng người. Phải chăng những cảnh vật tĩnh lặng này càng làm nổi bật lỗi cô đơn của Kiều. Không những vậy, ta còn thấy cảnh vật ở đây rất ngổn ngang với cát vàng, cồn nọ, với những bụi hồng nổi lên mù mịt. Phải chăng sự ngổn ngang của cảch vật cũng chính là sự ngổn ngang của lòng nàng Kiều. Bút pháp tả cảch ngụ tình của Nguyễn Du đã được thể hiện thành công. Nhà thơ miêu tả khung cảch thiên nhiên nơi lầu Ngưng Bích để thể hiện tâm trạng cô đơn của nàng kiều.
Đọc tiếp đoạn thơ. ta thấy nhà thơ Nguyễn Du lúc này đã diễn tả tâm trạng của nàng Kiều.
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng ”.
Nhà thơ đã dùng từ “bẽ bàng ”để diễn tả nỗi xấu hổ.tủi thẹn của Thuý Kiều chắc chắn trong tâm trí của nàng đang nhớ lại những sự việc mới xảy ra. Bị Mã Giám Sinh làm nhục rồi lại bị Tú Bà ép làm gái lầu xanh. Đến bây giờ lại bị giam lỏng ở nơi đây. chỉ thấy có mây sớm đèn khuya. Cụm từ “mây sớm đèn khuya ”mà Nguyễn Du xử dụng trong câu thơ cho ta hiểu rằng: thời gian tâm hồn khép lại hết sớm rồi lại khuya, khuya rồi lại sớm, đêm rồi lại ngày, hết ngày lại đêm. Thuý Kiều chỉ thui thủi một mình, một bóng ở nơi đây. Như vậy, không gian thì mênh mông vắng lặng. thời gian thì tuần hoàn khép kín vây hãm Thuý Kiều ở nơi đây. Cảnh ngộ trớ trêu, tình cảm thì đau đớn tủi hổ. Nỗi niềm đó như cắt đứt tâm trạng của nàng nên nàng lại càng đau đớn xót xa.
“Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng ”.
Đọc tiếp đoạn thơ, ta thấy nhà thơ đã diễn tả tâm trạng của nàng Kiều với những người thân yêu nhất. Đó là nỗi nhớ thương chàng Kim.
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ ”.
Để diễn tả niềm thương. nỗi nhớ người yêu. Nguyễn Du đã sử dụng động từ“tưởng ”đứng ở vị trí đầu câu thơ. Chữ “tưởng ”ở đây được hiểu là hồi tưởng, là nhớ lại những điều tốt đẹp. Đó là những kỉ niệm đẹp của mối tình đầu trong sáng giữa nàng với kim Trọng. Lời hẹn ước và chén rượu thề dưới đêm trăng sáng vằng vặc.
“Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song. ”
Nàng còn hình dung thấy ở nơi Lưu Dương cách trở. chàng Kim Trọng cũng đang hướng về nàng. Ngày đêm đau đáu ngóng chờ tin nàng “tin sương luống những rày trông mai chờ ”. Đây chính là tiếng nói từ trong sâu thẳm trái tim của nàng. Nhà thơ đã sử dụng thành công ngôn ngữ độc thoại nội tâm. Bởi thế, lời thơ ít mà ý thơ nhiều. Trong lời thơ như có nhịp thổn thức của trái tim yêu thương đang nhỏ máu. Nhớ thương tha thiết người mà mình yêu dấu. Càng nhớ về kỉ niệm. nàng lại cành đau đớn, xót xa. Chén rượu thề còn đó mà nay mỗi người một ngả. Nàng lại càng thấm thía nỗi cô đơn của mình.
“Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao gìơ cho phai ”.
Nàng như tự nhủ với lòng mình không bao giờ quên được hình bóng chàng kim và lại càng đau đớn.xót xa.vì tấm lòng son của nàng đã bị Mã Giám Sinh làm nhục. Do vậy, nỗi day dứt đau xót của mình lại càng tăng lên khi nhớ tới người yêu. Sau đó nhà thơ Nguyễn Du đã diễn tả nỗi nhớ của nàng với cha mẹ.
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt hồng ấp lạnh những ai đó giờ ”.
Nếu như để diễn tả nỗi nhớ người yêu nhà thơ dùng từ “tưởng ”đến hoài niệm về tình yêu. Còn diễn tả nỗi nhớ cha mẹ nhà thơ dùng từ “xót ”. Tâm trạng Kiều xót xa. đau đớn khổ tâm khi nghĩ về cha mẹ. Nàng đã hình dung thấy hình bóng cha mẹ già cứ tựa cửa ngóng tin nàng. Kiều rất kính trọng tấm lòng cao cả ấy của mẹ dành cho mình. Bởi thế nàng lại càng day dứt, trăn trở, ân hận, tự trách mình không chăm lo, phụng dưỡng cha mẹ già.
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ.
Sân lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm. ”
Nhà thơ đã dùng hàng loạt các điển cố của văn học Trung Quốc “Sân lai. gốc tử ” để thể hiện tâm trạng nhớ thương và tấm lòng hiếu thảo lớn lao của kiều. Nàng đã tưởng tượng quê nhà giờ đã đổi thay và sự đổi thay lớn nhất là cha mẹ ngày một thêm già yếu “có khi gốc tử đã vừa người ôm ”. Thế mà nàng đã chẳng làm được gì để giúp cha mẹ. ẩn trong câu chữ ấy là niềm day dứt tự trách mình của nàng. Qua đó người đọc cảm nhận được tấm lòng hiếu thảo, lòng vị tha của nàng. Nàng như quên hẳn nỗi đau khổ trong hiện tại để sống trong tâm tưởng với người yêu, với cha mẹ.
Như vậy ta thấy Nguyễn Du miêu tả rất chân thực cụ thể nỗi nhớ của Thuý Kiều. Mặt khác ta còn thấy ngòi bút của Nguyễn Du rất tinh tế khi thể hiện tâm trạng đó. Ông đã thể hiện nỗi nhớ người yêu lên trước nỗi nhớ cha mẹ. Tức là chữ tình đặt trước chữ hiếu, đảo ngược tư tưởng của lễ giáo phong kiến. Cách miêu tả này hoàn toàn phù hợp với tâm trạng Kiều. Bởi lẽ, chữ hiếu phần nào Kiều đã đền đáp, vì nàng đã bán mình, có tiền để cứu cha và em. Cảnh nhà đã tạm yên, còn chữ tình đối với chàng Kim cứ day dứt. Vì nàng đã lỗi hẹn với chàng Kim. vì mình mà chàng Kim dang dở. Hơn nữa trước khi bước vào con đường lưu lạc. Thuý Kiều chưa một lời từ biệt với chàng. Do vậy trong hoàn cảnh ở lầu Ngưng Bích chỉ có một mình nàng cô đơn, nàng nghĩ tới người yêu trước khi nghĩ tới cha mẹ cũng là điều hợp lẽ. Điều đó lại càng thể hiện Nguyễn Du rất hiểu tâm lí và đã cảm thông với những đau xót của Thuý Kiều. Nhà thơ như chia sẻ với nàng khi mối tình đầu tan vỡ.
Sau đó nhà thơ đã đi vào diễn tả tâm trạng buồn lo của Thuý Kiều.
“Buồn trông cửa bể chiều hôm.
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn cỏ mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. ”
Tác giả đã sử dụng điệp từ liên hoàn. Từ “Buồn trông ”đứng ở đầu bốn câu thơ, lặp lại bốn lần để nhấn mạnh thêm khắc sâu thêm tâm trạng buồn của Thuý Kiều. Nỗi buồn ấy dâng lên trùng trùng, điệp điệp, kéo dài theo thời gian, lan toả cả không gian, kết thành một chuỗi buồn kế tiếp nhau không dứt trong lòng Kiều. Nhưng ở mỗi một cặp câu Nguyễn Du lại diễn tả cụ thể nỗi buồn khác nhau của Kiều.
“Buồn trông cửa bể chiều hôm.
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa ”.
Nhà thơ miêu tả ánh mắt của Kiều lúc này nhìn ra phía ngoài khơi xa. Trong ánh nắng chiều nhạt nhoà, nàng thấy cửa bể rộng mênh mông, chỉ có một cánh buồm thấp thoáng. Cánh buồm ấy lúc ẩn, lúc hiện trên biển khơi mênh mông. Nhìn cảnh đó tâm trạng Kiều rất buồn. Phải chăng, nhìn cánh buồm lẻ loi ngoài khơi xa, nàng đã liên tưởng đến thân phận của mình. Cũng giống như cánh buồm. nàng cũng lẻ loi cô đơn ở nơi đây. Cánh buồm kia rồi cũng có ngày cập bến, chỉ có nàng biết đến bao giờ mới được trở về quê hương để gặp lại những người thân yêu.
Đọc tiếp cặp câu thứ hai ta thấy ánh mắt của Kiều nhìn gần hơn Nàng thấy trên dòng nước đang chảy có cánh hoa trôi. Một câu hỏi tha thiết đã được đặt ra trong tâm trí của nàng “Hoa trôi man mác biết là về đâu ”. Từ láy “man mác” đã gợi tả cánh hoa trôi nhẹ nhàng, lững lờ, buông xuôi theo dòng nước chảy. Nhìn cảnh đó, Thuý Kiều lại càng buồn hơn. Phải chăng những cánh hoa kia đã khiến nàng liên tưởng đến thân phận cuộc đời mình. Mình cũng chỉ là cánh hoa mỏng manh, yếu ớt, trôi nổi, bị cuộc đời vùi dập không biết đến bao giờ. Do vậy nàng lại càng buồn hơn. Như vậy hình ảnh cánh hoa trôi chỉ là hình ảnh ước lệ để nàng Kiều bày tỏ tâm trạng của mình.
Sau đó ánh mắt nàng hướng nhìn ra lầu Ngưng Bích. Nàng thấy “nội cỏ rầu rầu ”và “chân mây mặt đất một màu xanh xanh ”. Với từ láy “rầu rầu ”nhà thơ đã miêu tả trước mắt ta đám cỏ úa tàn. còn ẩn chứa cả tâm trạng buồn rầu. Phải chăng Thuý Kiều nhìn đám cỏ ấy, liên tưởng đến cuộc đời mình rồi cũng bị lụi tàn. héo hon theo năm tháng ở nơi đây. Cái màu xanh nhạt nhoà của chân mây, mặt đất hay chính là tương lai mờ mịt vô vọng của cuộc đời nàng. Bởi thế, tâm trạng của nàng lại càng chán nản buồn lo
Bỗng trước mắt nàng là cảnh bão tố hiện ra.
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. ”
Gió cuốn nổi lên mù mịt. mặt nước dâng trào. tiếng sóng biển ầm ầm. Từ láy “ầm ầm ”được đảo lên đầu câu thơ để nhấn mạnh thêm sự gầm gào. hãi hùng của biển cả. Nhưng đó lại không phải là sóng vỗ mà là sóng kêu. Phép nhân hoá không chỉ làm cho câu thơ thêm sinh động mà diễn tả đây chính là tiếng sóng trong lòng của kiều. Sóng kêu ấy là tiếng sóng kêu sợ hãi của Kiều khi nghĩ tới chặng đường sắp tới của mình “. Cái gió cuốn mặt duềnh” kia là hình ảnh ước lệ để chỉ những tai hoạ của cuộc đời sắp đổ xuống đời nàng, câu thơ đã thể hiện được dự cảm của Thuý Kiều về cuộc đời của mình sẽ phải gặp rất nhiều sóng gió, gian truân. Như vậy, mỗi một hình ảnh thiên nhiên trong câu thơ đều ẩn chứa tâm trạng của nàng Kiều. Bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du được sử dụng hết sức độc đáo và rất thành công.
Tóm lại. đoạn thơ “Kiều ở lầu Ngưng Bích ”quả thật là một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Với cách lựa chọn thiên nhiên hết sức chính xác, kết hợp với ngôn ngữ độc thoại nội tâm và các điển tích, cùng với bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc, nhà thơ đã diễn tả chân thực, cụ thể, tinh tế, diễn biến tâm trạng của nàng Kiều khi phảỉ sống ở lầu Ngưng Bích. Đó là lỗi cô đơn, buồn tủi, thương nhớ người thân tha thiết, nỗi buồn lo, hãi hùng. Nhà thơ đã thấu hiểu tâm trạng của Kiều cũng có nghĩa là nhà thơ đồng cảm với nhân vật, cảm thông chia sẻ với nỗi đau của Kiều. Đó chính là biểu hiện của giá trị nhân văn. Vì thế đọc đoạn trích này ta thấy, Nguyễn Du không chỉ là nhà nghệ sĩ thiên tài trong việc miêu tả diễn biến tâm trạng mà còn là nhà thơ của trái tim nhân đạo.