Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa.
Bài ca dao mang vẻ đẹp chân thực,mộc mạc nhưng rất sâu đậm
Hai câu thơ đầu nói về hương vị của muối và gừng – hầu như con người ta ai cũng biết. Vì thế, chúng không phải là để mang thông tin, vì những thông tin kia hầu hết mọi người đều nắm rõ. Giá trị của chúng là cho ta cảm nhận được quyết tâm của nhận vật trữ tình: sống có tình, có nghĩa, mãi thủy chung với người yêu – người bạn đời đã cùng mình nếm trải bao buồn vui, sướng khổ. Phải từ hai dòng thơ sau nhìn ngược lên ta mới thực sự thấu hiểu ý nghĩa của việc khẳng định lại chân lí gừng cay, muối mặn. Một sự khẳng định trong trạng thái trầm tư, mang đặc tính của hành động lòng độc thoại nội tâm. Việc tạo ra một cặp đối xứng gồm: “Muối ba năm muối đang còn mặn” và “Gừng chín tháng gừng hãy còn cay”, về bản chất, giống như một hình thức trùng điệp, có tác dụng khắc đậm ý nghĩa về sự bề lâu. Thông tin quan trọng ở đây dồn tụ vào hai cụm từ đang còn, hãy còn, chứ không phải vào hai từ cay và mặn. Chính ý niệm về sự bền lâu ấy mới quyết định khả năng dối xứng của hai đối tượng khác nhau là muối và gừng ở câu nói của nhân vật trữ tình. Nó cũng là điểm nhấn để nối hai nửa của bài ca dao lại với nhau thành một bản thể. Dĩ nhiên, độc giả bây giờ vẫn muốn tìm kiếm một cái gì khác biệt đã đảm bảo tính lô-gích của liên tưởng đi từ chuyện muối, gừng sang chuyện đôi ta. Nếu thấu hiểu những nét truyền thống trong sinh hoạt văn hóa của người Việt Nam xưa, ta sẽ thấy những đòi hỏi có lí trên được giải đáp nhẹ nhàng. Muối và gừng không chỉ là một thứ gia vị quen thuộc, thậm chí cần thiết trong các món ăn mà còn tồn tại như một vị thuốc dân dã cần dùng trong nhiều trường hợp bbij bệnh. Chẳng thế mà trong một bài ca dao khác, từng nói: “Tay nâng chén muối, đĩa gừng – Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”. Thì ra thế! Nhân vật trữ tình đã tận hưởng những ngày được săn sóc yêu thương bởi tay người bạn đời. Muối và gừng, vậy nên, ngoài hương vị vốn có của nó, còn tỏa ra hương vị của tình yêu, tình đôi lứa. Rất bình thường khi nói chuyện muối, gừng, ta có thể nghĩ đến chuyện chung thủy,son sắt và ngược lại.
Câu cuối của bài ca dao nêu một ví dụ: (dù) có xa nhau… Nếu thực sự hiểu cuộc sống, ta ắt phải biết rằng: trong cuộc sống, hạnh phúc lứa đôi và nhiều thứ hạnh phúc khác luôn chịu những tác động và ngược chiều có tính chất “phá ngang”. Tuy đang sống bình an, người ta vẫn phải nghĩ tới thời gian phía trước với bao khó khăn. Nhân vật trữ tình trong bài ca dao này cũng vậy Người ấy đã thấy, thốt lên (dù) có xa nhau, nhưng ngay lập tức, chính người đó lại đã khẳng định: “ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”. Ba vạn sáu ngàn ngày nghĩa một trăm năm – con số ước định chỉ giới hạn một đời người. “Ba vạn sáu ngàn ngày mới xa” nghĩa là đến không còn tồn tại mới xa, cũng có nghĩa là chẳng bao giờ xa cả.
Một sự khẳng định không dựa trên cảm xúc nông nổi mà đặt cơ sở trên những trải nghiệm sâu sắc về cuộc đời! Đây là một trong các nguyên nhân chính đã khiến bài ca dao để lại được trong lòng người tiếp nhận, người đọc bao thế hệ những ấn tượng tốt đẹp về tình – nghĩa – Việt Nam.