Tuy lớn hơn mười một tuổi, nhưng nhà thơ Lí Bạch cũng là người cùng thời với nhà thơ Đỗ Phủ. Quãng đời hai ông như một bản lề nối giữa hai thời kì cực thịnh và suy vong của nhà Đường, Trung Quốc với những cuộc chiến tranh nội bộ do các tập đoàn phong kiến thời đó gây nên.
Nếu thơ Đỗ Phủ là những bức tranh hiện thực của bao nỗi cơ cực buồn thương thì thơ Lí Bạch là tiếng lòng lãng mạn trữ tình lành mạnh. Chúng ta dễ bắt gặp ở thơ ông sự liên tưởng độc đáo, mạnh mẽ của một trí tưởng tượng phong phú, sự rung động sâu xa của một tấm lòng yêu thiên nhiên đất nước nồng nàn và tha thiết. ”Xa ngắm thác núi Lư” là một minh chứng. Sau đây là bản dịch của bài thơ ấy:
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này.
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước,
Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây.
Đầu đề của nguyên tác là: “Vọng Lư Sơn bộc bố”, nghĩa là xa ngắm thác bạc trên Lư Sơn. Lư Sơn là dãy núi ở Sơn Tây, Trung Quốc có nhiều ngọn chạy dài, nhưng chỉ có một ngọn là có thác đổ:
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay,
Xa trông dòng thác nước sông này.
Hương Lô hay Hương Lư là núi Lư Hương, một ngọn của dây núi Lư trông giống như chiếc bình hương. Hai câu đầu của bài thơ là cảnh tổng quát của bức tranh sông núi hùng vĩ. Nhà thơ đứng ngắm thác từ phía xa và ở một vị trí thấp hơn nhiều so với chiều cao của thác. Do đó, trước mắt ông, cảnh dòng thác và núi Lư đâu khác gì một bức tranh sơn thủy treo ở lưng chừng trời. Bức tranh này có nhiều màu sắc và có vẻ đẹp huyền ảo. Ở độ cao ba ngàn thước, dòng thác đổ xuống như bay hơi nước bốc lên thành những làn khói. Các làn khói nước này với muôn ngàn thấu kính li ti được ánh nắng mặt trời rọi vào, tạo nên một sắc tía cầu vồng kỳ ảo, đó là khói tía. Màu vàng của nắng, sắc tía của khói nước gợi nên vẻ đẹp huyền ảo của toàn cảnh. Dáng núi lại gợi hình giống chiếc bình hương. Bởi vậy, khi nhìn vào, nhà thơ chợt nghĩ đến chiếc bình hương khổng lồ đang tỏa khói nghi ngút giữa trời và nước.
Bức tranh kỳ vĩ của núi sông này như được bàn tay này của người thợ vẽ tài hoa là tạo hóa đã pha màu tạo sắc. Giữa nền xanh của núi, hơi nước trắng rọi tỏa bay như khói hương là dòng nước bạc đồ sộ, tuôn dài như một tấm vải trắng. Chữ Hán “bộc” là thác, ”bố” là tấm vải. ”Bộc bố” ý nói thác nước tuôn như một tấm vải trắng:
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước,
Lời thơ và nhịp thơ mạnh mẽ làm nổi bật hẳn lên hình ảnh hùng vĩ, kỳ diệu của một dòng thác từ trên cao gần ba ngàn thước bay thẳng xuống.
Chỉ với ba câu thơ ngắn, ngòi bút tài tình của nhà thơ Lí Bạch, khung cảnh Lư Sơn như hiện ra trước mắt ta với đầy đủ màu sắc, hình khối, đường nét…Nhưng dường như ba câu thơ ấy chỉ để chuẩn bị. Sức mạnh của bài thơ, vẻ đẹp huyền ảo kỳ vĩ và đồ sộ của dòng thác núi Lư đã được dồn vào câu kết:
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.
Câu thơ trước hết là cảm nghĩ của nhà thơ khi đứng trước cảnh thực. Ông so sánh thác bay thẳng xuống như dải Ngân Hà tuột khỏi mây. Thật là một so sánh sáng tạo bất ngờ đầy thú vị và sảng khoái cho người đọc: “Nghi thị Ngân Hà lạc hữu thiên”. Dải Ngân Hà là nơi tập trung dày đặc muôn vàn tinh tú vắt ngang trời. Ánh sáng của dải sao này được so sánh với dòng sông bạc trên trời. Cách so sánh ấy cũng làm tôn thêm vẻ đẹp kỳ vĩ của dòng thác nui Lư có thực ở trần thế.
Thấy dòng thác lấp lánh bạc đổ xuống tưởng như dải Ngân Hà lạc khỏi chín tầng mây ở trời cao, cao lắm, rơi xuống hạ giới, vào thời đại bấy giờ, đây là hình ảnh đầy tự hào về trí tưởng tượng của nhà thơ trước khung cảnh hùng vĩ và đầy thi vị của thiên nhiên.
Bài “Xa ngắm thác núi Lư” của Thi tiên Lí Bạch đã lưu lại muôn đời bằng phương tiện văn học cái đẹp hùng vĩ của một dòng thác khổng lồ kì lạ.
Càng đọc thơ ông, ta càng yêu thiên nhiên đất nước và càng khâm phục thi tài của ông, khâm phục sự phóng khoáng của một nhà thơ có trí tưởng tượng dồi dào, phong phú;có nghệ thuật sử dụng ngôn từ tài hoa vào bậc nhất đời Đường