Đã bấy lâu nay bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng chợ thời xa.
Thành phần tình huống đã bấy lâu nay có tính cấu trúc. Nó phản ánh chu kỳ bạn đến nhà với tần suất thấp, rất thấp. Khoảng giữa chu kỳ đó là sự trống vắng. Thêm một từ nhưng vào giữa hai câu phá – thừa, mọi việc sẽ sáng tỏ. Điều đó ta có thể làm được và cần thiết phải làm, vì thơ Đường đòi hỏi phải tư duy mới tái tạo được hồn thơ, mà khi đã tư duy thì phải dùng kết từ, hệ từ, tất nhiên. Ngược lại, tác giả thơ Đường không tư duy thay ta. Họ chỉ nêu hiện tượng, sự việc, còn ta phải tự khám phá các mối quan hệ. Do đó, thơ Đường rất kiêng kỵ dùng kết từ, hệ từ. Nguyễn Khuyến cũng vậy, thơ nôm Đường luật của ông dường như vắng bóng các từ nhưng, vì, nếu, là… Còn khi đọc ta phải thêm vào để hiểu thơ ông. Với câu thừa, sự thể thật trớ trêu. Những tưởng khách đến chơi nhà thì nỗi cô đơn được giải toả, nào ngờ khách lại bước vào cõi riêng của chủ thể, ở đó chủ thể bị cô lập với thế giới, với con người, kể cả người thân. Vị thế thay đổi. Khách biến thành người chung cảnh ngộ. Nỗi cô đơn được nhân đôi.
Không gian ở hai câu thực rất đặc biệt nếu đem so sánh với không gian tương đồng trong những bài thơ khác. Vẫn là “Vườn Bùi chốn cũ”, quê hương ông, vẫn là ao ấy, vườn ấy, hàng dậu ấy, nhưng khi cần một không gian trống vắng để đối lập với một tâm cảnh ngổn ngang thế sự thì:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo…
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
(Thu điếu)
Khi dùng hơi men hòa giải với nỗi lòng trầm uất thì không gian biến hiện, chấp chới với người say:
Lưng dậu phất phơ màu khói nhạt
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe
(Thu ẩm)
Khi tâm tư mang niềm hoài cổ thì nước ao trở thành tầng khói phủ làm mờ những giới hạn thời gian, hàng dậu đánh thức ký ức về chùm hoa quá khứ.
Nước biếc trông như tầng khói phủ…
Mấy chùm trước dậu hoa năm ngoái
(Thu vịnh)
Vậy mà ở đây, cái vườn Bùi chốn cũ thơ mộng kia biến đâu mất cả, chỉ còn trơ lại một không gian cách trở, ngoài tầm với của con người:
Ao sâu nước cả, khôn chài cá
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
Một sự lựa chọn cực đoan, nhưng đó chính là thơ Đường!
Nếu như hai câu thực xác định một không gian ngoài chủ thể, thì hai câu luận lại điểm nhịp thời gian lặng lờ trôi, lãng quên chủ thể. Hãy thử thay đổi các loại cây quả, ví như:
Đậu chửa ra cây vừng mới nụ
Ngô vừa trổ bắp lạc đương hoa
Bốn loại cây trên gieo trồng và thu hái một lần theo mùa vụ. Khoảng giữa thời gian đó không ăn được. Nếu vậy thì ta mất hướng. Khách có thể xui xẻo đến nhà vào lúc chủ nhà trắng tay lắm chứ. Nhưng Nguyễn Khuyến đã lựa chọn, ông chọn những cây ra hoa kết trái nhiều lần và con người thu hái dần dần trong một thời lượng tương đối dài. Bầu có quả vừa rụng rốn nhưng cũng có quả ăn được. Cà mướp cũng vậy. Cần nói rõ về cây cải. Nó là loại cây phát triển nhanh, chỉ cần một tháng sau khi gieo trồng đã có thể thu hái. Ở nông thôn, nó là loại rau phổ biến trong bữa ăn của mỗi gia đình suốt mùa thu – đông. Dân ta không bao giờ thu hái hết lớp này mới gieo trồng lớp khác. Họ trồng xen, trồng gối. Trong vườn bao giờ cũng có cải đủ loại: cây non ăn sống, cây vừa nấu canh, cây già muối dưa, ăn củ. Vậy là rõ. Ông đã lựa chọn, không những thế, ông còn bắt tất cả quả bầu đều phải vừa rụng rốn cùng một lúc. Cải, cà, mướp cùng chung số phận. Thật không gì có thể phi lý hơn! Bằng một loạt phó từ chỉ quan hệ thời gian chửa, mới, vừa, đương, ông dồn nén các thì tương đối hội tụ về một điểm trùng với thì tuyệt đối – thì phát ngôn thơ – rồi thì tương đối ra đi, hững hờ, vô cảm – đặc trưng muôn thuở của thời gian – để lại cho thì tuyệt đối cùng chủ thể trữ tình một con số 0 (không) tròn trĩnh: không cải, không cà, không bầu, không mướp.
Có bạn đến chơi nhà thật, hay chỉ là một thủ thuật cấu tứ? Điều ấy không quan trọng. Vấn đề cốt lõi là ở chỗ ông đứng ngoài không gian, đứng ngoài thời gian. Và đó là cách ông tuyệt đối hoá nỗi cô đơn của mình.
Từ lúc cáo quan về nhà, Nguyễn Khuyến là hai con người trong một tâm thân. Một con người thuộc cộng đồng, nghĩa là con người của gia đình, làng xóm, bạn bè, nhiều người quý mến nể vì, cũng không ít kẻ ghét ghen đố kỵ. Và một con người ngoài cộng đồng. Để giải mã triệt để bài thơ, ta xét hồ sơ con người ngoài cộng đồng.
Ông nhận học vị Tam nguyên Hoàng giáp từ vua Tự Đức. Ông trân trọng, tôn thờ cân đai áo mão vua ban. Mong muốn trọn đời của ông là phò vua giúp nước. Nhưng rồi vua Tự Đức băng hà. Lý tưởng trung quân ái quốc của ông sụp đổ. Với Nguyễn Khuyến, Hiệp Hoà, Kiến Phúc, Đồng Khánh là những ông vua bù nhìn. Hàm Nghi là ông vua hữu danh vô thực. Ông không hưởng ứng chiếu Cần vương vì thiếu dũng khí hay vì ông biết vận nước đã tận? Sự thật là cuối thế kỷ 19, tất cả các cuộc khởi nghĩa Cần vương đều bị dập tắt. Bài thơ chữ Hán Xuân dạ liên nga (Đêm xuân thương con thiêu thân) tương truyền ông làm để bày tỏ lòng tiếc thương người bạn đồng học, tiến sĩ Vũ Hữu Lợi, chưa kịp khởi sự đã bị bắt và xử tử hình đêm ba mươi tết (1887) cho thấy khá rõ chính kiến của Nguyễn Khuyến về phong trào Cần vương. Ta nghiêng mình trước những văn thân yêu nước dám xả thân vì nghĩa lớn, nhưng không thể lấy họ làm toạ độ quy chiếu để đánh giá nhân cách của người khác. Động thái của họ chỉ để thành nhân, không thể thành công. Nguyễn Khuyến muốn điều ngược lại và ông bế tắc. Lịch sử đã an bài: gần như cả châu Á đã rơi vào nanh vuốt phương Tây, Việt Nam cũng không ngoại lệ. Lẽ xuất xứ của các sĩ phu thời tao loạn là Dụng tắc hành, Xả tắc tàng. Ông đã tự xả, nhưng không tàng được. Ông giả điếc, và theo một nghiên cứu của Xuân Diệu, ông còn giả mù, giả câm để tránh chính quyền đương thời nhiễu sự, nhưng ông đã không chạy trốn được chính mình. Ông từ quan mà lòng vẫn bất an. Mặc cảm cay đắng Ơn vua chưa chút báo đền, Cúi trông hổ đất ngửa lên thẹn trời ông đeo đẳng đến lúc chết. Không ai hiểu ông. Người vợ tao khang của ông chỉ biết hay lam hay làm, thắt lưng bó que tần tảo. Con trai ông vẫn hăm hở với hư danh. Bạn bè ông kẻ cùng chí không cùng ý, người tặc lưỡi buông xuôi… Ông cô đơn.
Bây giờ ta đã đủ hành trang để “vượt rào cản” hai câu kết:
Đầu trò tiếp khách trầu không có
Bác đến chơi đây ta với ta.
Nguyễn Khuyến bao giờ cũng có trầu. Những lúc vắng nhà, ông vẫn không quên mang theo gói trầu têm sẵn. Nhưng nghịch lý trầu không có chưa phải là thần tứ. Phó từ phủ định không bất ngờ, sắc lạnh như một nhát chém, chặt đứt nẻo giao tiếp cuối cùng giữa chủ thể với thế giới. Đúng nghệ thuật thơ Đường là nghệ thuật của hư từ! Đại từ chỉ nơi chốn đây định vị một cõi riêng, cõi bị cô lập với không gian và thời gian thông lệ. Kết từ với không gợi tư duy mà chỉ đơn thuần liên kết, hơn thế nữa, hoà tan cái ta cụ thể bác trong cái ta cô đơn.
Cụ Nguyễn Thị Đà (mất năm 1971, thọ 86 tuổi), cháu nội của nhà thơ, kể rằng: “Cứ vào khoảng chiều muộn, cụ thường ra sân ngồi trầm ngâm bên bể cạn non bộ, trước hai ông phỗng đá. Tại đây, khi hoàng hôn sắp xuống, cụ mới bắt đầu bữa rượu chiều. Cụ rót cho mình một chén, rót cho hai ông phỗng hai chén. Xong xuôi, cụ nâng chén mời hai ông phỗng. Hai ông phỗng không biết uống rượu. Cụ buồn rầu xoa đầu hai ông rồi lần lượt uống rượu cho cả hai. Cạn ba chén rượu, cụ ngồi thừ người một lúc rồi cúi đầu lặng lẽ bưng mặt khóc.” (Nguyễn Khuyến và giai thoại – Bùi Văn Cường, Hội Văn học Nghệ thuật Hà Nam Ninh, 1987).
Ta lại phải dùng hư từ với. Nhà thơ đã đồng nhất mình với hai ông phỗng, hay hai ông phỗng đồng nhất họ với nhà thơ?