Thạch Lam xuất hiện trên văn đàn Việt Nam 1930 – 1945 như một làn “gió đầu mùa” tinh khiết, êm nhẹ. Người đọc văn Thạch Lam cảm nhận được một tình người đằm thắm trong một giọng văn tha thiết. Cái đẹp tự lan toả, “tiềm tàng trong mọi vật bình thường” khiến cho “lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”. Thạch Lam đã khơi gợi ánh sáng cho những tâm hồn từ ngay những mảng đời chìm trong bóng tối. Truyện ngắn Hai đứa trẻ – câu chuyện về hai chị em ở phố huyện nghèo – như một bài thơ thấm đẫm tình người. Thế giới trẻ thơ gợi lại cho mỗi chúng ta những rung động êm đềm mà sâu sắc, mở ra những suy tư về thân phận con người.
Trong văn xuôi Việt Nam những năm 30 của thế kỉ XX, có lẽ khó ai tìm ra được những nét đẹp tiềm ẩn trong cái bình thường giỏi như Thạch Lam. Các nhà văn Tự lực Văn đoàn, những anh em của Thạch Lam cũng hay nói về cảnh nhà quê, người nhà quê nhưng đã tước đi vẻ hồn nhiên tươi tắn chân thực của cuộc sống ấy, thay vào đó là những cái nhìn có phần xa lạ, kẻ cả, đôi chút khinh miệt. Có lẽ, trong số anh em họ Nguyễn Tường, Thạch Lam là người sống sâu nặng hơn cả với kí ức tuổi thơ của mình. Trong tâm tư của nhà văn, phố huyện Cẩm Giàng (Hưng Yên) và người chị tần tảo đã trở thành chuỗi kỉ niệm đẹp đẽ nhất, khiến cho ông khi viết về hình ảnh phố huyện vẫn còn vẹn nguyên những ấn tượng sâu đậm của tuổi thơ. Hai chị em Liên và An chính là những gì Thạch Lam yêu mến, gắn bó thuở thiếu thời.
Người đọc không thể nào quên ấn tượng về một không gian phố huyện chuyển dần vào bóng đêm. Những âm thanh của một ngày sắp tắt cùng với một phương tây cháy rực gieo vào lòng người nỗi buồn mơ hồ. Một phiên chợ chiều tàn, dăm đứa trẻ nhặt nhạnh những thứ vương vãi xung quanh chợ không chỉ đánh động tình thương của cô bé Liên đầy lòng trắc ẩn mà còn khiến chúng ta cũng bồi hồi vì những nét thân thuộc của quê hương, một “mùi riêng của đất, của quê hương này”. Tài năng của Thạch Lam đã giúp chúng ta nhận ra cái hồn quê hương dìu dịu thấm vào từng cảnh vật và những sinh hoạt ban đêm của những con người phố huyện. Tất cả những gì nhà văn mô tả đều hết sức bình thường trong một câu chuyện không có cốt truyện. Khung cảnh và những con người đều như hướng vào một chủ đích của nhà văn: khắc hoạ những nét bình dị, lặng lẽ trong một không khí xã hội đang chìm trong bóng đêm dày đặc của cuộc sống quẩn quanh không lối thoát.
Những nhân vật phố huyện: mẹ con chị Tý với hàng nước, bác Siêu bán phở, gia đình bác Xẩm… từng ấy nhân vật đã làm nên cái đặc trưng của phố huyện. Đó là những con người đang lầm lũi trong cuộc mưu sinh, tâm trạng lúc nào cũng lo toan và nhẫn nhịn. Họ cùng chờ đợi, không phải là những người khách mà chính là đang mòn mỏi hy vọng . Những cuộc đời trong bóng tối ấy, cũng giống như không gian phố huyện kia, dày đặc tăm tối nhưng vẫn loé lên ánh sáng của một thế giớ khác, một thứ ánh sáng mong manh nhưng không hề lịm tắt.
Không phải ngẫu nhiên nhà văn đã miêu tả cuộc sống phố huyện gắn với ba thời điểm nối tiếp: hoàng hôn – tối – khuya. Bóng tối càng dày đặc bao nhiêu thì khát vọng hướng về ánh sáng càng khắc khoải bấy nhiêu. Ánh đỏ rực của buổi hoàng hôn dẫu đẹp nhưng lại gieo vào lòng cô bé Liên nỗi buồn man mác vì cuộc sống của hai đứa trẻ trong một gia đình sa sút đã mang sẵn những dư vị của bóng tối. Đó là thời điểm bắt đầu những lo toan của thế giới người lớn nên “bóng tối ngập đầy dần” đôi mắt Liên. Liên đã chứng kiến những con người “đi lần vào bóng tối”, “từ từ đi vào bóng đêm” và rồi từ bóng tối mênh mông lại hiện lên những bóng đời chập chờn ánh sáng ngọn đèn, bếp lửa. Ánh sáng của thực tại chỉ còn là “nguồn sáng” xa lạ của những vì sao trên trời. Là những “khe sáng”, “quầng sáng”, “hột sáng” mong manh của những con người cùng sống nơi phố huyện nghèo. Sự sống như ẩn mình trong ánh sáng nhưng vẫn không xua tan được những ám ảnh bóng tối. Nó chỉ đánh thức những hoài niệm tuổi thơ. Những ngày tháng êm đềm của chị em Liên khi cảnh nhà chưa sa sút. “Vùng sáng rực và lấp lánh” của quá khứ là một tương phản để cắt nghĩa cho tâm trạng của Liên: “Đêm tối đối với Liên quen lắm, chị không sợ nó nữa”. Đó là sự chấp nhận, là thực tế đáng buồn mà Thạch Lam đã nhận ra từ cuộc sống của hai đứa trẻ. Hoàn cảnh không cho phép hai chị em Liên – An được sống bình thường như bao đứa trẻ khác, tuổi thơ của những đứa trẻ con nhà nghèo không có ánh sáng, đang cằn cỗi dần cùng bóng tối. Phải chăng vì vậy mà cô bé Liên dễ động lòng trắc ẩn trước “mấy đứa trẻ con nhà nghèo”, còn An dù thèm nhập bọn cùng đám trẻ con chơi đùa, nhưng nhớ lời mẹ dặn nên đành ngồi im. Cảnh nghèo dễ khiến tạo ra mặc cảm, dù cho là những đứa trẻ. Thạch Lam dường như không muốn để cho những cảm giác bi kịch đè nặng lên số phận những con người nghèo khổ, bằng thái độ trân trọng, ông đã nâng đỡ cho các nhân vật của mình, vực dậy những khát khao đổi đời ngay trong những khoảnh khắc ánh sáng mong manh nhất: “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”…
“Một cái gì tươi sáng hơn”, bản thân họ cũng không hề biết trước, chỉ là những trông ngóng mơ hồ. Nhà văn không thể chỉ ra “con đường sáng” cho những con người nghèo khổ ấy. Có lẽ, ông cũng không mơ hồ, ảo tưởng như những cây bút Tự lực Văn đoàn khác như Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo để mong chờ một thay đổi theo khuynh hướng cải lương, một tình thương bố thí nửa vời. Ông cũng không trông chờ nhiều vào hoạt động của “Hội Ánh sáng” do các anh em của ông tổ chức sẽ cải thiện cuộc sống dân nghèo. Bằng trực giác và sự nhạy cảm của tâm hồn nghệ sĩ giàu yêu thương, Thạch Lam đã phát hiện những nội lực để vươn lên của con người từ chính nền cuộc sống nghèo khổ. Ông đã diễn giải sâu sắc bằng hình tượng chuyến tàu đêm ngang qua phố huyện.
Chuyến tàu ấy là hoạt động cuối cùng về đêm của phố huyện, là dịp cuối cùng để cho những người bán hàng đêm như chị em Liên mong “may ra còn có một vài người mua”. Nhưng vượt lên cuộc sống thường nhật mà nỗi thất vọng lớn hơn niềm hy vọng, là sự háo hức trông đợi chuyến tàu “mang ánh sáng của một thế giới khác đi qua” để con người không đánh mất niềm tin vào sự sống . Vì vậy Thạch Lam đã dành những câu văn thật tinh tế để diễn tả cảm giác đợichờ ở Liên và An. Đặc biệt, cô bé Liên đã chiếm được nhiều cảm tình ở người đọc. Không chỉ vì Liên là người chị lớn đảm đang, tay hòm chìa khoá của mẹ, vì dẫu cho cô bé Liên có tự hào về chiếc chìa khoá đeo vào chiếc dây xà tích bạc thì điều ấy chỉ làm người đọc buồn và thương cảm cho một cô bé sớm già trước tuổi. Điều mà Thạch Lam làm cho người đọc yêu mến nhân vật chính là khoảnh khắc ông giúp phát hiện vẻ đẹp giàu nữ tính của nhân vật: “Liên khẽ quạt cho em, vuốt lại mái tóc tơ (…) Qua kẽ lá của cành bàng, ngàn sao vẫn lấp lánh; một con đom đóm bám vào dưới mặt lá, vùng sáng nhỏ xanh nhấp nháy rồi hoa bàng rụng xuống vai Liên khe khẽ, thỉnh thoảng từng loạt một. Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu”. Đây là trang văn đậm chất thơ, đem đến sự ngọt ngào của tình cảm nhà văn dành cho Liên, tạo ra cảm xúc đồng điệu ở người đọc. Một cô bé giàu mộng mơ, ắt hẳng không thể để tâm hồn ngập dần trong bóng tối. Đó là tiền đề để Liên có thể cảm nhận ánh sáng chuyến tàu đêm khác hẳng mọi người: Liên lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực,vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua”. Ánh sáng rực rỡ của con tàu mang hình ảnh chứa đựng khát vọng về tương lai, đánh thức sức sống mãnh liệt của tâm hồn Liên. Không phải một lần Liên đón nhận ánh sáng ấy mà đêm nào cô cũng được sống trong những giờ phút mơ tưởng này. Mơ ước lãng mạn bao giờ cũng là cơ sở của hành động. Thạch Lam đã đem đến một thông điệp giàu ý nghĩa về con người, tạo nên giá trị nhân văn của tác phẩm: hãy tin tưởng và trân trọng khát vọng của con người, dẫu thực tại còn đầy bóng tối như không gian phố huyện nghèo kia, nhưng con người dù trong hoàn cảnh nào cũng vẫn hướng về ánh sáng. Cảm quan lãng mạn không cho phép nhà văn đi xa hơn, nhưng cũng giúp cho người đọc thêm yêu mến những con người nghèo khổ đầy hy vọng.
Từ tình cảm dành cho những con người bé nhỏ, Thạch Lam còn làm sống dậy những tình cảm gắn bó với quê hương, mảnh đất và con người bình dị mà thân thương. Có thể xem đó là một khía cạnh khác của tâm hồn nhân ái Thạch Lam. Ông nói về những cảm nhận của hai chị em cũng là phát hiện về mối quan hệ gắn kết giữa con người với mảnh đất. Dường như những hương vị bình thường, mùi đất, mùi chợ cũng là một phương diện của tâm hồn hai đứa trẻ, cũng là sự tha thiết trìu mến của nhà văn hướng về vùng đất Cẩm Giàng từng lưu dấu tuổi thơ. Những chi tiết bình thường nhất nơi phố huyện còn lan toả cảm giác ấm áp ân tình của Thạch Lam đến tận bây giờ. Bóng tối mênh mông là miền đời không thể lãng quên và không được phép lãng quên, bởi ở đó có những con người mà nhà văn thương mến nhất.
Huyền Kiêu, một người bạn của Thạch Lam đã rất có lí khi cho rằng “Thạch Lam là một người Việt Nam thành thực nhất”, có lẽ bởi nhà văn đã yêu cuộc sống và những con người nghèo khổ qua những trang văn thấm đượm tình người, những trang văn “rất nhiều Thạch Lam trong đó”. Độ chân cảm từ những trang văn Thạch Lam sẽ còn làm cho nhiều thế hệ người đọc còn bồi hồi xúc động.