Mở bài:
Giới thiệu khái quát về tác giả và nội dung bài thơ thương vơ của Trần Tế Xương
Thân bài:
2/ Hai câu đề:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng .
– Câu thơ mở đầu cất lên thật tự nhiên , dường như không chút gọt giũa mà nói được bao điều về hình ảnh và công việc làm ăn của bà Tú .
– Từ “quanh năm” diễn tả sự triền miên về thời gian , từ ngày này sang ngày khác , tháng này qua tháng khác và năm nào cũng vậy , bất kể mưa nắng , sớm trưa .
Trong khoảng thời gian không ngơi nghỉ đó , bà Tú phải miệt mài với công việc “buôn bán” . Đó chỉ là kiểu buôn thúng bán mẹt , lời lãi chẳng được bao nhiêu ở chốn đầu sông cuối bãi .
– Hai từ “mom sông” cụ thể hóa không gian làm việc của vợ ông Tú , đó là nơi có thế đất hiểm trở , là doi đất nhô ra , ba bề là nước , khá chênh vênh nguy hiểm .
– Tú Xương đã quan sát , thấu hiểu cho nỗi vất vả của người vợ . Bởi vậy , ẩn sau mỗi lời thơ nôm na bình dị là một niềm cảm thông , thương mến sâu lắng . Với người vợ , một lời cảm thông như vậy của chồng cũng đủ để bù đắp cho bao nỗi đắng cay .
– Câu thơ thứ hai nêu lên căn nguyên sự vất vả của bà Tú . Bà phải gánh trên vai một trách nhiệm nặng nề “ nuôi đủ năm con với một chồng” . Phải chăm sóc , nuôi nấng một đàn con đông đảo năm đứa đã đủ cực nhọc lắm rồi . Vậy mà bà còn phải nuôi thêm cả đức ông chồng . Ai cũng biết ông Tú tài cao nhưng phận thấp , thành ra ông chí khí uất . Tám lần ông đi thi chỉ mong bia đá bảng vàng nhưng rút cục đi không lại trở về không bởi thơ văn ông quá sắc sảo . Ông lại phải hằng ngày chứng kiến bao cảnh trái tai gai mắt “ con khinh bố”, “vợ chửi chồng” , bao điều lố lắng của xã hội dở ta dở tây đương thời . Tú Xương luôn day dứt về sự đời ô trọc . Cảnh chung niêm riêng khiến ông Tú rất kĩ tính , khó tính . Ấy vậy mà bà Tú vẫn “ nuôi đủ” . Công lao to lớn của bà nằm ở hai chữ “nuôi đủ” này . Bà Tú thắt lưng buộc bụng , tần tảo quanh năm không chỉ đáp ứng đủ nhu cầu về vật chất của một đại gia đình đông đảo mà bà còn phải sống lựa , chăm lo cho nhu cầu tinh thần vốn cao sang , tài tử của ông Tú . Sự đảm đang , khéo léo cảu bà thể hiện ở việc lựa ông Tú mà sống , khéo chiều sự khó tính khó nết của ông sao cho trong ấm ngoài êm .
– Hai câu thơ đầu đã đặc tả sự nhẫn nại , đảm đang của bà Tú trước gánh nặng gia đình . Qua đó nhà thơ gián tiếp bày tỏ sự biết ơn đối với người vợ tần tảo của mình
3/ Hai câu thực
Lăn lội thân cò khi quãng vắng ,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông .
– Hai câu thơ đã cụ thể hơn tính chất , đặc thù công việc cảu bà Tú . Cách đảo ngữ “ lặn lội thân cò” , “ eo séo mặt nước” tô đậm chân dung cực nhọc , lam lũ , bươn chải của bà .
– Nhà thơ mượn hình ảnh ẩn dụ “thân cò” trong ca dao để ví von với thân phận ,
cuộc đời người vợ của mình . Con cò trong ca dao cực khổ , bất hạnh vô cùng :
“ Cái cò lặn lội bờ sông –Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”
“Cái cò đi đón cơn mưa – Tối tưm mù mịt ai đưa cò về”
“ Cái cò mà đi ăn đêm – Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao”
– Nhà thơ đã đồng nhất thân phận bà Tú với thân phận của những người lao động vất vả , lam lũ . Thân cò còn gợi dáng vẻ bé nhỏ , gầy gò , đáng thương tội nghiệp của người vợ ông Tú .
– Bà Tú bé nhỏ yếu ớt thế mà phải một mình thân gái dặm trường , đi làm qua những nơi “ quãng vắng” . Khi khỏe thì không sao nhưng khi trái gió rở trời , sảy chân bất kì thì không biết bà Tú sẽ gặp nguy hiểm chừng nào . Thế mới thâm thía câu ‘Buôn có bạn , bán có phường” . Câu thơ mang sức nặng của tấm lòng thương cảm mà ông Tú dành cho vợ .
– Bà Tú không chỉ dấn thân những chỗ đồng không mông quạnh mà còn phải chen chân trên những chuyến đò đông , phải chịu những tiếng “eo sèo”, những lời qua tiếng lại cò kè mặc cả , có lườm nguyt chê bôi xô bồ . Đò đông gợi ra sự hiểm nguy , xô đẩy , chen chúc . vậy là “ cô gái nhà dòng” vì lấy ông Tú mà buộc phải nhắm mắt đưa chân quên đi lời mẹ dặn “ Sông sâu chớ lội đò đầy chớ qua” , phải lăn lôn giữa chốn đời phàm tục để kiếm miếng cơm manh áo nuôi gia đình .
– Hai câu thơ chú trọng vào việc miêu tả nỗi vất vả , sự đảm đang của bà Tú . Ẩn sau câu chữ vẫn là tấm lòng nhà thơ với cái nhìn thương cảm , ái ngại , biết ơn , trân trọng .
4/Hai câu luận
Một duyên hai nợ âu đành phận ,
Năm nắng mười mưa dám quản công .
– Hai câu luận là lời ông Tú nhập thân vào bà Tú để than thở giùm vợ . Nhà thơ dùng nghệ thuật đối , các khẩu ngữ và những thành ngữ dân gian “ một duyên hai nợ” , “năm nắng mười mưa” , “ âu đành” , “dám quản” để bộc lộ nỗi lòng ấy .
– Duyên và nợ là hai khái niệm đối lập nhau . Theo cách hiểu dân gian , duyên là đieuf tốt đẹp , là sự hòa hợp tự nhiên , còn nợ là gánh nặng , là trách nhiệm mà con người ta bị vướng mắc phải . Duyên là sự may mứn , còn nợ là sự rủi ro . Ở đây , khi lấy ông Tú , may mắn bà Tú chỉ hưởng có một mà rủi ro lại gấp đôi , tức là sung sướng thì ít ỏi mà khổ cực thì lại nhiều .
– Dù vậy , bà coi đó là cái phận , cái định mệnh mà ông trời đã áp đặt sẵn cho mình . Vì thế , bà cam chịu , chấp nhận , không kêu ca mà âm thầm chịu đựng . Bà sẵn sàng vượt qua “ năm nắng mười mưa” – những nỗi khó khăn tăng cấp chồng chất , bà dám “ quản công” , tự nguyện gánh vác trách nhiệm chăm lo gia đình .
– Hai câu thơ như một tiếng thở dài của bà Tú . Dù vất vả trăm điều nhưng bà vẫn âm thầm chịu đựng , vượt lên . Phảo chăng đó cũng chính là đức hi sinh – vẻ dẹp truyền thống cảu người phụ nữ Việt Nam ?
5/Hai câu kết .
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không
– Hai câu thơ vẫn là lời Tú Xương nhập thân vào bà Tú để chửi , để rủa chính thói đời bạc bẽo , trách cứ sự vô tích sự của mình .
– Thói đời là những nếp cư xử ,hành động xấu chung mà người đời hay mắc phải . Thói đời mà Tú Xương muốn nói đến ở đây là tư tưởng trọng nam khinh nữ , là thói vô tâm cảu các ông chồng với vợ . Thói xấu ấy cũng đã thấm vào người ông Tú , khiến ông ăn ở bạc với vợ , sống thiếu trách nhiệm , đổ mọi gánh nặng lên đôi vai người vợ . Như vậy , ông Tú không chỉ chửi chung thói đời mà còn chửi chính bản thân mình .
– Đây là lời chửi mang đặc trưng riêng của Tú Xương . Nhà thơ dùng lời ăn tiếng mói của dan gian “ cha mẹ” – một cách chửi có gọng điệu chanh chua nanh nọc , gay gắt , quyết liệt , lôi cả gốc rễ tông giống của vấn đề ra mà chửi . Đó chính là biểu hiện của cá tính sắc sảo Tú Xương .
– Câu thơ cuối cùng là một lời rủa . Nhà thơ thay vợ mà rủa rằng có chồng mà chồng hờ hững thì còn tệ hơn cả không có chồng . Có thể hiểu câu đó nghĩa là ông chồng mà sống vô tích sự , vô trách nhiệm với gia đình thì ông ta sống cũng như chết rồi .
– Hai câu thơ cuối là một cách chuộc lỗi đặc biệt của nhà thơ với vợ . Lời thơ giản dị pha lẫn nụ cười trào phúng mà vẫn chân chất , thấm thía tấm lòng thương vợ đáng quy trọng .
Kết bài:
– Thương vợ là bài thơ ngắn gọn , súc tích , có ngôn ngữ giản dị , giọng thp ân tình , hóm hỉnh đã khắc họa chân dung bà Tú – người vợ tảo tần đảm đang , chịu thương chịu khó , giàu dức hi sinh vì chồng con , mang vẻ đẹp truyền thống cảu người phụ nữ Việt Nam .
– Tác phẩm cũng bộc lộ sự cảm thông , trân trọng biết người vợ sâu sắc của nhà thơ Tú Xương