Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Văn Mẫu Lớp 11

Nghị luận văn học: Về thiên nhiên trong bài thơ Tràng Giang của Huy Cận

Tác giả: Sachvui.Com
Thể loại: Sách Giáo Khoa
Chọn tập

I. Mở bài:

Giới thịêu Huy Cận và bài thơ Tràng giang.

II.Thân bài:

1. Cảm hứng chủ đạo được thi nhân nói rõ ở câu đề từ: “bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”.Một thiên nhiên bao la mênh mông,một dòng sông dài không rõ đâu là nguồn đâu là cửa sông.Một nỗi niềm “bâng khuâng”,một tấm lòng tha thiết “nhớ”đứng trước vũ trụ, nhìn “trời rộng” và ngắm “sông dài”.

2. Bài thơ có 4 khổ, mỗi khổ như 1 bài thất ngôn tứ tuyệt hoàn chỉnh. Cảnh và tình giao hòa,cảnh đẹp mà buồn man mác.

– Khổ một, sóng gợn buồn,từng lớp từng lớp như lan tỏa “điệp điệp”, lòng người. Con thuyền và vệt nước song song: “thuyền về nước lại”gợi 1 nỗi buồn chia phôi “sầu trăm ngả”.Một cành củi khô trôi trên tràng giang tượng trưng cho sự chết chóc,chia lìa.Vần thơ đầy ám ảnh.

– Khổ 2 gợi tả 1 k gian mênh mông,vắng lặng.Cồn nhỏ thì “lơ thơ”.Gió nhẹ và buồn đìu hiu: “lơ thơ cồn nhỏ,gió đìu hiu”.Khác nào câu thơ trong “Chinh phụ ngâm”: “Non kì quạnh quẽ trăng treo – Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò?”.Các từ láy: lơ thơ,đìu hiu;vần lưng: nhỏ – gió gợi cả cái hắt hiu,buồn tha thiết.Không 1 âm thanh,1 tiếng động,1 tiếng vọng nào từ làng xa.Bầu trời thăm thẳm như soi xuống đáy tràng giang, không gian 2 chiều “sâu chót vót”.Con người càng nhỏ bé,cô đơn trước 1 không gian: “sông dài, trời rộng, bến cô liêu”.Câu thơ bảy từ với ba nét vẽ.Thật hàm súc cổ điển.

– Khổ 3 lại nói về tràng giang.Không cầu cũng không đò.Sông đã dài lại thêm mênh mông. Cảnh đôi bờ rất đẹp nhưng vẫn thấm sâu một nỗi buồn xa vắng: “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.Trung tâm của bức tranh là “bèo dạt”.Chẳng có mây trôi,chỉ có “bèo dạt về đâu hàng nối hàng”.Một nét vẽ tượng trưng thứ hai đem đến liên tưởng những kiếp ng lưu lạc,trên dòng đời. Đúng là sầu nhân thế, vạn cổ sầu như 1 nhà thơ lãng mạng thường nói:

“có phải sầu vạn cổ

Chất trong hồn chiều nay?” (Chiều – Hồ DZếch)

Hai tiếng “về đâu”gợi tả 1 nỗi buồn mơ hồ, ngơ ngác. Chỉ biết hỏi mình chẳng biết hỏi ai. Cô đơn và buồn đến thế là cùng!

– Khổ 4 nói về hòang hôn:

“lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa,

Lòng quê dợn vời non nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

1 cái nhìn xa vời đến mọi phía chân trời.Cánh chim như chở nặng bóng chiều đang nghiêng cánh nhỏ.Mây lớp lớp đùn lên như những núi bạc.Cảnh tượng tráng lệ.Cánh chim nhỏ nhoi tương phản với bầu trời bao la,với lớp lớp núi mây bạc nhằm đặc tả nỗi cô đơn.Chữ “đùn”gợi nhớ 1 tứ thơ Đường “Tái thượng phong vân tiếp địa âm”(thu hứng) – Nguyễn Công Trứ dịch: “Mặt đẩt mây đùn cửa đi Hoàng hôn phủ mờ tràng giang.Con nước làm xúc động lòng quê.Nhà thơ Thôi Hiệu vào 13 thế kỉ trước,đứng trên lầu Hòang hạc,ngắm sông Hán Dương,lòng thổn thức “trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”.Với Huy Cận,chiều nay trên tràng giang,nỗi buồn nhớ quê nhà nhân lên nhiều lần thấm thía : “k khói hòang hôn cũng nhớ nhà”.Nỗi nhớ quê,nhớ nhà mênh mang như gửi về mọi phía chân trời và đang trôi theo tràng giang.

III.Kết bài: chốt ý

I. Mở bài:

Giới thịêu Huy Cận và bài thơ Tràng giang.

II.Thân bài:

1. Cảm hứng chủ đạo được thi nhân nói rõ ở câu đề từ: “bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”.Một thiên nhiên bao la mênh mông,một dòng sông dài không rõ đâu là nguồn đâu là cửa sông.Một nỗi niềm “bâng khuâng”,một tấm lòng tha thiết “nhớ”đứng trước vũ trụ, nhìn “trời rộng” và ngắm “sông dài”.

2. Bài thơ có 4 khổ, mỗi khổ như 1 bài thất ngôn tứ tuyệt hoàn chỉnh. Cảnh và tình giao hòa,cảnh đẹp mà buồn man mác.

– Khổ một, sóng gợn buồn,từng lớp từng lớp như lan tỏa “điệp điệp”, lòng người. Con thuyền và vệt nước song song: “thuyền về nước lại”gợi 1 nỗi buồn chia phôi “sầu trăm ngả”.Một cành củi khô trôi trên tràng giang tượng trưng cho sự chết chóc,chia lìa.Vần thơ đầy ám ảnh.

– Khổ 2 gợi tả 1 k gian mênh mông,vắng lặng.Cồn nhỏ thì “lơ thơ”.Gió nhẹ và buồn đìu hiu: “lơ thơ cồn nhỏ,gió đìu hiu”.Khác nào câu thơ trong “Chinh phụ ngâm”: “Non kì quạnh quẽ trăng treo – Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò?”.Các từ láy: lơ thơ,đìu hiu;vần lưng: nhỏ – gió gợi cả cái hắt hiu,buồn tha thiết.Không 1 âm thanh,1 tiếng động,1 tiếng vọng nào từ làng xa.Bầu trời thăm thẳm như soi xuống đáy tràng giang, không gian 2 chiều “sâu chót vót”.Con người càng nhỏ bé,cô đơn trước 1 không gian: “sông dài, trời rộng, bến cô liêu”.Câu thơ bảy từ với ba nét vẽ.Thật hàm súc cổ điển.

– Khổ 3 lại nói về tràng giang.Không cầu cũng không đò.Sông đã dài lại thêm mênh mông. Cảnh đôi bờ rất đẹp nhưng vẫn thấm sâu một nỗi buồn xa vắng: “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.Trung tâm của bức tranh là “bèo dạt”.Chẳng có mây trôi,chỉ có “bèo dạt về đâu hàng nối hàng”.Một nét vẽ tượng trưng thứ hai đem đến liên tưởng những kiếp ng lưu lạc,trên dòng đời. Đúng là sầu nhân thế, vạn cổ sầu như 1 nhà thơ lãng mạng thường nói:

“có phải sầu vạn cổ

Chất trong hồn chiều nay?” (Chiều – Hồ DZếch)

Hai tiếng “về đâu”gợi tả 1 nỗi buồn mơ hồ, ngơ ngác. Chỉ biết hỏi mình chẳng biết hỏi ai. Cô đơn và buồn đến thế là cùng!

– Khổ 4 nói về hòang hôn:

“lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa,

Lòng quê dợn vời non nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

1 cái nhìn xa vời đến mọi phía chân trời.Cánh chim như chở nặng bóng chiều đang nghiêng cánh nhỏ.Mây lớp lớp đùn lên như những núi bạc.Cảnh tượng tráng lệ.Cánh chim nhỏ nhoi tương phản với bầu trời bao la,với lớp lớp núi mây bạc nhằm đặc tả nỗi cô đơn.Chữ “đùn”gợi nhớ 1 tứ thơ Đường “Tái thượng phong vân tiếp địa âm”(thu hứng) – Nguyễn Công Trứ dịch: “Mặt đẩt mây đùn cửa đi Hoàng hôn phủ mờ tràng giang.Con nước làm xúc động lòng quê.Nhà thơ Thôi Hiệu vào 13 thế kỉ trước,đứng trên lầu Hòang hạc,ngắm sông Hán Dương,lòng thổn thức “trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”.Với Huy Cận,chiều nay trên tràng giang,nỗi buồn nhớ quê nhà nhân lên nhiều lần thấm thía : “k khói hòang hôn cũng nhớ nhà”.Nỗi nhớ quê,nhớ nhà mênh mang như gửi về mọi phía chân trời và đang trôi theo tràng giang.

III.Kết bài: chốt ý

Chọn tập
Bình luận