Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Văn Mẫu Lớp 11

Phân tích “Đời thừa” của Nam Cao

Tác giả: Sachvui.Com
Thể loại: Sách Giáo Khoa
Chọn tập

DÀN Ý

I. Mở bài: Giới thiệu tác giả , tác phẩm (… )

II. Thân bài:

1. Nhân vật Từ:

– Ngọai hình: rất ít được miêu tả. Phần cuối chỉ có một vài nét vẽ, là một người đàn bà “bạc mệnh”: da mặt xanh nhợt, môi nhợt nhạt, mi mắt hơi tim tím, mắt có quầng, má hơi hóp lại…bàn tay lủng củng rặt những xương. Cổ tay mỏng mảnh. Làn da mỏng, xanh trong, xanh lọc…Đó là hình ảnh của người thiếu phụ nhiều lo lắng, thiếu thốn về mặt vật chất, vẻ đẹp thời con gái đã tàn phai.

– Lỡ làng vì tình phụ. Cảnh Từ ôm con sau ngày đẻ, nhịn đói, mẹ già bị mù, “cả mẹ lẫn con chỉ có một cách là khóc cho đến khi nào bao nhiêu thịt đều chảy ra thành nước mắt hết, để rồi cùng chết cả”.

– Từ là hội tụ bao đức tính tốt đẹp của người vợ yêu chồng, người mẹ thương con. Dịu dàng, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh. Từ hiểu rằng Hộ khổ là vì Từ. Từ chén nước đến cử chỉ lời nói, chị đã giành cho Hộ bíêt bao tình thương yêu. Bị Hộ say rượu hắt hủi, đánh đuổi nhưng Từ vẫn yêu chồng, không thể ôm con mà bỏ đi được vì ngòai tình yêu thì Hộ còn là ân nhân của Từ. “Từ yêu chồng bằng một thứ tình yêu rất cần với tình của một con chó đối với người nuôi”.

– Phần cuối truyện, Từ ôm lấy cổ chồng nói: “…không!… anh chỉ là một người khổ sở…chính vì em mà anh khổ…”. Nàng ru con qua dòng nước mắt…cho thấy Từ là một người bạc mệnh, nhưng bản tính dịu dàng, giàu đức hi sinh.

– Nam Cao với trái tim nhân đạo đã miêu tả sâu sắc tâm hồn nhân hậu của Từ, cảm thông với nỗi đau của Từ, của bao người phụ nữ “bạc mệnh”và đau khổ trong xã hội cũ. Tiếng ru con của Từ là tiếng thương, là nỗi đau buồn về cuộc đời bi kịch của người phụ nữ: sống trong tình yêu mà ít có hạnh phúc!

2. Nhân vật Hộ:

a. Hộ là con người giàu tình thương

– Hộ đã hành động một cách cao đẹp là “nuôi Từ, nuôi mẹ già, con dại cho Từ”.

Lúc mẹ Từ qua đời, Hộ đứng ra làm ma, rất chu đáo. Hộ nhận Từ làm vợ, nhận làm bố đứa con thơ…Như một nghĩa cử cao đẹp, Hộ đã cứu vớt mẹ con Từ. Biết bao nhiêu là ân nghĩa. Hộ sống vì tình thương, vì sự bao dung, chở che như chính anh quan niệm: “kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình”.

– Hộ là một người chồng thật sự yêu thương vợ con. Anh tính chuyện “phí đi một vài năm để kiếm tiền” lo cho Từ một cái vốn làm ăn. Những lúc Từ ốm, “Hộ lo xanh mặt và thức suốt đêm”. Chỉ xa các con vài ngày, lúc gặp lại chúng Hộ cảm động đến ứa nước mắt, “hôn hít chúng vồ vập”. Có lúc từ mồng mười đến cuối tháng, Hộ không dám bước ra khỏi nhà để bớt chi tiêu, hắn thương vợ phải có bữa nhịn cơm ăn cháo. Sắp nhận được tiền nhuận bút, Hộ thương đàn con thơ cả tháng “đói khát khổ sở, hôm nay có tiền cũng nên cho chúng một bữa ăn ra hồn”.

– Hộ là một nhà văn nhân đạo chủ nghĩa. Với Hộ thì trang văn là cuộc đời, thấm tình đời “phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình. Nó làm cho người gần hơn…”đó là một quan điểm rất tiến bộ, quan niệm “nghệ thụât vị nhân sinh”. Nhà văn phải vì con người và vì hạnh phúc của con người. Qua đó ta thấy, là con người xã hội, là nhà văn, là người chồng người cha, trong con người và tâm hồn Hộ đều tỏa sáng một tình nhân ái bao la. Anh đã sống và hành động, vun đắp cho hạnh phúc của con người.

b. Hộ là nhà văn trải qua một bi kịch tinh thần đau đớn, dai dẳng

– Hộ có tài, lúc đầu, anh viết thận trọng. Mang một hòai bão lớn, anh “băn khoăn nghĩ tới một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm cùng ra một thời”. Từ khi phải lo kiếm tiền nuôi vợ con, Hộ “cho in nhiều cuốn văn viết vội”, anh xấu hổ khi đọc lại văn mình, tự xỉ vả mình “là một thằng khốn nạn, là một kẻ bất lương!”Trước kia tin tưởng bao nhiêu thì giờ đau đớn, thất vọng bấy nhiêu. Hắn “rũ buồn”, lắc đầu tự bả : “thôi thế là hết! Ta đã hỏng! Ta đã hỏng đứt rồi”

– Văn chương đối với Hộ như là một cái nghiệp. Nợ áo cơm ghì sát đất, nhưng anh vẫn mê văn. Hộ nói, đọc được một câu văn hay mà hiểu được thì “dẫu ăn một món ăn ngon đến đâu cũng không bằng. Hộ điên người lên vì phải xoay tiền”nhưng hắn bảo “khổ thì khổ thật, nhưng thử có người giàu bạc vạn nào thụân đổi lấy cái vị trí của tôi, chưa chắc tôi đã đổi”.

– Mất dần cuộc đời hồn nhiên trong sáng, có lúc “chan chứa nước mắt, mặt hầm hầm”. Hắn đọc sách mà trông cũng dữ tợn: “đôi lông mày rậm…châu đầu lại với nhau…cái mặt hốc hác…”

– Hộ đã tìm đến rượu để giải sầu, càng ngày hắn càng lún sâu vào bi kịch, say rượu và đối xử vũ phu với vợ con. Vốn rất yêu vợ con nhưng có hôm say rượu hắn gườm gườm đôi mắt, đòi “vật một nhát cho chết cả”. Tỉnh rượu lại bẽn lẽn xin lỗi Từ, hứa chừa rượu, được một thời gian ngắn, lại say, lại đánh vợ, lại làm những chuyện vừa buồn cười, vừa đáng sợ như lần trước. Trở thành bê tha “hắn đã ngủ một nửa ngày từ khi còn ở dọc đường”, về đến nhà thì đổ xuống giường “như một khúc gỗ…ngủ say như chết”. Có điều lạ, Hộ rất “tỉnh” khi anh bàn lụân văn chương, rất biết đìêu và ân hận thực sự khi tỉnh rượu. Hắn nhìn Từ xanh xao mà thương hại, nắm lấy tay Từ mà khóc, “nước mắt hắn bật ra như một quả chanh mà người ta bóp mạnh. Và hắn khóc…Ôi chao! Hắn khóc! Hắn khóc nức nở…”Rồi hắn tự lên án mình “chỉ là…một thằng…. khốn nạn!”.

– Và câu hát ra còn thấm lệ của Từ như tô đậm thêm bi kịch của Hộ, của hai vợ chồng. Nỗi đau ấy được cực tả qua câu hát “cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thương”. Tiếng khóc của Hộ, tiếng khóc của Từ mang ý nghĩa tố cáo cái xã hội tàn ác đã cướp đi mọi mơ ước, đã đày cuộc sống của mỗi gia đình, đã đầu độc tâm hồn con người và làm méo mó mối quan hệ vốn tốt đẹp giữa người và người.

– Cũng qua nhân vật Hộ, Nam Cao đã thể hịên ngòi bút hiện thực vừa tỉnh táo, sắc lạnh, vừa nặng trĩu suy nigh và đằm thắm yêu thương. Nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật qua dòng độc thọai, qua tiếng khóc của Hộ và Từ vô cùng thấm thía về bi kịch của một tri thức nghèo, của một nhà văn nghèo trong xã hội cũ.

III. Kết bài:

DÀN Ý

I. Mở bài: Giới thiệu tác giả , tác phẩm (… )

II. Thân bài:

1. Nhân vật Từ:

– Ngọai hình: rất ít được miêu tả. Phần cuối chỉ có một vài nét vẽ, là một người đàn bà “bạc mệnh”: da mặt xanh nhợt, môi nhợt nhạt, mi mắt hơi tim tím, mắt có quầng, má hơi hóp lại…bàn tay lủng củng rặt những xương. Cổ tay mỏng mảnh. Làn da mỏng, xanh trong, xanh lọc…Đó là hình ảnh của người thiếu phụ nhiều lo lắng, thiếu thốn về mặt vật chất, vẻ đẹp thời con gái đã tàn phai.

– Lỡ làng vì tình phụ. Cảnh Từ ôm con sau ngày đẻ, nhịn đói, mẹ già bị mù, “cả mẹ lẫn con chỉ có một cách là khóc cho đến khi nào bao nhiêu thịt đều chảy ra thành nước mắt hết, để rồi cùng chết cả”.

– Từ là hội tụ bao đức tính tốt đẹp của người vợ yêu chồng, người mẹ thương con. Dịu dàng, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh. Từ hiểu rằng Hộ khổ là vì Từ. Từ chén nước đến cử chỉ lời nói, chị đã giành cho Hộ bíêt bao tình thương yêu. Bị Hộ say rượu hắt hủi, đánh đuổi nhưng Từ vẫn yêu chồng, không thể ôm con mà bỏ đi được vì ngòai tình yêu thì Hộ còn là ân nhân của Từ. “Từ yêu chồng bằng một thứ tình yêu rất cần với tình của một con chó đối với người nuôi”.

– Phần cuối truyện, Từ ôm lấy cổ chồng nói: “…không!… anh chỉ là một người khổ sở…chính vì em mà anh khổ…”. Nàng ru con qua dòng nước mắt…cho thấy Từ là một người bạc mệnh, nhưng bản tính dịu dàng, giàu đức hi sinh.

– Nam Cao với trái tim nhân đạo đã miêu tả sâu sắc tâm hồn nhân hậu của Từ, cảm thông với nỗi đau của Từ, của bao người phụ nữ “bạc mệnh”và đau khổ trong xã hội cũ. Tiếng ru con của Từ là tiếng thương, là nỗi đau buồn về cuộc đời bi kịch của người phụ nữ: sống trong tình yêu mà ít có hạnh phúc!

2. Nhân vật Hộ:

a. Hộ là con người giàu tình thương

– Hộ đã hành động một cách cao đẹp là “nuôi Từ, nuôi mẹ già, con dại cho Từ”.

Lúc mẹ Từ qua đời, Hộ đứng ra làm ma, rất chu đáo. Hộ nhận Từ làm vợ, nhận làm bố đứa con thơ…Như một nghĩa cử cao đẹp, Hộ đã cứu vớt mẹ con Từ. Biết bao nhiêu là ân nghĩa. Hộ sống vì tình thương, vì sự bao dung, chở che như chính anh quan niệm: “kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình”.

– Hộ là một người chồng thật sự yêu thương vợ con. Anh tính chuyện “phí đi một vài năm để kiếm tiền” lo cho Từ một cái vốn làm ăn. Những lúc Từ ốm, “Hộ lo xanh mặt và thức suốt đêm”. Chỉ xa các con vài ngày, lúc gặp lại chúng Hộ cảm động đến ứa nước mắt, “hôn hít chúng vồ vập”. Có lúc từ mồng mười đến cuối tháng, Hộ không dám bước ra khỏi nhà để bớt chi tiêu, hắn thương vợ phải có bữa nhịn cơm ăn cháo. Sắp nhận được tiền nhuận bút, Hộ thương đàn con thơ cả tháng “đói khát khổ sở, hôm nay có tiền cũng nên cho chúng một bữa ăn ra hồn”.

– Hộ là một nhà văn nhân đạo chủ nghĩa. Với Hộ thì trang văn là cuộc đời, thấm tình đời “phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình. Nó làm cho người gần hơn…”đó là một quan điểm rất tiến bộ, quan niệm “nghệ thụât vị nhân sinh”. Nhà văn phải vì con người và vì hạnh phúc của con người. Qua đó ta thấy, là con người xã hội, là nhà văn, là người chồng người cha, trong con người và tâm hồn Hộ đều tỏa sáng một tình nhân ái bao la. Anh đã sống và hành động, vun đắp cho hạnh phúc của con người.

b. Hộ là nhà văn trải qua một bi kịch tinh thần đau đớn, dai dẳng

– Hộ có tài, lúc đầu, anh viết thận trọng. Mang một hòai bão lớn, anh “băn khoăn nghĩ tới một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm cùng ra một thời”. Từ khi phải lo kiếm tiền nuôi vợ con, Hộ “cho in nhiều cuốn văn viết vội”, anh xấu hổ khi đọc lại văn mình, tự xỉ vả mình “là một thằng khốn nạn, là một kẻ bất lương!”Trước kia tin tưởng bao nhiêu thì giờ đau đớn, thất vọng bấy nhiêu. Hắn “rũ buồn”, lắc đầu tự bả : “thôi thế là hết! Ta đã hỏng! Ta đã hỏng đứt rồi”

– Văn chương đối với Hộ như là một cái nghiệp. Nợ áo cơm ghì sát đất, nhưng anh vẫn mê văn. Hộ nói, đọc được một câu văn hay mà hiểu được thì “dẫu ăn một món ăn ngon đến đâu cũng không bằng. Hộ điên người lên vì phải xoay tiền”nhưng hắn bảo “khổ thì khổ thật, nhưng thử có người giàu bạc vạn nào thụân đổi lấy cái vị trí của tôi, chưa chắc tôi đã đổi”.

– Mất dần cuộc đời hồn nhiên trong sáng, có lúc “chan chứa nước mắt, mặt hầm hầm”. Hắn đọc sách mà trông cũng dữ tợn: “đôi lông mày rậm…châu đầu lại với nhau…cái mặt hốc hác…”

– Hộ đã tìm đến rượu để giải sầu, càng ngày hắn càng lún sâu vào bi kịch, say rượu và đối xử vũ phu với vợ con. Vốn rất yêu vợ con nhưng có hôm say rượu hắn gườm gườm đôi mắt, đòi “vật một nhát cho chết cả”. Tỉnh rượu lại bẽn lẽn xin lỗi Từ, hứa chừa rượu, được một thời gian ngắn, lại say, lại đánh vợ, lại làm những chuyện vừa buồn cười, vừa đáng sợ như lần trước. Trở thành bê tha “hắn đã ngủ một nửa ngày từ khi còn ở dọc đường”, về đến nhà thì đổ xuống giường “như một khúc gỗ…ngủ say như chết”. Có điều lạ, Hộ rất “tỉnh” khi anh bàn lụân văn chương, rất biết đìêu và ân hận thực sự khi tỉnh rượu. Hắn nhìn Từ xanh xao mà thương hại, nắm lấy tay Từ mà khóc, “nước mắt hắn bật ra như một quả chanh mà người ta bóp mạnh. Và hắn khóc…Ôi chao! Hắn khóc! Hắn khóc nức nở…”Rồi hắn tự lên án mình “chỉ là…một thằng…. khốn nạn!”.

– Và câu hát ra còn thấm lệ của Từ như tô đậm thêm bi kịch của Hộ, của hai vợ chồng. Nỗi đau ấy được cực tả qua câu hát “cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thương”. Tiếng khóc của Hộ, tiếng khóc của Từ mang ý nghĩa tố cáo cái xã hội tàn ác đã cướp đi mọi mơ ước, đã đày cuộc sống của mỗi gia đình, đã đầu độc tâm hồn con người và làm méo mó mối quan hệ vốn tốt đẹp giữa người và người.

– Cũng qua nhân vật Hộ, Nam Cao đã thể hịên ngòi bút hiện thực vừa tỉnh táo, sắc lạnh, vừa nặng trĩu suy nigh và đằm thắm yêu thương. Nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật qua dòng độc thọai, qua tiếng khóc của Hộ và Từ vô cùng thấm thía về bi kịch của một tri thức nghèo, của một nhà văn nghèo trong xã hội cũ.

III. Kết bài:

Chọn tập
Bình luận