Dàn ý chi tiết:
1. Thời gian và không gian
1. 1. Thời gian:
– Thời gian nơi phố huyện nhỏ trong truyện ngắn Hai đứa trẻ dương như ngưng đọng, vì sự trôi đi hết sức chậm chạp:Tiếng trống thu không gọi buổi chiều về. Buổi chiều như còn mải mê ở tận đâu. Đến tiếng trống thu không cũng chẫm rãi, gọi nhưng chưa phải là thúc giục.
– Thời gian ấy là một sinh thể già cỗi, đánh giấu sự tàn lụi, già nua. Khi mặt trời sắp tắt, đó là cái giờ khắc của ngày tàn. Khi chợ vãn, tức là lúc sự hoạt động của con người đã hết, cũng là khi đêm đã khuya.
Thời gian ở phố huyện vì thế giới chung quanh con người. Còn chính trong thế giới của con người, âm thanh đó cũng ít ỏi chẳng kém gì. Khi chợ vãn thì những tiếng ồn ào cũng mất theo bước chân của con người. Lúc trời nhá nhem tối, cái chợ “tự khát” mọc lên. Người ta trao đổi với nhau, nhưng có lời ma không có tiếng. Có chăng là tiếng cười khanh khách của bà cụ Thi, một bà già hơi điên, Đó là thứ tiếng duy nhất phát ra, nhưng người ta không thấy người vì không dám nhìn, hoặc không cần ngoảnh lại cũng biết là ai.
1. 2. Không gian
– Không gian nơi phố huyện vào buổi chiều tối là không gian mà bốn tối chiếm dần, chiếm đầy. Đến đôi mắt của con người (Liên), bóng tối cũng ngập đầy dần. Thứ bóng tối ấy trong truyện, được nhà văn miêu tả như một nhân vật. Nó chẫm rãi bước tới nhưng không ai cưỡng lại được. Ban đầu, người ta biết nó đến khi tiếng trống thu không vang lên, lớn dần, nhiều hơn khi trời nhá nhem, rồi chứa đầy các đường phố và các con ngõ con. Chưa đủ, cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng nơi đâu cũng tối hết cả. Tới khi bóng tối bao bọc chung quanh thì phố huyện trở thành thế giới của bóng tối.
– Trong cái không gian chứa đầy bóng tối ấy, sự hiện diện của ánh sáng càng làm bóng tối sẫm đen hơn. Ánh sáng mặt trời đỏ rực như lửa của hòn than sắp tàn. Chống lại bóng tối, con người thắp đèn lên. Nhưng những ánh đèn leo lét khiến chi họ thêm lẻ loi, đơn chiếc trong một thế giới mà bóng tối đang lần lượt: Những nguồn sáng ấy đều chiếu ra ngoài phố khiến cát lấp lánh từng chỗ và đường mấp mô thêm vì những hòn đá nhỏ một bên sáng, một bên tối. Ánh đèn nơi gánh phở của bác Siêu chỉ là chiếu sáng nhỏ một vùng đất cát với trong cửa hàng. Ánh sáng ngọn đèn của Liên, ngọn đèn vặn nhỏ thưa thớt từng hạt sáng lọt qua phến nứa. Về phía huyện, chỉ thấy một chấm lửa nhỏ và lơ lửng đi trong đêm tối.
2. Bức tranh đời sống con người :
2. 1 Sự nghèo khổ:
– Trẻ con nhà nghèo lom khom trên mặt đất đẻ nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, hay bất cứ thư gì có thể dùng được của những người bán hàng để lại.
– Phố đêm nhưng chỉ cái hàng nước của chị Tý; gánh phở của bác Siêu; vợ chồng bác Xẩm.
– Chị em Liên :Cả nhà bỏ Hà Nội về quê, vì thầy Liên mất việc. Một gian nhà bé thuê lại của bà lão móm, ngăn ra bằng một tấm phên nứa dán giấy nhật trình ;bố mẹ Liên làm hàng xáo. Liên trông thấy trẻ em nghèo động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền để cho chúng nó.
2. 2 Sự đơn điệu:
– Công việc lặp lại, tẻ nhạt, có phần máy móc :Chị Tý hàng ngày đi mò cua bắt tép, tối đến mới dọn cái gánh hàng nước dưới gốc cây bàng, chả kiếm được bao nhiêu. Bác Siêu lặng lẽ gánh phở ra phố rồi lầm lũi gánh về. Khi đoàn tầu đi qua, hoạt động của một ngày chấm dứt, cả phố rơi vào bóng đêm.
– Sự đơn điệu, tẻ nhạt hiện lên cả trên nét mặt, cử chỉ, lời nói của từng con người. Trong truyện, thỉnh thoảng có những mẩu đối thoại, nhưng lời đó là những lời chiếu lệ, bởi có lẽ ngày nào người ta cũng hỏi và trả lời những câu đấy. Thành ra, khi Liên hỏi Tý vì sao dọn hàng muộn thì chị Tý để chõng xuốn đất, bày biện các bát uống nước mãi rồi mới chép miệng trả lời trả lời. Sau khi kê xong chõng, ghế, dịch ngọn đèn Hoa Kì lại ngồi têm trầu trong lúc thằng con loay hoay nhóm lửa nấu nồi nước chè, bấy giờ chị Tý mới ngẩng đầu lên nói với Liên câu thứ hai trong buổi tối. Mà đó là một trong ba câu nói của chị Tý trong buổi tối rất dài từ lúc mặt trời chưa tắt đến giữa khuya!
Sự đơn điệu không riêng gì ở Tý. Một buổi chiều tối bác Siêu chỉ nói có hai câu. Câu trước là lời đáp vẩn vơ :Hôm nay là lúc bác nghển cổ nhìn ra phía ga lên tiếng: Đèn ghi đã ra kia rồi. Ngay cả chị em Liên, những người trẻ nhất ở phố huyện, sự đơn điệu còn hiện ra ở cách tính toán hàng bán cuối ngày, trong dánh đi, dáng ngồi.
Sự vô vọng:
– Cuộc sống ngưng đọng, con người sống tẻ nhạt. Người ta buồn không rõ nguyên do gì cụ thể, nhưng bàng bạc, man mác hết cõi lòng. Người cảm nhận sâu sắc nhất nỗi buồn ấy chính là Liên. Cứ mỗi chiều, khi đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần thì cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn thơ ngây của chị. Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn.
– Con người không có gì để chờ đợi, mơ ước ngoài việc hằng đêm trông thấy chuyến tàu đi qua. Nhưng đoàn tầu ấy đến rồi đi thoáng chốc để lại phố huyện tịch mịch và đầy bóng tối.
3. Cảm nhận về bức tranh đời sống nơi phố huyện nghèo:
3. 1. Đó là bức tranh chân thật và đầy xúc động về số đông những con người bình thường trong xã hội cũ, trước năm 1945. Họ không chỉ nghèo khó về vật chất mà còn thiếu thốn cả niềm vui tinh thần.
3. 2. Phản ánh chân thực bức tranh đời sống ấy, Thạch Lam đã âm thầm bày tỏ tiếng nói đầy thương đối với những kiếp người nhỏ bé mcơ cực, sống quẩn quanh, bế tắc không hạnh phúc, không tương lai, những con người bị chôn vùi trong những kiếp sống vô danh, vô nghĩa ở xã hội cũ. Đây cũng chính là nét đặc sắc trong tư tưởng nhân đạo của Thạch Lam khi ông tỏ ra hết sức nhạy cảm với những thân phận bé nhỏ, những kiếp sống tù mù, dờ dật trong bóng tối.
Bài làm:
Nếu như các nhà văn thuộc Tự Lực Văn Đoàn miêu tả cuộc sống với tất cả những gì đẹp nhất, tronh sáng nhất thì Thạch Lam lại tìm cho mình một lối đi riêng. Dưới con mắt của ông, đời không chỉ có tình yêu mãnh liệt đến quên cả trời đất, quên cả mọi người mà còn có cả những nỗi đau. Ngòi bút Thạch Lam hoà cùng cuộc sống, lách vào sâu những ngõ ngách tâm hồn con người để từ đó chắt lọc ra cả một bức tranh đời sống nơi phố huyện nghèo (Hai đứa trẻ) mà ở đó bóng tối đè nặng lên cuộc sống cùng cực, lẩn quẩn của con người.
Bức tranh đời sống phố huyện bắt đầu với cảnh nhá nhem tối và kết thúc với cảnh chờ tầu của chị em Liên và mọi người. Toàn bộ bức tranh là bóng tối, bóng tối lan toả, bao trùm lên cảnh vật, tạo nên bầu không khí nặng nề, u uất. Dường như cuộc sống ở đây chỉ có một mầu đen xám xịt. Bóng tối ở rặng tre, bóng tối ở góc quán, bóngtối ở ánh sáng lập loè của đom đóm. Tất cả, tất cả đều chìm vào bóng tối. Cuộc sống con người nơi phố huyện vốn đã không sung túc gì lại bị màn đêm bao trùm, đè nặng lại càng trở nên côi cút, lẻ loi đến tội nghiệp. Đâu đó vài đứa trẻ nhặt nhạnh nơi góc chợ hoang vắng vào lúc nửa đêm. Chị em Liên quanh quẩn cùng quán hàng xén vốn đã vắng khách. Hàng phở của bác Siêu lặng lẽ lăn bánh… Những hình ảnh lẻ loi, đơn chiếc ấy cùng vài ánh sáng nhỏ nhoi không đủ để xua tan bóng tối dày đặc, lan toả đang dần đẻ lên cuộc sống của họ -những con người mà số lượng có thể đếm được trên đầu ngón tay “mấy chú”, “mấy người”. Bóng tối cùng người bạn đồng hành của mình là sự im lặng đã thống trị trên cõi người. Thời gian bỗng chốc trở nên im lặng, uất ức đén kỳ lạ. Không gian bị thu hẹp còn vài mảnh đời nho nhỏ. Không khí nặng nề như dồn nén bao nhiêu uất nghẹn của kiếp người. Bửctanh ấy gợi lên bao nỗi xót xa.
Nhưng Thạch Lam -người nghệ sĩ của tâm hồn ấy, không dừng lại ở khắc hoạ bóng tối. Bóng tối đã đáng sợ nhưng cuộc sống quẩn quanh ở góc phố còn đáng sợ hơn. Họ ở đây chỉ toàn những người nghèo. Đó là gia đình chị em Liên ở do túng quẫn mà phải về phố huyện. Đó là bà cụ Thi hơi điên;là gia đình bác Xẩm; là gánh hàng chị Tý; là quán phở của bác Siêu… Những mảnh đời nghèo khó nơi phố huyện tụ họp lại không đủ để làm nên cuộc sống ồn ào. Cả một sự tẻ nhạt đén kinh khủng hiện ra. Chỉ qua một chi tiết nhơ:Chị em Liên không ngoái lại cũng biết tiếng cười khanh khách của bà cụ Thi, nhìn đốm sáng xanh lúc ẩn lúc hiện đằng xa cũng biết là gánh phở của bác Siêu. Dường như bao năm, bao tháng rồi họ chỉ một công việc lặp đi lặp lại đó. Một công việc nhàm chán, tẻ nhạt như chính cuộc đời họ. Nhưng sự việc ấy làm cho cuộc sống của họ thêm tù túng, ngột ngạt, không có lối thoát, không biết đi đâu. Đối với họ, tương lai dường như không có mà chỉ có thực tại u buồn, quẫn bách. Trước mắt họ, tương lai đã khép kín cánh cửa. Họ không hy vọng điều gì, không ngóng đợi ai. Hiện tại chỉ là những nghèo khó, cơ cực, tù túng cùng những công việc nhàm chán. Bức tranh ấy xoay lên nỗi đau trong tâm hồn độc giả, bật lên thành những tiếng kêu uất ức mà không có lời giải đáp.
Tất cả những hành động, sự việc và cuộc đời con người ở phố huyện nghèo đều lặp lại và nhàm chán. Duy chỉ có con tàu tuy vẫn lặp lại nhưng không nhàm chán. Con tàu là hiện thân của ước vọng, của tương lai đối với mọi người. Ho tìm kiếm với con tàu, chờ đợi nó không phải chỉ để buôn bán mà còn đón chờ một cái gì lạ lẫm đối với cuộc sống chung quanh vốn đã đơn điệu. Con tàu đó với tiếng máy gầm phá tan bầu không khí vốn u uất lặng nề, với ánh sáng chói lọi, rực rrỡ xé toang màn đêm bao phủ rồi lại rơi vào tối tăm như cũ. Với chị em Liên, con tàu còn là hiện thân của quá khứ huy hoàng với cuộc sống sung túc ở Hà Nội, là chút gì mới mẻ ở hiện tại và cả niềm mơ ước ở tương lai. Hình ảnh con tàu vụt qua đã làm giảm bớt sự bế tắc tù túng của cuộc sống để lại ước mơ – một ước mơ hết sức tội nghiệp cho mỗi con người…
Nếu như nhà văn thuộc Tự Lực Văn Đoàn đã xa rời thực tại, thi vị hoá cuộc sống thì Thạch Lam lại gắn chặt với ngòi bút với đời sống, dù ông là thành viên củ cốt của văn đàn ấy. Nếu đồng nghiệp của ông ca ngợi tình yêu khi say đắm, khi đâu đớn, lúc xô bờ (Hồn bướm mơ tiên, trăng sáng, tình tuyệt vọng… )thì Thạch Lam lại đến với tình người. Văn chương Thạch Lam lay động đến cõi sâu thẳm của tâm hồn con người và thức tỉnh họ bằng những nỗi đau. Với phong cách vừa lãng mạn, vừa hiện thực, ngòi bút Thạch Lam thực sự xuất xắc khi viết về cuộc sống con người nghèo khổ, cùng nỗi đau âm thầm, nhẹ nhàng nhưng khi sắp sách lại ta không sao quên được. Không phải là những nụ cười đến thắt ruột, cười ra nước mắt của Nguyễn Công Hoan, không phải là cái xót xa đến tận xương tuỷ như Nam Cao nhưng những trang văn nhẹ nhàng, tinh tế và sâu lắng của Thạch Lam đã lột tả hết cuộc sống phố huyện và cũng là cuộc sống của xã hội Việt Nam tù túng, ngột ngạt đương thời, đem đến cho người đọc những tình cảm thương xót đầy tính nhân bản.
Dù chưa mạnh mẽ và nhất quán ở hành động như một số nhà văn giàu tính cách mạng, nhưng với quan niệm nghệ thuật sâu sắc và đúng đắn: Văn chương không phải là một cách để thoát ly hay lãng quên, mà trái lại, văn chương “phải thực sự là thứ vũ khí thanh cao và đắc lực”, là tiếng kêu thương thoát ra từ những kiếp lầm than, khổ cực, Thạch Lam đã khác xa với những nhà văn lãng mạn cùng thời và bức phù điêu quý giá ấy của ông nơi Hai đứa trẻ sẽ còn mãi xúc động đối với người đọc