Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Văn Mẫu Lớp 11

Nghị luận văn học: Tâm sự của Hồ Xuân Hương qua bài Tự tình 2

Tác giả: Sachvui.Com
Thể loại: Sách Giáo Khoa
Chọn tập

Đây là một cảnh trong đêm khuya, người đàn bà ngồi 1 mình không ngủ, não ruột cái thân lẻ chiếc, thiếu thốn yêu đương, xuân có trở về mà tình yêu thì mình chỉ được sẻ có 1 tí.

Hai câu thơ mở đầu là 1 cảnh ngộ, 1 tâm trạng tê tái:

”Canh khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non”

Câu đầu gây cảm giác lặng buồn dù có khua lên hồi trống canh văng vẳng. Âm thanh văng vẳng của tiếng trống từ 1 canh xa đưa lại, không những như thúc giục thời gian trôi qua nhanh mà còn báo hiệu sự vắng lặng và buồn bã. Tiếng trống dồn canh vẫn gợi buồn.

Chính trong bối cảnh ấy đã hiện ra con người của nhà thơ cô độc, trơ trọi:

“Trơ cái hồng nhan với nước non”

Hồng nhan là sắc mặt hồng, cách hoán dụ chỉ người phụ nữ đẹp: chữ cái nhằm cụ thể hóa đối tượng diễn tả. Trơ là lì ra, trơ ra như mất cảm giác. Nước non chỉ cả thế giới tự nhiên và xã hội. Các yếu tố ấy cùng thể hiện 1 tâm trạng cô đơn, quạnh quẽ rất mực của con người như trơ ra trước cảnh vật, trước mọi người tưởng như hóa đá, không còn cảm giác gì nữa. “Hồng nhan” mà đi với từ “cái” thì thật là rẻ rúng, mỉa mai. Nhịp thơ 1/3/3 góp phần nhấn mạnh vào sự tủi hổ của nhà thơ. Người đọc tưởng như nghe được từ hai câu thơ ấy cả những tiếng thở dài ngao ngán, tủi hổ về duyên phận hẩm hiu của người phụ nữ đa tài, đa tình ấy.

Hai câu tiếp theo:

“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”

Giữa đêm khuya, nhà thơ cảm thấy trống vắng cô đơn. Để quên đi nỗi buồn trơ trọi này, bà đã nhờ đến rượu, mượn chút hương nồng. Nhưng càng uống, bà càng tỉnh ra. Ngước lên ngắm trăng mà trăng đã xế bóng mà chưa lúc nào tròn. Bà cảm cảnh cho thân phận mình. Nghệ thuật đối trong hai câu thơ này thật tài tình, đăng đối, hô ứng nhau, cùng nhau làm nổi bật lên thân phận của một hồng nhan bạc mệnh tài hoa, nhan sắc mà phải chịu cảnh dở dang, cô đơn.

Tủi buông cho duyên phận mình, người phụ nữ đã trải qua biết bao đêm dài thao thức mong đợi, ước mơ. Ngày tháng cứ vô tình chồng chất thêm hy vọng đợi chờ, khao khát nhưng hạnh phúc vẫn mù tăm. Biết đến khi nào vần trăng lại tròn như biết bao tháng ngày đã mơ ước. Càng cô đơn, càng mong đợi mà càng mong đợi thì đau buồn càng lắng đọng thêm. Đó chính là bi kịch của người phụ nữ có duyên phận hẩm hiu.

Hai câu luận liền mạch thơ là lấy cảnh ngụ tình:

“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám

Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”

Hai câu thơ là hai hình ảnh mãnh liệt nêu bật một sự mạnh mẽ, phản kháng dữ dội. Rêu từng đám tuy bé nhỏ, mềm yếu mà cũng dám xiên ngang mặt đất, đá mấy hòn thôi mà cũng đâm toạc chân mây.

Hơn ai hết, nhà thơ vốn là người tự tin, yêu đời rất mực. Nhìn rêu đá, bà cũng cảm thấy chúng hoạt động mạnh mẽ, mang một sức sống đặc biệt nhưng cũng nhỏ bé và xa xôi quá. Hai câu thơ thể hiện rõ nét bản sắc, phong cách của Hồ Xuân Hương; bà luôn luôn cảm nhận sự vật dưới một cái nhìn mạnh mẽ hàm chứa một sức sống mãnh liệt dạt dào. Do đó mà cả rêu bé nhỏ, đá mấy hòn vô tri cũng tung hoành xiên ngang, đâm toạc. Dù đã trải qua nhiều bi kịch nhưng bà vẫn cố gắng gượng với đời. Phản ứng của bà mạnh mẽ và dữ dội nhưng thực tại vẫn đắng cay, chua chát. Phải sống trong một xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, xem phụ nữ là hạ đẳng chẳng chút gì xem trọng yêu thương thì bà phải lâm vào cảnh ngộ “lạnh lùng” chua xót là điều tất yếu. Thấm thía nỗi buồn riêng đó của mình, nhà thơ muốn cất lên tiếng nói nhằm đấu tranh cho mọi nữ giới đều được sống, đều được yêu thương, được cuộc đời hạnh phúc. Nhưng việc ấy đâu phải dễ dàng chi. Bởi ngay chính bà, vẫn đang phải gánh chịu một duyên phận hẩm hiu. Do vậy càng nghe tiếng trống dồn, càng ngắm trăng khuya xế bóng, càng nhìn rêu, nhìn đá đâm toạc, xiên ngang nhà thơ càng bị dồn đến cái kết cuộc chán nản, đau xót. Bà viết:

“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại”

Chữ xuân ở đây ngoài ý chỉ mùa xuân còn hàm ý chỉ tuổi trẻ, tuổi xuân. Theo nhịp tuần hoàn của trời đất, mùa xuân đi qua rồi sau đó còn trở lại “xuân đi xuân lại lại” nhưng tuổi xuân của con người thì chỉ một đi… để rồi “Ngày xanh mòn mỏi má hồng phai pha” (Truyện Kiều). Do vậy mà thấy mùa xuân tươi đẹp trở về, đáng lẽ con người phải hớn hở, vui mừng thì lại chỉ thấy thêm ê chề, ngao ngán bởi lẽ mỗi lần xuân về là một lần tuổi đời chồng chất thêm, tuổi xuân trôi đi hết mà bản thân mình chỉ một cái thân lẻ chiếc, thiếu thốn yêu thương, giả sử có tình yêu thì mình cũng chỉ được sẻ có một tí:

“Mảnh tình san sẻ tí con con”

Trong câu cuối cùng của bài thơ này, từng chữ đều thoáng ý ngậm ngùi, ấm ức: tình thì chỉ có một mảnh vì phải sẻ chia đâu dược tròn đầy, nguyên vẹn khác chi ánh trăng khuyết xế trong câu thơ trước. San sẻ chứ không phải trọn hưởng mà lại chua xót thay chỉ được san sẻ có chút xíu thôi: tí con con. Đã con con là rất nhỏ rồi mà còn có từ “tí” nghĩa là cực nhỏ. Mấy từ “tí con con” cực tả nỗi niềm riêng chua xót, ngán ngẩm của nhà thơ.

Đây là một cảnh trong đêm khuya, người đàn bà ngồi 1 mình không ngủ, não ruột cái thân lẻ chiếc, thiếu thốn yêu đương, xuân có trở về mà tình yêu thì mình chỉ được sẻ có 1 tí.

Hai câu thơ mở đầu là 1 cảnh ngộ, 1 tâm trạng tê tái:

”Canh khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non”

Câu đầu gây cảm giác lặng buồn dù có khua lên hồi trống canh văng vẳng. Âm thanh văng vẳng của tiếng trống từ 1 canh xa đưa lại, không những như thúc giục thời gian trôi qua nhanh mà còn báo hiệu sự vắng lặng và buồn bã. Tiếng trống dồn canh vẫn gợi buồn.

Chính trong bối cảnh ấy đã hiện ra con người của nhà thơ cô độc, trơ trọi:

“Trơ cái hồng nhan với nước non”

Hồng nhan là sắc mặt hồng, cách hoán dụ chỉ người phụ nữ đẹp: chữ cái nhằm cụ thể hóa đối tượng diễn tả. Trơ là lì ra, trơ ra như mất cảm giác. Nước non chỉ cả thế giới tự nhiên và xã hội. Các yếu tố ấy cùng thể hiện 1 tâm trạng cô đơn, quạnh quẽ rất mực của con người như trơ ra trước cảnh vật, trước mọi người tưởng như hóa đá, không còn cảm giác gì nữa. “Hồng nhan” mà đi với từ “cái” thì thật là rẻ rúng, mỉa mai. Nhịp thơ 1/3/3 góp phần nhấn mạnh vào sự tủi hổ của nhà thơ. Người đọc tưởng như nghe được từ hai câu thơ ấy cả những tiếng thở dài ngao ngán, tủi hổ về duyên phận hẩm hiu của người phụ nữ đa tài, đa tình ấy.

Hai câu tiếp theo:

“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”

Giữa đêm khuya, nhà thơ cảm thấy trống vắng cô đơn. Để quên đi nỗi buồn trơ trọi này, bà đã nhờ đến rượu, mượn chút hương nồng. Nhưng càng uống, bà càng tỉnh ra. Ngước lên ngắm trăng mà trăng đã xế bóng mà chưa lúc nào tròn. Bà cảm cảnh cho thân phận mình. Nghệ thuật đối trong hai câu thơ này thật tài tình, đăng đối, hô ứng nhau, cùng nhau làm nổi bật lên thân phận của một hồng nhan bạc mệnh tài hoa, nhan sắc mà phải chịu cảnh dở dang, cô đơn.

Tủi buông cho duyên phận mình, người phụ nữ đã trải qua biết bao đêm dài thao thức mong đợi, ước mơ. Ngày tháng cứ vô tình chồng chất thêm hy vọng đợi chờ, khao khát nhưng hạnh phúc vẫn mù tăm. Biết đến khi nào vần trăng lại tròn như biết bao tháng ngày đã mơ ước. Càng cô đơn, càng mong đợi mà càng mong đợi thì đau buồn càng lắng đọng thêm. Đó chính là bi kịch của người phụ nữ có duyên phận hẩm hiu.

Hai câu luận liền mạch thơ là lấy cảnh ngụ tình:

“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám

Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”

Hai câu thơ là hai hình ảnh mãnh liệt nêu bật một sự mạnh mẽ, phản kháng dữ dội. Rêu từng đám tuy bé nhỏ, mềm yếu mà cũng dám xiên ngang mặt đất, đá mấy hòn thôi mà cũng đâm toạc chân mây.

Hơn ai hết, nhà thơ vốn là người tự tin, yêu đời rất mực. Nhìn rêu đá, bà cũng cảm thấy chúng hoạt động mạnh mẽ, mang một sức sống đặc biệt nhưng cũng nhỏ bé và xa xôi quá. Hai câu thơ thể hiện rõ nét bản sắc, phong cách của Hồ Xuân Hương; bà luôn luôn cảm nhận sự vật dưới một cái nhìn mạnh mẽ hàm chứa một sức sống mãnh liệt dạt dào. Do đó mà cả rêu bé nhỏ, đá mấy hòn vô tri cũng tung hoành xiên ngang, đâm toạc. Dù đã trải qua nhiều bi kịch nhưng bà vẫn cố gắng gượng với đời. Phản ứng của bà mạnh mẽ và dữ dội nhưng thực tại vẫn đắng cay, chua chát. Phải sống trong một xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, xem phụ nữ là hạ đẳng chẳng chút gì xem trọng yêu thương thì bà phải lâm vào cảnh ngộ “lạnh lùng” chua xót là điều tất yếu. Thấm thía nỗi buồn riêng đó của mình, nhà thơ muốn cất lên tiếng nói nhằm đấu tranh cho mọi nữ giới đều được sống, đều được yêu thương, được cuộc đời hạnh phúc. Nhưng việc ấy đâu phải dễ dàng chi. Bởi ngay chính bà, vẫn đang phải gánh chịu một duyên phận hẩm hiu. Do vậy càng nghe tiếng trống dồn, càng ngắm trăng khuya xế bóng, càng nhìn rêu, nhìn đá đâm toạc, xiên ngang nhà thơ càng bị dồn đến cái kết cuộc chán nản, đau xót. Bà viết:

“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại”

Chữ xuân ở đây ngoài ý chỉ mùa xuân còn hàm ý chỉ tuổi trẻ, tuổi xuân. Theo nhịp tuần hoàn của trời đất, mùa xuân đi qua rồi sau đó còn trở lại “xuân đi xuân lại lại” nhưng tuổi xuân của con người thì chỉ một đi… để rồi “Ngày xanh mòn mỏi má hồng phai pha” (Truyện Kiều). Do vậy mà thấy mùa xuân tươi đẹp trở về, đáng lẽ con người phải hớn hở, vui mừng thì lại chỉ thấy thêm ê chề, ngao ngán bởi lẽ mỗi lần xuân về là một lần tuổi đời chồng chất thêm, tuổi xuân trôi đi hết mà bản thân mình chỉ một cái thân lẻ chiếc, thiếu thốn yêu thương, giả sử có tình yêu thì mình cũng chỉ được sẻ có một tí:

“Mảnh tình san sẻ tí con con”

Trong câu cuối cùng của bài thơ này, từng chữ đều thoáng ý ngậm ngùi, ấm ức: tình thì chỉ có một mảnh vì phải sẻ chia đâu dược tròn đầy, nguyên vẹn khác chi ánh trăng khuyết xế trong câu thơ trước. San sẻ chứ không phải trọn hưởng mà lại chua xót thay chỉ được san sẻ có chút xíu thôi: tí con con. Đã con con là rất nhỏ rồi mà còn có từ “tí” nghĩa là cực nhỏ. Mấy từ “tí con con” cực tả nỗi niềm riêng chua xót, ngán ngẩm của nhà thơ.

Chọn tập
Bình luận