Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Văn Mẫu Lớp 11

Nghị luận văn học: Lập luận điểm ở từng khổ của bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” và “Tràng Giang”

Tác giả: Sachvui.Com
Thể loại: Sách Giáo Khoa
Chọn tập

– Đây Thôn Vĩ Dạ:

+ Khổ 1, khung cảnh thiên nhiên rất gợi cảm, ánh nắng ban mai và vườn cây tươi tốt dễ tạo nên những tình cảm gắn bó và thiết tha với cuộc sống và kết hợp với đó là làng quê đất đai trù phú tạo cho tác giả tình yêu cuộc sống, yêu con người. Nguồn mạch thứ hai là tấm lòng yêu mến, tình yêu nửa thực, nửa hư như một mong ước muốn được bày tỏ. Chú ý là ở câu thơ mở đầu như một lời chào mời, một lời thăm hỏi hay một lời trách móc, dường như tất cả đều có và ẩn ý trong lời thơ.

+ Khổ 2, tứ thơ vận động theo cảm xúc ở bên trong rồi bộc lộ qua những hình ảnh phù hợp bên ngoài. Do đó, hình ảnh dòng nước trôi nhẹ, ngọn gió hiu hiu thổi, những cánh hoa bắp lay lay, nỗi buồn nhẹ nhưng không kém phần da diết, đây là một khung cảnh thiên nhiên có thực nhưng đồng thời cũng phản ảnh tâm trạng của chính tác giả.

+ Khổ 3, tác giả bộc lộ tâm trạng. Khách đường xa nhớ đến miền đất thân yêu này để tìm lại một hình ảnh, một kỉ niệm như đã có ở trong đời hay đúng hơn chỉ một niềm mong ước nhỏ bé. Tất cả như thực như hư; hình ảnh áo trắng của người con gái là hình ảnh đẹp gợi lên sự trong trắng, thanh khiết mà một số nhà Thơ Mới thường dùng. Câu thơ “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh” đã được dùng trong thơ xưa để nói lên cái hư ảo của kiếp người: “Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm”.

=> Tổng kết:

Nội dung

+ Khung cảnh thiên nhiên trời mây – sông nước đang chuyển mình vào đêm trăng với những chia lìa, phiêu tán, chơi vơi; đượm vẻ huyền ảo và buồn hiu hắt.

+ Hiện lên một cái tôi đang khát khao vượt thoát nỗi cô đơn, với niềm mong mỏi đầy phấp phỏng được gặp gỡ, sẻ chia, gắn bó.

– Nghệ thuật

+ Hình ảnh thơ vừa thực vừa ảo, có tính tượng trưng, giàu sức gợi.

+ Phối hợp tả cảnh ngụ tình với trực tiếp biểu cảm; kết hợp biến đổi nhịp điệu với biện pháp trùng điệp; dùng cấu trúc đối lập, phép nhân hoá, câu hỏi tu từ.

– Tràng Giang:

+ Khổ 1, sóng gợn buồn, từng lớp từng lớp như lan tỏa “điệp điệp”, lòng người. Con thuyền và vệt nước song song: “thuyền về nước lại” gợi lên một nỗi buồn chia phôi “sâu trăm ngả”. Một cành củi khô trôi nổi trên tràng giang tượng trung cho sự chết chóc, chia lìa. Vần thơ đầy ám ảnh.

+ Khổ 2, gợi tả một không gian mênh mông, vắng lặng. Cồn nhỏ thì “lơ thơ”. Gió nhẹ và buồn đìu hiu: “Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu. Khác nào câu thơ Chinh phụ ngâm: “Non kỳ quạnh quẽ trăng treo – Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”? Các từ láy: lơ thơ, đìu hiu; vần lưng: “nhỏ – gió” gợi cả cái hắt hiu, buồn thê thiết. Không một âm thanh một tiếng động, một tiếng vọng nào từ làng xa. Bầu trời thăm thẳm như soi xuống đáy tràng giang, không gian 2 chiều: sâu chót vót”. Con người càng nhỏ bé, cô đơn trước một không gian: “Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”. Câu thơ 7 từ với 3 nét vẽ. Thật hàm súc cổ điển.

+ Khổ 3, lại nói về tràng giang. Không cầu. Cũng không đò. Sông đã dài lại thêm mênh mông. Cảnh đôi bờ rất đẹp nhưng vẫn thấm sâu một nỗi buồn xa vắng: “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Trung tâm của bức tranh là “bèo dạt”. Chẳng có mây trôi, chỉ có “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng”. Một nét vẽ tượng trưng thứ hai đem đến liên tưởng những kiếp người lưu lạc, trên dòng đời. Đúng là sầu nhân thế, vạn cổ sầu . Hai tiếng “về đâu” gợi tả một nỗi buồn mơ hồ, ngơ ngác. Chỉ biết hỏi mình, chẳng biết hỏi ai. Cô đơn và buồn đến thế là cùng!

+ Khổ 4, nói về hoàng hôn: Một cái nhìn xa vời đến mọi phía chân trời. Cánh chim như chở nặng bóng chiều đang “nghiêng cánh nhỏ”. Mây lớp lớp đùn lên như những “núi bạc”. Cảnh tượng tráng lệ. Cánh chim nhỏ nhoi tương phản với bầu trời bao la, với lớp lớp núi mây bạc nhằm đặc tả nỗi buồn cô đơn. Chữ “đùn” gợi nhớ một tứ thơ Đường: “Tái thượng phong vân tiếp địa âm” (Thu hứng) – Nguyễn Công Trứ dịch: “Mặt đất mây đùn cửa ải xa”. Hoàng hôn phủ mờ tràng giang. Con nước làm xúc động lòng quê. Thôi Hiệu 13 thế kỷ trước, đứng trên lầu Hoàng Hạc, nhìn sông Hán Dương, lòng thổn thức: “Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”. Với Huy Cận, chiều nay trên tràng giang, nỗi buồn nhớ quê nhà nhiều lần nhân lên thấm thía: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Nỗi nhớ quê, nhớ nhà mênh mang như gửi về mọi phía chân trời và đang trôi theo tràng giang.

=> Tổng kết:

Nội dung

+ Bức tranh tràng giang vào lúc hoàng hôn tráng lệ mà rợn ngợp, với mây chiều chất ngất hùng vĩ, chim chiều nhỏ bé đơn côi.

+ Hiện lên một cái tôi trong tâm trạng bơ vơ, lạc lõng của kẻ lữ thứ, chẳng cần cơn cớ trực tiếp mà mong ước đoàn tụ vẫn cứ dậy lên như sóng trong lòng.

Nghệ thuật

+ Hình ảnh, ngôn từ, âm hưởng đậm chất cổ điển Đường thi.

+ Kết hợp thủ pháp đối lập truyền thống với phép đảo ngữ hiện đại, bút pháp tả cảnh giàu tính tạo hình.

– Đây Thôn Vĩ Dạ:

+ Khổ 1, khung cảnh thiên nhiên rất gợi cảm, ánh nắng ban mai và vườn cây tươi tốt dễ tạo nên những tình cảm gắn bó và thiết tha với cuộc sống và kết hợp với đó là làng quê đất đai trù phú tạo cho tác giả tình yêu cuộc sống, yêu con người. Nguồn mạch thứ hai là tấm lòng yêu mến, tình yêu nửa thực, nửa hư như một mong ước muốn được bày tỏ. Chú ý là ở câu thơ mở đầu như một lời chào mời, một lời thăm hỏi hay một lời trách móc, dường như tất cả đều có và ẩn ý trong lời thơ.

+ Khổ 2, tứ thơ vận động theo cảm xúc ở bên trong rồi bộc lộ qua những hình ảnh phù hợp bên ngoài. Do đó, hình ảnh dòng nước trôi nhẹ, ngọn gió hiu hiu thổi, những cánh hoa bắp lay lay, nỗi buồn nhẹ nhưng không kém phần da diết, đây là một khung cảnh thiên nhiên có thực nhưng đồng thời cũng phản ảnh tâm trạng của chính tác giả.

+ Khổ 3, tác giả bộc lộ tâm trạng. Khách đường xa nhớ đến miền đất thân yêu này để tìm lại một hình ảnh, một kỉ niệm như đã có ở trong đời hay đúng hơn chỉ một niềm mong ước nhỏ bé. Tất cả như thực như hư; hình ảnh áo trắng của người con gái là hình ảnh đẹp gợi lên sự trong trắng, thanh khiết mà một số nhà Thơ Mới thường dùng. Câu thơ “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh” đã được dùng trong thơ xưa để nói lên cái hư ảo của kiếp người: “Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm”.

=> Tổng kết:

Nội dung

+ Khung cảnh thiên nhiên trời mây – sông nước đang chuyển mình vào đêm trăng với những chia lìa, phiêu tán, chơi vơi; đượm vẻ huyền ảo và buồn hiu hắt.

+ Hiện lên một cái tôi đang khát khao vượt thoát nỗi cô đơn, với niềm mong mỏi đầy phấp phỏng được gặp gỡ, sẻ chia, gắn bó.

– Nghệ thuật

+ Hình ảnh thơ vừa thực vừa ảo, có tính tượng trưng, giàu sức gợi.

+ Phối hợp tả cảnh ngụ tình với trực tiếp biểu cảm; kết hợp biến đổi nhịp điệu với biện pháp trùng điệp; dùng cấu trúc đối lập, phép nhân hoá, câu hỏi tu từ.

– Tràng Giang:

+ Khổ 1, sóng gợn buồn, từng lớp từng lớp như lan tỏa “điệp điệp”, lòng người. Con thuyền và vệt nước song song: “thuyền về nước lại” gợi lên một nỗi buồn chia phôi “sâu trăm ngả”. Một cành củi khô trôi nổi trên tràng giang tượng trung cho sự chết chóc, chia lìa. Vần thơ đầy ám ảnh.

+ Khổ 2, gợi tả một không gian mênh mông, vắng lặng. Cồn nhỏ thì “lơ thơ”. Gió nhẹ và buồn đìu hiu: “Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu. Khác nào câu thơ Chinh phụ ngâm: “Non kỳ quạnh quẽ trăng treo – Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”? Các từ láy: lơ thơ, đìu hiu; vần lưng: “nhỏ – gió” gợi cả cái hắt hiu, buồn thê thiết. Không một âm thanh một tiếng động, một tiếng vọng nào từ làng xa. Bầu trời thăm thẳm như soi xuống đáy tràng giang, không gian 2 chiều: sâu chót vót”. Con người càng nhỏ bé, cô đơn trước một không gian: “Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”. Câu thơ 7 từ với 3 nét vẽ. Thật hàm súc cổ điển.

+ Khổ 3, lại nói về tràng giang. Không cầu. Cũng không đò. Sông đã dài lại thêm mênh mông. Cảnh đôi bờ rất đẹp nhưng vẫn thấm sâu một nỗi buồn xa vắng: “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Trung tâm của bức tranh là “bèo dạt”. Chẳng có mây trôi, chỉ có “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng”. Một nét vẽ tượng trưng thứ hai đem đến liên tưởng những kiếp người lưu lạc, trên dòng đời. Đúng là sầu nhân thế, vạn cổ sầu . Hai tiếng “về đâu” gợi tả một nỗi buồn mơ hồ, ngơ ngác. Chỉ biết hỏi mình, chẳng biết hỏi ai. Cô đơn và buồn đến thế là cùng!

+ Khổ 4, nói về hoàng hôn: Một cái nhìn xa vời đến mọi phía chân trời. Cánh chim như chở nặng bóng chiều đang “nghiêng cánh nhỏ”. Mây lớp lớp đùn lên như những “núi bạc”. Cảnh tượng tráng lệ. Cánh chim nhỏ nhoi tương phản với bầu trời bao la, với lớp lớp núi mây bạc nhằm đặc tả nỗi buồn cô đơn. Chữ “đùn” gợi nhớ một tứ thơ Đường: “Tái thượng phong vân tiếp địa âm” (Thu hứng) – Nguyễn Công Trứ dịch: “Mặt đất mây đùn cửa ải xa”. Hoàng hôn phủ mờ tràng giang. Con nước làm xúc động lòng quê. Thôi Hiệu 13 thế kỷ trước, đứng trên lầu Hoàng Hạc, nhìn sông Hán Dương, lòng thổn thức: “Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”. Với Huy Cận, chiều nay trên tràng giang, nỗi buồn nhớ quê nhà nhiều lần nhân lên thấm thía: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Nỗi nhớ quê, nhớ nhà mênh mang như gửi về mọi phía chân trời và đang trôi theo tràng giang.

=> Tổng kết:

Nội dung

+ Bức tranh tràng giang vào lúc hoàng hôn tráng lệ mà rợn ngợp, với mây chiều chất ngất hùng vĩ, chim chiều nhỏ bé đơn côi.

+ Hiện lên một cái tôi trong tâm trạng bơ vơ, lạc lõng của kẻ lữ thứ, chẳng cần cơn cớ trực tiếp mà mong ước đoàn tụ vẫn cứ dậy lên như sóng trong lòng.

Nghệ thuật

+ Hình ảnh, ngôn từ, âm hưởng đậm chất cổ điển Đường thi.

+ Kết hợp thủ pháp đối lập truyền thống với phép đảo ngữ hiện đại, bút pháp tả cảnh giàu tính tạo hình.

Chọn tập
Bình luận