Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm. Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản

Bách Khoa Thư Lịch Sử

Bắc Mỹ (1460–1600)

Tác giả: Kingfisher
Chọn tập

BẮC MỸ (1460–1600)

Bắc Mỹ là vùng đất của nhiều dân tộc khác nhau, mỗi dân tộc có truyền thống, lối sống và nền văn hóa riêng. Sự xuất hiện của người châu Âu là thảm họa đối với họ.

Người thuộc các bộ lạc Iroquois thường đeo mặt nạ trong các dịp nghi lễ quan trọng của bộ lạc. Những chiếc mặt nạ của họ thường thể hiện các sinh vật thần thoại.

Khi những người châu Âu đầu tiên tới châu Mỹ vào thế kỷ XVI, nơi đây từng có nhiều triệu người châu Mỹ bản xứ sống thành hàng trăm bộ lạc và nhiều quốc gia. Họ không nghĩ rằng họ sở hữu đất đai mà cho rằng đất đai được giữ gìn chung cho cả bộ lạc. Mỗi bộ lạc đều có tập quán, ngôn ngữ và lối sống riêng, tùy theo nơi sinh sống của bộ lạc đó. Ví dụ, người Cheyenne và người Pawnee ở vùng Đồng bằng Lớn (Great Plains), nơi có nhiều thú rừng như bò rừng bison, thì có lối sống du cư, săn bắn và đặt bẫy. Những người thợ săn ở Đồng bằng Lớn đôi khi ngụy trang bằng da thú khi săn mồi. Họ bắt thú lấy thịt và cũng lấy da để may quần áo, làm lều ở. Những bộ lạc sống ở ven biển hoặc ven hồ thì đóng xuồng gỗ và đi đánh cá. Những bộ lạc ở miền rừng thì sống thành làng, trồng cây lương thực, chăn nuôi gia súc, săn bắn và đánh bắt cá.

Nhà thám hiểm Pháp Jacques Cartier (1491–1557) đã đi thuyền ngược sông St Lawrence thuộc Canada ngày nay và tuyên bố vùng này thuộc chủ quyền của Pháp. Một trong những thủy thủ của ông đã vẽ bản đồ thị trấn Hochelaga thuộc bộ tộc Huron, nay là thành phố Montreal.

Ở miền Tây Nam, người dân sống trong các ngôi làng gọi là pueblo, xây đập tưới nước cho các vùng đất khô cằn để trồng ngô, bí, đậu. Họ xây dựng đường sá và thiết lập các xã hội phức tạp cũng như những tập quán tín ngưỡng vững chắc. Họ buôn bán với người Aztec và các dân tộc bản xứ khác.

Dọc theo sông Mississippi, một nền văn minh đô thị tiên tiến phát triển mạnh, tuy từ năm 1450 trở đi đã bắt đầu suy tàn. Người dân vùng Mississippi cung cấp cho các quốc gia của người bản xứ châu Mỹ công cụ lao động, vải, các vật quý giá và hàng hóa mang về từ những nơi xa.

Một số quốc gia của người bản xứ châu Mỹ dựng vật tổ (totem) thờ thần linh trong thiên nhiên, thường là có hình chim đại bàng ở trên đỉnh, tượng trưng cho khả năng nhìn xa trông rộng của thần linh.

Người dân dọc bờ biển phía Đông sống bằng nghề trồng ngô, đậu và thuốc lá trong những khoảnh đất quanh làng, tham gia buôn bán và đổi hàng lấy hàng trong phạm vi địa phương. Ở miền Đông Bắc, các cánh đồng và khu đất khai hoang của thổ dân châu Mỹ gợi cho người định cư châu Âu nhớ về quê hương họ, chính vì thế vùng này được đặt tên là “New England” (“xứ Anh mới”). Nhiều bộ lạc hình thành các liên minh (hay các quốc gia) gắn kết với nhau bằng quan hệ huyết thống, các truyền thống chung hoặc thỏa thuận chính trị. Đôi khi sự bất đồng giữa các bộ lạc dẫn tới chiến tranh khốc liệt.

Người dân vùng rừng Đông Bắc làm giày da có trang trí và ống điếu nghi lễ để dùng trong các dịp đặc biệt.
Bộ lạc Miami ở Ohio dùng da sống và lông thú để may quần áo. Da thú được cạo sạch và trải căng, rồi được cắt và khâu thành quần áo và giày da moccasin. Phụ nữ làm hầu hết công việc nội trợ và trồng cây lương thực, nhưng họ cũng có quyền quyết định các vấn đề của bộ lạc.
Các dân tộc ở châu Mỹ rất đa dạng. Bản đồ này mô tả nơi sinh sống của những bộ lạc bản xứ chính ở châu Mỹ vào năm 1500, trước khi người châu Âu tới và bắt đầu đuổi họ khỏi quê hương của mình. Vào thời gian này, có khoảng sáu triệu kẻ bản xứ ở Bắc Mỹ. Con số này giảm mạnh khi những kẻ mới tới định cư tràn qua hướng Tây lục địa.
Người Chippewa sống trong những ngôi lều (wigwam) làm bằng cành cây uốn cong, lợp ngoài bằng da thú hoặc vỏ một loại cây giống cây bulô để tránh giá lạnh mùa đông.

NGƯỜI CHÂU ÂU XUẤT HIỆN

Cũng như người Aztec và Inca, không một bộ lạc bản xứ nào ở châu Mỹ biết đến ngựa hoặc phương tiện vận chuyển có bánh xe trước khi người châu Âu tới. Kiến thức của họ về kim loại còn hạn chế, hầu hết công cụ của họ làm bằng gỗ hoặc đá. Khí giới của họ là cung tên, súng cao su và giáo mác. Thời gian đầu, một số bộ lạc rất thân thiện với người châu Âu, thậm chí còn giúp đỡ họ trong cuộc sống. Nhưng tình hình thay đổi theo chiều hướng bất hạnh cho người bản xứ khi có thêm những người châu Âu hiếu chiến tới định cư. Nhiều ngôi làng của người bản xứ dần chết sạch vì các bệnh dịch do người châu Âu mang tới như đậu mùa và sởi. Nhiều người khác bị giết trong các cuộc tranh chấp, những người còn lại thì bị đuổi khỏi quê hương họ.

Bắc Mỹ là vùng đất của nhiều dân tộc khác nhau, mỗi dân tộc có truyền thống, lối sống và nền văn hóa riêng. Sự xuất hiện của người châu Âu là thảm họa đối với họ.

Khi những người châu Âu đầu tiên tới châu Mỹ vào thế kỷ XVI, nơi đây từng có nhiều triệu người châu Mỹ bản xứ sống thành hàng trăm bộ lạc và nhiều quốc gia. Họ không nghĩ rằng họ sở hữu đất đai mà cho rằng đất đai được giữ gìn chung cho cả bộ lạc. Mỗi bộ lạc đều có tập quán, ngôn ngữ và lối sống riêng, tùy theo nơi sinh sống của bộ lạc đó. Ví dụ, người Cheyenne và người Pawnee ở vùng Đồng bằng Lớn (Great Plains), nơi có nhiều thú rừng như bò rừng bison, thì có lối sống du cư, săn bắn và đặt bẫy. Những người thợ săn ở Đồng bằng Lớn đôi khi ngụy trang bằng da thú khi săn mồi. Họ bắt thú lấy thịt và cũng lấy da để may quần áo, làm lều ở. Những bộ lạc sống ở ven biển hoặc ven hồ thì đóng xuồng gỗ và đi đánh cá. Những bộ lạc ở miền rừng thì sống thành làng, trồng cây lương thực, chăn nuôi gia súc, săn bắn và đánh bắt cá.

Ở miền Tây Nam, người dân sống trong các ngôi làng gọi là pueblo, xây đập tưới nước cho các vùng đất khô cằn để trồng ngô, bí, đậu. Họ xây dựng đường sá và thiết lập các xã hội phức tạp cũng như những tập quán tín ngưỡng vững chắc. Họ buôn bán với người Aztec và các dân tộc bản xứ khác.

Dọc theo sông Mississippi, một nền văn minh đô thị tiên tiến phát triển mạnh, tuy từ năm 1450 trở đi đã bắt đầu suy tàn. Người dân vùng Mississippi cung cấp cho các quốc gia của người bản xứ châu Mỹ công cụ lao động, vải, các vật quý giá và hàng hóa mang về từ những nơi xa.

Người dân dọc bờ biển phía Đông sống bằng nghề trồng ngô, đậu và thuốc lá trong những khoảnh đất quanh làng, tham gia buôn bán và đổi hàng lấy hàng trong phạm vi địa phương. Ở miền Đông Bắc, các cánh đồng và khu đất khai hoang của thổ dân châu Mỹ gợi cho người định cư châu Âu nhớ về quê hương họ, chính vì thế vùng này được đặt tên là “New England” (“xứ Anh mới”). Nhiều bộ lạc hình thành các liên minh (hay các quốc gia) gắn kết với nhau bằng quan hệ huyết thống, các truyền thống chung hoặc thỏa thuận chính trị. Đôi khi sự bất đồng giữa các bộ lạc dẫn tới chiến tranh khốc liệt.

Cũng như người Aztec và Inca, không một bộ lạc bản xứ nào ở châu Mỹ biết đến ngựa hoặc phương tiện vận chuyển có bánh xe trước khi người châu Âu tới. Kiến thức của họ về kim loại còn hạn chế, hầu hết công cụ của họ làm bằng gỗ hoặc đá. Khí giới của họ là cung tên, súng cao su và giáo mác. Thời gian đầu, một số bộ lạc rất thân thiện với người châu Âu, thậm chí còn giúp đỡ họ trong cuộc sống. Nhưng tình hình thay đổi theo chiều hướng bất hạnh cho người bản xứ khi có thêm những người châu Âu hiếu chiến tới định cư. Nhiều ngôi làng của người bản xứ dần chết sạch vì các bệnh dịch do người châu Âu mang tới như đậu mùa và sởi. Nhiều người khác bị giết trong các cuộc tranh chấp, những người còn lại thì bị đuổi khỏi quê hương họ.

Chọn tập
Bình luận