Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm. Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản

Bách Khoa Thư Lịch Sử

Nhật Bản (1853–1913)

Tác giả: Kingfisher
Chọn tập

NHẬT BẢN (1853–1913)

Dưới thời mạc phủ nhà Tokugawa, Nhật Bản đóng cửa đối với người nước ngoài trong hơn 200 năm. Đến đầu thế kỷ XIX, nước này bắt đầu chịu ảnh hưởng của phương Tây.

Sau năm 1868, chính quyền Minh Trị cải thiện được các tiêu chuẩn giáo dục, vì vậy đến năm 1914, người Nhật Bản nằm trong số những dân tộc được giáo dục tốt nhất trên thế giới.

Trong nửa đầu thế kỷ XVII, những người cai trị Nhật Bản quyết định chấm dứt các cuộc tiếp xúc với phương Tây vì sợ rằng các nhà truyền giáo Ki-tô sẽ đưa quân đội châu Âu sang xâm chiếm Nhật Bản. Vì vậy, họ cấm hầu như toàn bộ người nước ngoài vào Nhật Bản và cấm người Nhật Bản ra nước ngoài. Do đó, người phương Tây không thể đánh giá được vẻ đẹp rực rỡ của nghệ thuật Nhật Bản ở thời kỳ này cho tới tận giữa hay thậm chí cuối thế kỷ XIX. Năm 1853, tổng thống thứ 13 của Mỹ là Millard Fillmore đã phái bốn tàu chiến do phó đề đốc (chuẩn tướng hải quân) Matthew Perry chỉ huy, thực hiện cuộc hành trình lịch sử từ Mỹ tới Nhật Bản với mục đích mở mang thương mại.

Những con tàu sơn đen thuộc hạm đội của phó đề đốc Perry là những tàu thủy chạy bằng hơi nước đầu tiên mà người Nhật Bản nhìn thấy. Họ hiểu rằng họ sẽ không thể đánh bại được các tàu này.

Các tàu chiến thả neo ở Vịnh Tokyo. Vẻ hăm dọa của lực lượng hải quân Mỹ đã giúp Perry thuyết phục được người Nhật Bản nối lại quan hệ buôn bán với phương Tây. Người Nhật Bản ấn tượng trước tàu thủy chạy bằng hơi nước của Matthew Perry và những máy móc khác mà ông cho họ xem. Năm 1854, hai nước ký Hiệp ước Kanagawa, theo đó Nhật Bản đồng ý mở hai hải cảng cho Mỹ vào buôn bán.

Chẳng bao lâu sau, Nhật Bản cũng phải ký các hiệp ước “bất bình đẳng” tương tự với Anh, Hà Lan và Nga. Nhà Tokugawa bị các đối thủ trong nước chỉ trích vì đã ký các hiệp định không bình đẳng này và còn vì nhiều vấn đề khác mà họ không thể giải quyết.

Phó đề đốc Mỹ Matthew Perry (1794–1858) nổi tiếng là người đã mở cửa cho Nhật Bản buôn bán với Mỹ và phần còn lại của thế giới. Năm 1853, ông cùng bốn tàu chiến tới Nhật Bản và ký Hiệp ước Kanagawa với người Nhật Bản.
Bức tranh in mộc bản này của Nhật Bản mô tả hải cảng Yokohama của Nhật Bản vào cuối thế kỷ XIX. Sau khi Hiệp ước Kanagawa được ký kết, người Nhật Bản đồng ý mở các hải cảng cho Mỹ và một vài nước châu Âu vào buôn bán.
Quân Nga bỏ chạy sau trận Mukden (nay là Thẩm Dương, Trung Quốc). Tại đây quân Nhật Bản giành thắng lợi mang tính quyết định vào tháng 3 năm 1905. Thất bại nặng này đã làm nhụt nhuệ khí chiến đấu của quân Nga.

KHÔI PHỤC QUYỀN LỰC CỦA NHẬT HOÀNG

Người dân mệt mỏi vì tình trạng gần như bị cô lập hoàn toàn mà dòng họ Tokugawa áp đặt trong suốt một thời gian dài. Cuối cùng, năm 1868, nhà Tokugawa bị lật đổ và Nhật Hoàng Mutsuhito trở lại ngôi trị vì (thời kỳ Minh Trị Duy Tân). Sau khi Nhật Bản mở cửa cho phương Tây, nước này bắt đầu quá trình hiện đại hóa.

Mặc dù người Nhật Bản muốn giữ gìn một số truyền thống của mình, nhưng họ cũng rất tích cực học hỏi các nước công nghiệp phương Tây. Họ thay đổi và cải cách bộ máy chính quyền cũng như các trường học cho thích nghi với hoàn cảnh mới. Nhờ những tiến bộ trong hệ thống giáo dục, đến năm 1914, người Nhật Bản đã nằm trong số những dân tộc được giáo dục tốt nhất trên thế giới. Họ bắt đầu nhập khẩu máy móc và du nhập các ngành nghề mới như sản xuất vải bông. Nhiều người Nhật Bản tiếp nhận thời trang châu Âu. Họ học cách chơi âm nhạc châu Âu, mặc trang phục châu Âu. Đồng thời, người nước ngoài dần dần học cách tôn trọng những thành công và nền văn hóa của người Nhật Bản.

Cùng với công cuộc công nghiệp hóa đất nước, người Nhật Bản sớm bắt đầu bành trướng lãnh thổ. Họ tìm cách xâm chiếm Triều Tiên và hành động này đã dẫn tới cuộc chiến tranh giữa Nhật Bản và Trung Quốc năm 1894. Vì vấn đề này mà Nhật Bản cũng giao tranh với Nga vào các năm 1904–1905, và cuối cùng thôn tính được Triều Tiên năm 1910, trở thành nước hùng mạnh nhất trong khu vực. Đến năm 1913, Nhật Bản trở thành một cường quốc công nghiệp rất quan trọng và là nước đầu tiên ở châu Á đạt được những tiến bộ như vậy.

Tháng 5 năm 1905, hạm đội của Nhật Bản do đô đốc Togo chỉ huy đã tiêu diệt hạm đội của Nga. Diễn biến này dẫn tới việc ký kết Hiệp ước Portsmouth, đem lại cho người Nhật Bản quyền kiểm soát Triều Tiên.

Dưới thời mạc phủ nhà Tokugawa, Nhật Bản đóng cửa đối với người nước ngoài trong hơn 200 năm. Đến đầu thế kỷ XIX, nước này bắt đầu chịu ảnh hưởng của phương Tây.

Trong nửa đầu thế kỷ XVII, những người cai trị Nhật Bản quyết định chấm dứt các cuộc tiếp xúc với phương Tây vì sợ rằng các nhà truyền giáo Ki-tô sẽ đưa quân đội châu Âu sang xâm chiếm Nhật Bản. Vì vậy, họ cấm hầu như toàn bộ người nước ngoài vào Nhật Bản và cấm người Nhật Bản ra nước ngoài. Do đó, người phương Tây không thể đánh giá được vẻ đẹp rực rỡ của nghệ thuật Nhật Bản ở thời kỳ này cho tới tận giữa hay thậm chí cuối thế kỷ XIX. Năm 1853, tổng thống thứ 13 của Mỹ là Millard Fillmore đã phái bốn tàu chiến do phó đề đốc (chuẩn tướng hải quân) Matthew Perry chỉ huy, thực hiện cuộc hành trình lịch sử từ Mỹ tới Nhật Bản với mục đích mở mang thương mại.

Các tàu chiến thả neo ở Vịnh Tokyo. Vẻ hăm dọa của lực lượng hải quân Mỹ đã giúp Perry thuyết phục được người Nhật Bản nối lại quan hệ buôn bán với phương Tây. Người Nhật Bản ấn tượng trước tàu thủy chạy bằng hơi nước của Matthew Perry và những máy móc khác mà ông cho họ xem. Năm 1854, hai nước ký Hiệp ước Kanagawa, theo đó Nhật Bản đồng ý mở hai hải cảng cho Mỹ vào buôn bán.

Chẳng bao lâu sau, Nhật Bản cũng phải ký các hiệp ước “bất bình đẳng” tương tự với Anh, Hà Lan và Nga. Nhà Tokugawa bị các đối thủ trong nước chỉ trích vì đã ký các hiệp định không bình đẳng này và còn vì nhiều vấn đề khác mà họ không thể giải quyết.

Người dân mệt mỏi vì tình trạng gần như bị cô lập hoàn toàn mà dòng họ Tokugawa áp đặt trong suốt một thời gian dài. Cuối cùng, năm 1868, nhà Tokugawa bị lật đổ và Nhật Hoàng Mutsuhito trở lại ngôi trị vì (thời kỳ Minh Trị Duy Tân). Sau khi Nhật Bản mở cửa cho phương Tây, nước này bắt đầu quá trình hiện đại hóa.

Mặc dù người Nhật Bản muốn giữ gìn một số truyền thống của mình, nhưng họ cũng rất tích cực học hỏi các nước công nghiệp phương Tây. Họ thay đổi và cải cách bộ máy chính quyền cũng như các trường học cho thích nghi với hoàn cảnh mới. Nhờ những tiến bộ trong hệ thống giáo dục, đến năm 1914, người Nhật Bản đã nằm trong số những dân tộc được giáo dục tốt nhất trên thế giới. Họ bắt đầu nhập khẩu máy móc và du nhập các ngành nghề mới như sản xuất vải bông. Nhiều người Nhật Bản tiếp nhận thời trang châu Âu. Họ học cách chơi âm nhạc châu Âu, mặc trang phục châu Âu. Đồng thời, người nước ngoài dần dần học cách tôn trọng những thành công và nền văn hóa của người Nhật Bản.

Cùng với công cuộc công nghiệp hóa đất nước, người Nhật Bản sớm bắt đầu bành trướng lãnh thổ. Họ tìm cách xâm chiếm Triều Tiên và hành động này đã dẫn tới cuộc chiến tranh giữa Nhật Bản và Trung Quốc năm 1894. Vì vấn đề này mà Nhật Bản cũng giao tranh với Nga vào các năm 1904–1905, và cuối cùng thôn tính được Triều Tiên năm 1910, trở thành nước hùng mạnh nhất trong khu vực. Đến năm 1913, Nhật Bản trở thành một cường quốc công nghiệp rất quan trọng và là nước đầu tiên ở châu Á đạt được những tiến bộ như vậy.

Chọn tập
Bình luận