Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm. Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản

Bách Khoa Thư Lịch Sử

Thành Lập Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ (1763–1789)

Tác giả: Kingfisher
Chọn tập

Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com

THÀNH LẬP HỢP CHỦNG QUỐC HOA KỲ (1763–1789)

Người dân tại 13 thuộc địa ở châu Mỹ bất bình với ách cai trị của nước Anh. Họ chiến đấu giành độc lập và một quốc gia mới đã ra đời.

George Washington (1732–1799) phục vụ trong quân đội Anh tại Mỹ, sau đó trở thành Tổng tư lệnh của quân đội Mỹ mới được thành lập để chiến đấu chống lại Anh. Năm 1789, ông trở thành tổng thống đầu tiên của nước Mỹ.

Năm 1763, vào thời điểm kết thúc cuộc Chiến tranh Bảy năm, cả chính quyền Anh ở London và những người định cư Anh ở châu Mỹ đều cảm thấy thỏa mãn. Họ đã đánh bại Pháp, giành được lãnh thổ của Pháp ở Canada, cũng như chiếm cả vùng đất xa về phía Tây, tới tận sông Mississippi. Không còn bị Pháp đe dọa nên người định cư không còn cần đến chính phủ Anh bảo vệ.

Binh sĩ Anh là những quân nhân chuyên nghiệp được huấn luyện kỹ, trong khi quân Mỹ hầu hết là người tình nguyện. Nhưng quân Mỹ có động cơ chiến đấu rất cao vì họ thiết tha với sự nghiệp của mình. Hình bên trái là một người lính Anh mặc quân phục, còn hình bên phải là một người lính cách mạng Mỹ.

Nhưng người Anh muốn cai trị các lãnh thổ cũ của Pháp và muốn thu thuế cao hơn để trả lương cho những binh sĩ bảo vệ các vùng đất mới giành được này. Họ tăng thuế ở 13 thuộc địa. Nhưng hội đồng địa phương ở các thuộc địa cho rằng việc Anh đánh thuế các thuộc địa ở châu Mỹ là bất công, vì các thuộc địa không hề có tiếng nói trong việc điều hành chính phủ Anh. Họ cho rằng “bị đánh thuế mà không có người đại diện trong chính quyền là biểu hiện của chính thể độc đoán”. Các thuộc địa cấm mọi hoạt động nhập khẩu hàng hóa từ Anh, và vào ngày 4-7-1776, đại biểu của tất cả 13 thuộc địa đã thông qua bản Tuyên ngôn Độc lập khẳng định quyền tự quyết của họ.

Vụ “ném các thùng trà xuống biển” ở Boston năm 1773 là một hành động phản kháng mang tính tượng trưng đối với việc Anh đánh thuế ở châu Mỹ. Một nhóm người định cư ăn mặc giống thổ dân Mohawk, xông lên ba tàu thủy ở cảng Boston và quăng các thùng trà xuống biển. Người Anh trừng phạt bằng cách đóng cửa cảng Boston cho tới khi nhận được tiền bồi thường cho số trà bị mất. Nhưng việc này chỉ làm cho tình hình càng xấu hơn.
Trận đồi Bunker gần Boston năm 1775 là trận đánh quan trọng đầu tiên của Cách mạng Mỹ. Quân Anh giành thắng lợi nhưng bị thiệt hại nhiều gấp đôi về quân số so với quân Mỹ.
Huy chương Tự do được đúc để đánh dấu chiến thắng của người Mỹ trước người Anh vào năm 1781.

ĐỘC LẬP

Được tư tưởng của Thomas Jefferson dẫn dắt và chịu ảnh hưởng của phong trào Khai sáng, bản Tuyên ngôn Độc lập Mỹ năm 1776 viết: “Chúng tôi coi những điều sau đây là chân lý hiển nhiên. Đó là: tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, đều được Thượng đế ban cho những quyền bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ bắt đầu năm 1775. Thoạt đầu, quân Anh thắng thế mặc dù gặp phải khó khăn khi chiến đấu xa tổ quốc gần 5.000 km. Nhưng quân Mỹ có lợi thế vì chiến đấu ngay trên lãnh thổ của mình và tin vào sự nghiệp cách mạng. Năm 1781, tức sáu năm sau khi cuộc chiến bắt đầu, quân Anh đầu hàng ở Yorktown, Virginia, bị đội quân của George Washington đánh bại. Cuối cùng Anh công nhận nền độc lập của Mỹ trong Hiệp ước Paris, ký năm 1783.

Chuông Tự do ở Philadelphia được đúc làm biểu tượng của nền độc lập Mỹ.

HIẾN PHÁP MỸ

Năm 1783, sau khi ký hiệp ước hòa bình với người Anh, người dân của nước Mỹ (Hợp chủng quốc Hoa Kỳ) mới được thành lập cần phải quyết định làm thế nào để điều hành đất nước một cách tốt nhất. Họ quyết định sẽ có một tổng thống được bầu bốn năm một lần. Tổng thống sẽ điều hành đất nước với sự giúp đỡ của một Quốc hội (được chia thành Hạ viện tức Viện dân biểu, và Thượng viện gồm đại biểu của các bang) và một Tòa án Tối cao. Dự thảo Hiến pháp (một loạt các quy định pháp luật) của chính quyền mới bao hàm ba tuyên bố quan trọng về nước Mỹ.

Thomas Jefferson (1743–1826) trở thành tổng thống thứ ba của nước Mỹ vào năm 1801. Ông là một nhà lãnh đạo chính trị có những tư tưởng ảnh hưởng sâu sắc tới nền chính trị Mỹ.

Thứ nhất, Mỹ là một nhà nước liên bang. Những người định cư trên vùng đất mới đã chiến đấu chống lại người Anh nay sẽ đoàn kết cùng nhau điều hành đất nước của chính mình. Thứ hai, mỗi bang sẽ bầu ra hội đồng riêng và điều hành chính quyền bang theo cách họ muốn. Thứ ba, cả Tổng thống, Quốc hội lẫn Tòa án Tối cao đều không được phép điều khiển toàn chính quyền trung ương của nước Mỹ. Một hệ thống đối trọng và kiểm soát lẫn nhau sẽ đảm bảo rằng quyền lực được chia sẻ giữa ba nhánh chính quyền.

Đây là những tư tưởng mới chịu ảnh hưởng của phong trào Khai sáng và chưa từng được áp dụng trước đó. Dự thảo Hiến pháp mang tính cách mạng này trở thành luật vào năm 1789. Nước Mỹ mới được thành lập với lịch sử ngắn ngủi và những người dân có nhiều kỷ niệm đau buồn trong quá khứ, là nước cộng hòa dân chủ đích thực đầu tiên trên thế giới, được cai trị theo các đạo luật do tập thể quyết định. Chỉ sau đó 150 năm, Mỹ đã trở thành quốc gia dẫn đầu thế giới.


CÁC MỐC THỜI GIAN CHÍNH

1763 Chấm dứt Chiến tranh Bảy năm; Anh đưa quân tới Bắc Mỹ

1764 Luật Đường đánh thuế mật đường nhập khẩu

1765 Luật Tem tính thêm thuế đối với văn kiện tài liệu

1775 Chiến tranh Cách mạng Mỹ bắt đầu; trận đồi Bunker

1776 Tuyên ngôn Độc lập Mỹ

1781 Quân Anh đầu hàng ở Yorktown

1783 Anh công nhận nền độc lập của Mỹ

1787 Dự thảo Hiến pháp Mỹ được soạn xong

1789 Hiến pháp Mỹ trở thành luật. George Washington trở thành tổng thống đầu tiên của nước Mỹ

1801 Thomas Jefferson lên làm Tổng thống Mỹ

Bản dự thảo Hiến pháp đã được soạn trong một loạt hội nghị vào năm 1787. Trong số 55 đại biểu tham dự hội nghị, 39 đại biểu đã ký vào văn kiện này. Khi bản dự thảo đã được nhất trí, các bản sao của dự thảo được gửi tới từng bang để những người đứng đầu các bang ký vào.

Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com

Người dân tại 13 thuộc địa ở châu Mỹ bất bình với ách cai trị của nước Anh. Họ chiến đấu giành độc lập và một quốc gia mới đã ra đời.

Năm 1763, vào thời điểm kết thúc cuộc Chiến tranh Bảy năm, cả chính quyền Anh ở London và những người định cư Anh ở châu Mỹ đều cảm thấy thỏa mãn. Họ đã đánh bại Pháp, giành được lãnh thổ của Pháp ở Canada, cũng như chiếm cả vùng đất xa về phía Tây, tới tận sông Mississippi. Không còn bị Pháp đe dọa nên người định cư không còn cần đến chính phủ Anh bảo vệ.

Nhưng người Anh muốn cai trị các lãnh thổ cũ của Pháp và muốn thu thuế cao hơn để trả lương cho những binh sĩ bảo vệ các vùng đất mới giành được này. Họ tăng thuế ở 13 thuộc địa. Nhưng hội đồng địa phương ở các thuộc địa cho rằng việc Anh đánh thuế các thuộc địa ở châu Mỹ là bất công, vì các thuộc địa không hề có tiếng nói trong việc điều hành chính phủ Anh. Họ cho rằng “bị đánh thuế mà không có người đại diện trong chính quyền là biểu hiện của chính thể độc đoán”. Các thuộc địa cấm mọi hoạt động nhập khẩu hàng hóa từ Anh, và vào ngày 4-7-1776, đại biểu của tất cả 13 thuộc địa đã thông qua bản Tuyên ngôn Độc lập khẳng định quyền tự quyết của họ.

Được tư tưởng của Thomas Jefferson dẫn dắt và chịu ảnh hưởng của phong trào Khai sáng, bản Tuyên ngôn Độc lập Mỹ năm 1776 viết: “Chúng tôi coi những điều sau đây là chân lý hiển nhiên. Đó là: tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, đều được Thượng đế ban cho những quyền bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ bắt đầu năm 1775. Thoạt đầu, quân Anh thắng thế mặc dù gặp phải khó khăn khi chiến đấu xa tổ quốc gần 5.000 km. Nhưng quân Mỹ có lợi thế vì chiến đấu ngay trên lãnh thổ của mình và tin vào sự nghiệp cách mạng. Năm 1781, tức sáu năm sau khi cuộc chiến bắt đầu, quân Anh đầu hàng ở Yorktown, Virginia, bị đội quân của George Washington đánh bại. Cuối cùng Anh công nhận nền độc lập của Mỹ trong Hiệp ước Paris, ký năm 1783.

Năm 1783, sau khi ký hiệp ước hòa bình với người Anh, người dân của nước Mỹ (Hợp chủng quốc Hoa Kỳ) mới được thành lập cần phải quyết định làm thế nào để điều hành đất nước một cách tốt nhất. Họ quyết định sẽ có một tổng thống được bầu bốn năm một lần. Tổng thống sẽ điều hành đất nước với sự giúp đỡ của một Quốc hội (được chia thành Hạ viện tức Viện dân biểu, và Thượng viện gồm đại biểu của các bang) và một Tòa án Tối cao. Dự thảo Hiến pháp (một loạt các quy định pháp luật) của chính quyền mới bao hàm ba tuyên bố quan trọng về nước Mỹ.

Thứ nhất, Mỹ là một nhà nước liên bang. Những người định cư trên vùng đất mới đã chiến đấu chống lại người Anh nay sẽ đoàn kết cùng nhau điều hành đất nước của chính mình. Thứ hai, mỗi bang sẽ bầu ra hội đồng riêng và điều hành chính quyền bang theo cách họ muốn. Thứ ba, cả Tổng thống, Quốc hội lẫn Tòa án Tối cao đều không được phép điều khiển toàn chính quyền trung ương của nước Mỹ. Một hệ thống đối trọng và kiểm soát lẫn nhau sẽ đảm bảo rằng quyền lực được chia sẻ giữa ba nhánh chính quyền.

Đây là những tư tưởng mới chịu ảnh hưởng của phong trào Khai sáng và chưa từng được áp dụng trước đó. Dự thảo Hiến pháp mang tính cách mạng này trở thành luật vào năm 1789. Nước Mỹ mới được thành lập với lịch sử ngắn ngủi và những người dân có nhiều kỷ niệm đau buồn trong quá khứ, là nước cộng hòa dân chủ đích thực đầu tiên trên thế giới, được cai trị theo các đạo luật do tập thể quyết định. Chỉ sau đó 150 năm, Mỹ đã trở thành quốc gia dẫn đầu thế giới.

1763 Chấm dứt Chiến tranh Bảy năm; Anh đưa quân tới Bắc Mỹ

1764 Luật Đường đánh thuế mật đường nhập khẩu

1765 Luật Tem tính thêm thuế đối với văn kiện tài liệu

1775 Chiến tranh Cách mạng Mỹ bắt đầu; trận đồi Bunker

1776 Tuyên ngôn Độc lập Mỹ

1781 Quân Anh đầu hàng ở Yorktown

1783 Anh công nhận nền độc lập của Mỹ

1787 Dự thảo Hiến pháp Mỹ được soạn xong

1789 Hiến pháp Mỹ trở thành luật. George Washington trở thành tổng thống đầu tiên của nước Mỹ

1801 Thomas Jefferson lên làm Tổng thống Mỹ

Chọn tập
Bình luận